ĐỀ
TÀI IX
GIA ĐÌNH LÀ TRUNG TÂM
VÀ NGUỒN PHÁT SINH THIỆN HẢO XÃ HỘI
I. NHẬP ĐỀ
“Gia đình là trung tâm và nguồn phát sinh thiện hảo xã hội” là
đề tài thứ 9 trong loạt 12 đề tài mà Hội đồng Giáo hoàng về Gia
đình đề nghị cho chúng ta suy tư và trao đổi về Gia đình. Có lẽ
cách đặt tên đề tài hơi khó hiểu. Ý muốn nói là gia đình có mối
tương quan chặt chẽ với xã hội. Chúng ta biết Tông huấn ‘Đời sống
gia đình’ của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đưa ra bốn bổn
phận của gia đình Kitô hữu thì bổn phận thứ ba là “Gia đình Kitô
hữu tham gia vào việc phát triển xã hội” (xem ĐSGĐ, 43-48).
Vậy hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu (1) Thế nào là “Thiện
hảo xã hội”? (2) Nói “Gia đình là trung tâm và nguồn phát sinh
thiện hảo xã hội” là có ý nói gì? (3) Gia đình Kitô hữu có thêm
động lực và ý nghĩa gì mới để trở thành trung tâm và nguồn phát
sinh thiện hảo xã hội? (4) Để trở thành trung tâm và nguồn phát
sinh thiện hảo xã hội, gia đình Kitô hữu phải làm gì? (5) Để gia
đình trở thành trung tâm và nguồn phát sinh thiện hảo xã hội,
Giáo hội và xã hội phải làm gì cho gia đình?
II.
TRÌNH BÀY
1. Thế nào là “Thiện hảo xã hội”?
“Thiện hảo xã hội” hay “thiện ích xã hội” đồng nghĩa với một từ
được nhiều người dùng hơn, là “công ích” (bien commun). Đó là
tất cả mọi điều kiện, mọi tiện nghi về vật chất và tinh thần (văn
hóa, xã hội, giáo dục, chính trị, môi sinh và tôn giáo) mà một
xã hội con người có được nhờ sự đóng góp của mọi công dân, mọi
gia đình và mọi tổ chức trong xã hội ấy. Thí dụ: đường xá, cầu
cống, điện nước, các ngành nghệ thuật, các phương tiện truyền
thông (báo chí, phim ảnh, phát thanh truyền hình), bệnh viện,
trường học, nhà máy…. Các thành phần xã hội đóng góp vào việc
xây dựng công ích bằng nhiều cách khác nhau: trước hết là bằng
sự cống hiến lao động và tài năng, kế đến là bằng việc nộp thuế
qua lao động, sản xuất, dịch vụ, buôn bán sau cùng là bằng sự
dâng hiến của cải tiền bạc của những con người có lòng hảo tâm,
từ thiện.
2.
Nói ‘Gia đình là trung tâm và nguồn phát sinh thiện hảo xã hội’
có ý nói gì?
2.1 Trước hết, nói ‘Gia đình là trung tâm và nguồn phát sinh thiện
hảo xã hội’ có nghĩa là: giữa gia đình và xã hội, có mối tương
quan chặt chẽ:
“Gia đình được Đấng Tạo hóa đặt làm nguồn gốc và nền tảng cho
xã hội con người”, nên gia đình trở thành “tế bào đầu tiên và
sống động của xã hội”. (Sắc lệnh về Tông đồ giáo dân, 11; ĐSGĐ,
42).
Và
“Gia đình có những liên hệ chặt chẽ và sống động với xã hội vì
gia đình làm nền tảng cho xã hội và không ngừng tiếp sức cho xã
hội bằng việc phục vụ sự sống: chính giữa lòng gia đình đã sinh
ra các công dân, và chính trong gia đình mà các công dân ấy lần
đầu tiên thực tập các nhân dức xã hội, là sinh hồn cho sinh hoạt
và sự phát triển xã hội” (ĐSGĐ, 42).
2.2 Kế đến, nói ‘Gia đình là trung tâm và nguồn phát sinh thiện
hảo xã hội’ có nghĩa là: thiện hảo xã hội gắn liền với gia đình
và xuất phát từ đó. Thật vậy thiện hảo xã hội là do con người
tạo nên. Mà gia đình là trường học đầu tiên giáo dục con người
và cung cấp cho con người kinh nghiệm hiệp thông và chia sẻ, làm
nền tảng cho sự đóng góp của con người vào thiện hảo xã hội sau
này, như Tông huấn Đời sống gia đình khẳng định:
“Chính kinh nghiệm hiệp thông và chia sẻ phải là đặc điểm cho
đời sống thường nhật của gia đình, và tạo nên phần thiết yếu và
căn bản mà gia đình đóng góp cho xã hội.
“Các tương quan giữa những phần tử trong cộng đồng gia đình được
phát triển dưới dự thúc đầy và hướng dẫn của luật “cho không”
bằng cách kính trọng và vun trồng nơi mọi người cũng như nơi mỗi
người, ý thức về phẩm gía con người như nguồn giá trị duy nhất,
cụ thể hóa trong sự đón tiếp nồng nhiệt, gặp gỡ và đối thoại,
quảng đại sẵn sàng phục vụ vô vị lợi và tương trợ sâu xa…
“Như
vậy, phát huy sự hiệp thông đích thực giữa những ngôi vị có trách
nhiệm trong gia đình trở thành việc thực tập căn bản và không
thề thay thế được cho đời sống xã hội, một gương mẫu và là một
khích lệ cho các tương quan cộng đồng mở rộng, được đánh dầu bằng
các đức tính: kính trọng, công bằng, ý thức đối thoại, tình yêu.
“Bằng
cách ấy gia đình làm nên cái nôi và phương tiện hữu hiệu nhất
để nhân bản hóa và ngôi vị hóa xã hội: chính gia đình hoạt động
cách độc đáo và sâu xa cho công cuộc kiến tạo thế giới, giúp đem
lại một đời sống thực sự nhân đạo, cách riêng là bảo tồn và truyền
đạt các nhân đức và các “giá trị” (ĐSGĐ, 43).
2.3 Sau cùng nói ‘Gia đình là trung tâm và nguồn phát sinh thiện
hảo xã hội’ còn có nghĩa là đối với xã hội, gia đình chẳng những
có vai trò xã hội: “Gia đình dù biệt lập hay kết thành hiệp hội,
đều có thể và phải dấn thân cho nhiều công cuộc phục vụ xã hội,
cách riêng la lo cho những người nghèo và cho những người và hoàn
cảnh mà các tổ chức từ thiện và cứu tế công cộng không thể lo
hết được”.
mà
còn có vai trò chính trị nữa: “Vai trò xã hội của gia đình còn
được mời gọi diễn tả đưới hình thức can thiệp chính trị: chính
các gia đình là những kẻ đầu tiên phải làm sao để các luật lệ
và cơ chế của nhà nước không những không làm tổn thương các quyền
lợi và bổn phận của gia đình, nhưng cón nâng đỡ bảo vệ chúng một
cách tích cực” (ĐSGĐ, 44).
Chúng ta đã biết: mục đích chính của chính trị là xây dựng thiện
hảo xã hội hay công ích. Mỗi khi gia đình đóng vai trò chính trị
của mình đối với xã hội là để giúp xã hội đạt được thiện hảo lớn
hơn và đích thực hơn.
3.
Gia đình Kitô hữu có thêm động lực và ý nghĩa gì mới để trở thành
trung tâm và nguồn phát sinh thiện hảo xã hội?
3.1 Mô hình kiểu mẫu của cộng đoàn tín hữu đầu tiên trong Công
vụ Tông đồ:
“Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, hiệp thông
với nhau, tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng.
“Tất
cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ
đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo
nhu cầu.
“Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm
lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ
ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng
đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42.44-47).
3.2 Aân sủng và trách nhiệm của gia đình Kitô hữu đem lại động
lực và ý nghĩa mới cho gia đình Kitô hữu trong việc trở thành
trung tâm và nguồn phát sinh thiện hảo xã hội:
“Vai trò xã hội độc đáo của mọi gia đình cũng là vai trò xã hội
của gia đình Kitô hữu, nhưng theo một danh hiệu mới mẻ và đặc
biệt hơn, vì gia đình này được bí tích Hôn phối thiết lập. Khi
đảm nhận thực tại nhân loại của tình yêu vợ chồng trong mọi chiều
kích, Bí tích Hôn phối làm cho đôi bạn và cha mẹ Kitô hữu có klhả
năng sống ơn gọi giáo dân –và đó là trách nhiệm của họ- và do
đó có khả năng “tìm kiếm Nước Thiên Chúa cách chính xác qua việc
quản trị các thực tại trần thế mà họ đang xếp đặt theo ý Thiên
Chúa” (Hiến chế tín lý về Giáo hội, 31; ĐSGĐ, 47)
4.
Để trở thành trung tâm và nguồn phát sinh thiện hảo xã hội, các
gia đình Kitô hữu phải làm gì?
4.1 Để trở thành ‘trung tâm và nguồn phát sinh thiện hảo xã hội’,
điều đầu tiên gia đình phải có là ý thức mạnh mẽ và sâu sắc về
vai trò và trách nhiệm xã hội và chính trị của mình. Vai trò và
trách nhiệm ấy, một đàng do chính Thiên Chúa đã trao cho gia đình
khi đặt gia đình là nguồn gốc và nền tảng của xã hội, đàng khác
được Giáo hội cậy nhờ vì không có gia đình, Giáo hội không thể
thâm nhập vào môi trường đặc biệt này và làm cho xã hội trở thành
Vương quốc của Thiên Chúa được. Mỗi thành viên và cả gia đình
phải tạo ý thức cho mình và cho nhau bằng việc lắng nghe Lời Chúa,
học hỏi giáo lý và giáo huấn xã hội của Giáo hội và quan tâm đến
nhu cầu của những người chung quanh, nhất là của người nghèo.
4.2 Tiếp đến gia đình phải mỗi ngày một dấn thân hơn vào việc
biến đổi và thăng tiến xã hội về mọi mặt: kinh tế, xã hội, văn
hóa, chính trị, tôn giáo, tâm linh và môi sinh, bằng lao động
chân tay và trí óc, bằng cách làm cho các luật lệ, cơ chế xã hội
có nhiều tính nhân bản và dân chủ hơn. Làm như thế là gia đình
đóng vai trò làm muối men và ánh sáng của gia đình Kitô hữu và
xây dựng Nước Thiên Chúa trên trần gian vậy.
4.3 Vì vấn đề xã hội là của mọi người và vì những nỗ lực cá nhân
không thể đem lại kết quả mong muốn, nên gia đình Kitô hữu phải
liên kết với các gia đình khác - lương cũng như giáo – và với
các tổ chức xã hội có mục đích bênh vực quyền con người và phát
triển xã hội để tạo nên sức mạnh cần thiết.
4.4 Còn phải nhấn mạnh đến bổn phận của cha mẹ Kitô hữu trong
việc giáo dục con cái về vai trò và trách nhiệm xã hội và chính
trị của mình, về ý thức công dân và những nhân đức xã hội theo
tinh thần Kitô giáo.
5.
Để gia đình trở thành trung tâm và nguồn phát sinh thiện hảo xã
hội, Giáo hội và xã hội phải làm gì cho các gia đình?
5.1a Vai trò và trách nhiệm của Giáo hội toàn cầu: Chúng ta thấy
Giáo hội Công giáo La Mã và cách riêng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II luôn đi tiên phong trong việc bênh vực các gia đình. Chúng
ta kể ra đây một số sự việc nổi bật: tại giáo triều Vatican có
Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình (như một Bộ của Giáo hội Trung
Ương) đặc trách về các vấn đề gia đình; Thượng Hội đồng Giám mục
về Gia đình (1980); Tông huấn Đời sống Gia đình (1981); các Hội
nghị và các cuộc gặp gỡ của các gia đình; các tài liệu về gia
đình; các phát biểu của Đại diện Giáo hội ở Vatican, ở Diễn Đàn
Liên Hiệp quốc và ở các hội nghị quốc tế khác. Đặc biệt ngày 25.11.1983
Tòa Thánh đã công bố Bản Hiến Chương về những quyền của gia đình,
trong đó nêu 14 quyền mà những quyền quan trọng nhất được kể ra
dưới đây:
1o) Quyền được hiện hữu và được phát triển trong tư thế của gia
đình (quyền lập gia đình).
2o) Quyền được tự do kết hôn với người mình yêu.
3o) Quyền quyết định về số con cái.
4o) Quyền được sống từ giây phút đầu tiên cho đến giây phút cuối
cùng.
5o) Quyền giáo dục con cái.
6o) Quyền tồn tại và phát triển.
7o) Quyền sống theo xác tín tôn giáo.
8o) Quyền thi hành chức năng xã hội và chính trị.
9o) Quyền được hưởng một chính sách gia đình thỏa đáng.
10o) Quyền được hưởng một chế độ xã hội và kinh tế xứng đáng.
11o) Quyền có một chỗ ở thích hợp.
12o) Quyền được di trú và được đối xử tốt đẹp. (ĐSGĐ, 46).
5.1b Vai trò và trách nhiệm của Giáo hội Việt Nam: Hội đồng Giám
mục Việt Nam (HĐGMVN) đã nhiều lần lên tiếng về gia đình trong
những dịp hội nghị thường niên những năm vừa qua. Cách riêng trong
hội nghị thường niên năm nay, HĐGMVN đã công bố Thư Mục vụ về
Hôn nhân và Gia đình, ngày 11.10.2002. Việc mà mọi người mọi gia
đình có quyền trông chờ là các giáo phận và các giáo xứ thực hiện
những điều đã được Hội đồng Giam Mục Việt Nam hoạch định trong
Thư Mục vụ nói trên. Cụ thể:
* Ở cấp giáo phận có 5 công việc như sau:
(1o)
Xác định ‘hôn nhân và gia đình là ưu tiên hàng đầu’ trong đường
hướng mục vụ năm 2003 của giáo phận.
(2o) Hình thành Văn phòng mục vụ về hôn nhân và gia đình trong
giáo phận.
(3o) Soạn thảo một chương trình giáo lý hôn nhân.
(4o) Đào tạo một đội ngũ giáo lý viên vững vàng.
(5o) Kêu gọi sự cộng tác của giáo dân có khả năng chuyên môn về
các ngành có liên quan tới đời sống hôn nhân và gia đình.
*
Ở cấp giáo xứ cũng có 5 công việc như sau:
(1o) Tổ chức các lớp học hỏi về hôn nhân và gia đình, không chỉ
cho những người sắp bước vào đời sống hôn nhân gia đình mà cho
cả những người đang sống đời sống gia đình. Lý do là nội dung
và thời gian dành cho lớp/khóa chuẩn bị hôn nhân gia đình rất
hạn chế, không thể coi đó là đủ cho sự giáo dục gia đình về các
lãnh vực nhân bản và tâm linh.
(2o) Mời gọi sự cộng tác của giáo dân chuyên môn về các ngành
có liên quan tới đời sống hôn nhân và gia đình.
(3o) Đào tạo một đội ngũ giáo lý viên vững vàng.
(4o) Thành lập bộ phận chuyên trách về gia đình nằm trong Ban
Mục vụ giáo xứ.
(5o) Tổ chức các sinh hoạt mục vụ gia đình vào những dịp thuận
lợi.
4.2 Vai trò và trách nhiệm của xã hội: Nếu gia đình có vai trò
và trách nhiệm xã hội và chính trị đối với xã hội thì xã hội cũng
có trách nhiệm đối với gia đình. Trách nhiệm đó là gia đình phải
phục vụ gia đình:
“Tương quan chặt chẽ giữa gia đình và xã hội một đàng đòi hỏi
gia đình phải mở rộng và tham tham gia vào xã hội cũng như tham
gia vào việc phát triển xã hội, đàng khác lại đòi xã hội không
được thiếu sót trong bổn phận của mình là tôn trọng va thăng tiến
gia đình”
Cụ thể là: “Xã hội và đúng hơn nữa là quốc gia phải nhìn nhận
rằng gia đình là ‘một xã hội được hưởng một quyền lợi riêng biệt
và ưu tiên’ do đó trong những gì liên hệ giữa quốc gia và gia
đình, quốc gia có nghĩa vụ phải theo đúng nguyên tắc hỗ trợ gia
đình….
“Quốc
gia không được tước mất những trách nhiệm mà gia đình có thể tự
mình chu toàn một cách tốt đẹp…., trái lại phải hết sức tạo điều
kiện thuận lợi và khơi động những sáng kiến có trách nhiệm của
gia đình…., phải cung ứng cho các gia đình mọi sự trợ giúp – vềkinh
tế, xã hội, giáo dục, chính trị, văn hóa – mà các gia đình cần
để hoàn thành các nghĩa vụ một cách thật sự nhân bản” (ĐSGĐ, 45).
III.
KẾT LUẬN
Có nhận xét là người và gia đình Công giáo Việt Nam còn yếu kém
trong ý thức về vai trò và trách nhiệm xã hội và chính trị của
mình đối với xã hội và trong xã hội. Tình trạng ấy do nhiều nguyên
nhân, vừa chủ quan vừa khách quan. Nguyên nhân chủ quan là việc
giáo dục đức tin chưa toàn bộ khi việc dạy giáo lý nhấn mạnh đến
cách sống đạo trong nhà thờ nhiều hơn là cách sống đạo ngoài xã
hội. Thật ra thì việc dạy giáo lý nếu có nhắc đến vai trò và trách
nhiệm xã hội của Kitô hữu thì lại chỉ đề cập đến những việc có
tính xã hội như cứu trợ người nghèo, giúp đỡ người tàng tật ….
chứ chưa đề cao trách nhiệm thay đổi tình trạng và cơ chế xã hội
bất công, đàn áp, bóc lột. Nguyên nhân khách quan là hoàn cảnh
xã hội và chính trị không cho phép người và các gia đình Công
giáo chu toàn một số nhiệm vụ xã hội và chính trị của mình. Cả
hai nguyên nhân đều thúc đẩy chúng ta phải dấn thân nhiều và tích
cực hơn nữa để thay đổi tình trạng hiện nay.
IV.
CHIA SẺ
4.1 Oâng bà anh chị hãy chia sẻ với nhau những nỗ lực mà gia đình
mình đã thực hiện để chu toàn vai trò và trách nhiệm xã hội và
chính trị của gia đình mình.
4.2
Ông bà anh chị hãy chia sẻ với nhau cách mình giáo dục con cái
để giúp chúng trở thành những công dân gương mẫu.
V.
THỰC HÀNH
Mọi thành viên và cả gia đình tích cực tham dự các sinh hoạt tổ
dân phố, đoàn đội, giới, cứu trợ, xóa đói giảm nghèo, tạo công
ăn việc làm, chống tệ nạn xã hội, xây dựng tình đoàn kết liên
đới….. trong khu vực sống của gia đình, để chu toàn vai trò và
trách nhiệm xã hội và chính trị của gia đình Kitô hữu của mình.
|