|
NGÀY 2 THÁNG HAI
ĐỨC MẸ DÂNG CON VÀO ĐỀN THÁNH
Lễ Kính
Ngày
lễ này lúc đầu được mừng bên Giáo Hội Đông Phương, kính nhớ ‘cuộc
Gặp Gỡ.’ Vào thế kỷ VI, lễ này bắt đầu được mừng tại Tây Phương.
Ở Roma, ngày lễ mang đậm sắc thái sám hối; ở Pháp thì tổ chức
những cuộc rước nến và ban phép lành trọng thể, vì thế nhiều người
gọi là ‘lễ Nến.’ Sự kiện dâng Chúa vào Đền Thánh khép lại thời
gian kính nhớ cuộc giáng sinh, bằng sự kiện Đức Mẹ Đồng Trinh
dâng Chúa vào Đền Thánh, cùng với lời tiên báo của cụ già Simeon.
Từ đây các biến cố hướng về ngày Phục Sinh.
15.1
Đức Maria dâng Chúa Giêsu lên cho Chúa Cha.
Chúa mà ngươi đang tìm kiếm sẽ thình lình vào Đền Thánh; và sứ
thần giao ước mà ngươi đang mong đợi, kìa, Người đang đến, Chúa
các đạo binh phán.1
Chúa Giêsu vào Đền Thờ trong vòng tay Đức Maria, Mẹ Người. Theo
luật Do Thái, bốn mươi ngày sau khi chào đời, mọi con trai đầu
lòng phải được hiến dâng cho Thiên Chúa. Được Thánh Thần tác động,
ông Simêon và bà Anna đã nhận ra Đấng Cứu Thế trong hình hài một
con trẻ bình thường. Trong Đáp Ca hôm nay, Giáo Hội nhớ lại người
Do Thái đã hân hoan mừng đón Hòm Bia Giao Ước: Hỡi các cửa, hãy
ngẩng đầu lên; hỡi các cửa ngàn xưa, hãy vươn lên cao hơn nữa.
Hãy để Vua vinh quang ngự qua!2
Trong luật cũ có hai điều liên quan đến việc sinh con trai đầu
lòng. Theo luật Lêvi, người phụ nữ sinh con bị kể là ô nhơ. Trong
trường hợp sinh con trai, thời kỳ ô nhơ kéo dài bốn mươi ngày,
chấm dứt bằng nghi thức thanh tẩy. Về các con trai đầu lòng, sách
Xuất Hành qui định: Giavê phán cùng Moses rằng: Hãy hiến thánh
cho Ta mọi con đầu lòng: vật gì bất cứ, khi thông dạ mẹ, nơi con
cái Israel, dù là người hay vật, thì đều thuộc về Ta.’3 Điều luật
này tưởng nhớ sự kiện Thiên Chúa giải thoát dân Israel khỏi cảnh
nô lệ Ai Cập. Vì thế, mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên
Chúa và phải dành riêng cho Người, tức là phải phụng sự Người.
Tuy nhiên, sau khi việc phụng tự được dành riêng cho chi tộc Lêvi,
thì con trai đầu lòng thuộc các chi tộc khác không buộc phải lo
việc phụng tự nữa. Nhưng để tỏ ra chúng vẫn thuộc sở hữu của Thiên
Chúa, nên người ta đã thực hiện một nghi thức chuộc lại. Sách
Luật qui định con dân Israel phải hiến dâng một lễ vật tượng trưng
để chuộc lại con trai.
Đức Maria sẵn lòng hiến dâng Con cho Thiên Chúa Cha. Qua đó, Mẹ
lặp lại lời fiat, và một lần nữa, trao phó trọn đời mình cho Thiên
Chúa an bài sử dụng. Chúa Giêsu được hiến dâng lên Chúa Cha trên
tay của Mẹ Maria. Đây là cuộc hiến dâng đặc biệt nhất tại Đền
Thờ, và không bao giờ được lặp lại. Hơn ba mươi năm sau, Chúa
Giêsu đã hiến dâng chính thân Người, nhưng ngoài thành, trên đồi
Canvê.4
Ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hãy lặp lại sự hiến dâng của
chúng ta cho Thiên Chúa. Chúng ta hãy dâng lên Chúa trọn hữu thể,
tư tưởng, công việc, mọi sự chúng ta có, mọi việc chúng ta làm.
Chúng ta có thể thực hiện việc hiến dâng bằng nhiều cách khác
nhau. Hôm nay, chúng ta hãy mượn lời cầu nguyện sốt sắng của thánh
Alphonsus Ligouri: Lạy Nữ Vương của con, hôm nay, để noi gương
Mẹ, con muốn hiến dâng trái tim nghèo nàn của con cho Chúa… Xin
hãy hiến dâng con, như người con của Mẹ, lên cho Thiên Chúa hằng
hữu và cho Chúa Giêsu. Xin Mẹ cầu bầu, nhờ công nghiệp của Con
Chúa, và thần thế của Mẹ, để Người chấp nhận và coi con như kẻ
thuộc về Người.5
15.2
Chiếu soi cuộc sống bằng ánh sáng thập giá.
Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse lên Đền Thờ để chu toàn qui định của
lề luật. Vì không có tiền, các ngài buộc phải hiến dâng lễ vật
của người nghèo, tức là một cặp chim gáy.6 Vào giờ ấy, các ngài
đã gặp tiên tri Simeon, một người công chính và thánh đức, vẫn
mong đợi ơn an ủi cho Israel. Chúa Thánh Thần đã cho ông biết
điều vẫn còn kín nhiệm với hầu hết mọi người. Ông Simeon đã bồng
Hài Nhi trên tay và chúc tụng Thiên Chúa: Lạy Chúa, giờ đây theo
lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này ra đi bình an. Vì chính mắt
tôi đã được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân; đó là
ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel, dân
Ngài.
Thánh Bernard đã soạn một bài giảng cho ngày lễ này, trong đó
thánh nhân đề cập đến truyền thống rước nến có từ lâu đời.7 Hôm
nay, Đức Trinh Nữ Maria đã đem Chúa của Đền Thờ vào Đền Thờ. Thánh
Giuse đã dâng cho Thiên Chúa Nghĩa Tử yêu dấu của ngài. Bà Anna
cùng hợp lời tạ ơn. Bốn vị đã cử hành cuộc rước đầu tiên, cuộc
rước vui mừng sẽ được tiếp diễn mãi trên mọi miền của địa cầu.8
Các cuộc rước nến trong phụng vụ hôm nay nói lên đời sống của
mỗi tín hữu phải giãi chiếu ánh sáng cho người khác. Chúa Kitô
là ánh sáng cho thế gian. ‘Ánh sáng’ là một từ thường được dùng
để chỉ về sự sống và chân lý. Thiếu ánh sáng sẽ là cô đơn, nghi
nan, và lầm lạc. Chúa Kitô là Sự Sống cho thế gian và cho mọi
người, là Ánh Sáng chiếu soi, là Chân Lý giải thoát, là Tình Yêu
viên mãn… Mỗi khi cầm nến đi trong đoàn kiệu, chúng ta thông phần
vào ánh sáng của Chúa Kitô.
Cha mẹ Con Trẻ kinh ngạc về những điều được nói về Người. Đức
Maria lắng nghe lời ông Simeon tiên báo trong cùng một tâm trạng
như khi nghe lời sứ thần Gabriel và các mục đồng. Hài Nhi Mẹ đang
bồng trên tay chính là Ánh Sáng được Chúa Cha sai đến, ánh sáng
soi đường cho dân ngoại, vinh quang của Israel dân Chúa. Từ khi
lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, việc chúng ta tham dự vào sứ mạng
của Chúa Kitô tùy thuộc vào lòng quảng đại cá nhân của chúng ta.
Chúng ta phải học để hiến thân, để cháy sáng trước Thiên Chúa
như ngọn đèn trên giá hầu chiếu sáng cho những ai đi trong tối
tăm; như những ngọn đèn chầu gần bàn thờ, phát ra ánh sáng cho
đến khi giọt dầu sau cùng bị đốt cạn.9 Chúng ta có sống với Thiên
Chúa như thế hay chưa? Chúng ta đã hiến thân vô điều kiện, vô
giới hạn hay chưa? Lạy Chúa, cuộc sống con là cho Chúa. Con không
muốn sống nếu như cuộc sống này không đưa con đến gần Chúa hơn.
Thánh Bernard đã nhắn nhủ chúng ta đừng đến trước nhan Chúa với
hai bàn tay không.10 Bởi vì chúng ta thường chỉ có những của lễ
hèn mọn để dâng cho Chúa, vậy chúng ta hãy nhờ Đức Mẹ dâng những
của hèn mọn ấy lên cho Chúa, như hai con chim gáy. Hãy liên kết
những lễ vật nhỏ bé của chúng ta với lễ dâng của Chúa Kitô. Hãy
liên kết lời cầu nguyện của bạn với những lời cầu nguyện của Chúa,
hòa những giọt nước mắt của bạn trong những giọt nước mắt của
Chúa, những lần chay tịnh của bạn với những ngày chay tịnh của
Người. Như vậy, những của lễ hèn mọn bạn sẽ có giá trị vô cùng.
Một giọt nước nhỏ không là gì, chỉ là một giọt nước. Một giọt
nước nếu được rót vào bình rượu sẽ trở nên giá trị hơn nhiều.
Công lao vất vả của chúng ta cũng như thế. Tự chúng chỉ có giá
trị hèn mọn. Nhưng khi được liên kết với công nghiệp Chúa Kitô,
chúng sẽ có một giá trị khôn lường.11
15.3
Chúa Giêsu Kitô, dấu chỉ cho người ta chống đối.
Ông Simeon chúc lành cho hai ông bà và nói cùng Maria, Mẹ của
Hài Nhi, ‘Này đây Con Trẻ này được đặt lên làm cớ cho nhiều người
trong Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy, làm dấu chỉ cho người
ta chống đối. Còn về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn
bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người được bộc lộ.’12
Chúa Giêsu đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Tuy nhiên, Người lại
là một dấu chỉ cho người ta chống đối. Thời đại chúng ta đang
sống đây xác nhận mạnh mẽ sự thật về điều đã được ông Simeon tiên
báo: Chúa Giêsu vừa là ánh sáng chiếu soi cho nhân loại, vừa là
dấu chỉ cho người ta chống đối… Chúa Giêsu Kitô một lần nữa lại
tỏ mình cho nhân loại như ánh sáng soi cho thế gian. Phải chăng
Người lại không đồng thời trở nên một dấu chỉ cho người ta quyết
tâm chống đối hay sao?13 Không ai có thể đối xử hững hờ với Chúa
Kitô. Chúng ta nài xin Người hãy là Ánh Sáng và Hy Vọng cho chúng
ta.
Thánh Luca đã cẩn thận ghi lại lời tiên báo của ông Simeon nói
với Đức Maria. Lời tiên báo ấy tạo nên một liên kết giữa tương
lai của Mẹ và Con. Và một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua tâm hồn bà.14
Ghi nhớ những lời của ông Simeon, chúng ta hướng ánh nhìn từ Con
sang Mẹ, từ Chúa Giêsu sang Mẹ Maria. Mầu nhiệm liên kết này đã
hợp nhất Mẹ với Chúa Kitô, Chúa Kitô là ‘dấu chỉ cho người ta
chống đối,’ một điều thực sự vô cùng lạ lùng.15
Trong ngày dâng con vào Đền Thánh, Đức Maria đã biết rằng đời
Mẹ được gắn liền mật thiết với đời Con Mẹ. Lưỡi gươm ông Simeon
nói chính là sự thông phần của Đức Maria vào những đau khổ của
Con Mẹ. Chúa đã tử nạn trên thập giá vì tội lỗi chúng ta. Chính
tội lỗi chúng ta đã gây nên những khổ sầu cho Mẹ Maria. Vì thế,
chúng ta có bổn phận không những phải đền tạ Chúa, mà còn phải
đền tạ Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ là Mẹ chúng ta.16
|
|