Chúa Nhật 6 thường niên, Năm B
 
 


Suy Tư Tin Mừng trong tuần 11 thường niên năm B 14/6/2015

Tin Mừng (Mc 4: 26-34)
Người nói: "Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt.29 Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa."
Rồi Người lại nói: "Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được? Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng."
Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe. Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.
“Hôm nay có phải mùa Thu,
Mấy năm xưa đã phiêu du trở về.”
(dẫn từ thơ Đinh Hùng)
Nơi nhà thơ hôm nay, chính là mùa Thu. Mùa, của những phiêu du trở về, từ mấy năm xưa. Với nhà Đạo, nay mùa thường niên phụng vụ. Mùa, của những suy tư, nguyện cầu có Lời Chúa dẫn dắt.
Suy tư nguyện cầu, với trình thuật thánh Mác-cô ghi, có dụ ngôn Chúa kể để người người đi dần vào chốn tâm tư đầm ấm, vẫn lắng đọng. Nguyện cầu suy tư, về người gieo giống nơi đất ruộng ở tình huống tinh mơ mù tối như các nhà chú giải thấy có khoảng cách còn bỏ ngỏ ở dụ ngôn.
Về trình thuật, các nhà chú giải đều suy nghĩ theo cách khác biệt. Crossan gọi dụ ngôn đây là “tình huống không phù hợp, thiếu dứt khoát”. Trong khi đó, bình luận gia Dermode lại thấy câu cuối của trình thuật “chẳng có gì rõ rệt”. Stephen Moore lấy làm thích thú cũng hơi lạ về câu “có hạt rơi xuống vực thẳm không sinh lợi”. Nói chung thì, dụ ngôn thánh Mác-cô ghi, chỉ nói cách gián tiếp, không rõ rệt về lập trường của Chúa. Dụ ngôn hôm nay, không đưa ra điều gì độc đáo, rõ rệt, mà chỉ đảo ngược suy tư, tưởng đoán của người nghe, thôi.
Dụ ngôn đây, là truyện kể không khúc chiết cũng không mạch lạc, có khi còn tinh ranh nghịch ngợm, tức: không hứa hẹn điều gì và cũng chẳng chuyển tải lập trường nào vững vàng chắc nịch hết. Dụ ngôn, chỉ độc đáo ở văn phong thể loại qua đó thánh Mác-cô muốn chứng tỏ, rằng: Chúa đã trỗi dậy từ chốn mông lung, mù tối. Ngài đã biến đổi tình trạng tăm tối của người đời để mặc khải một sự thật, là: các suy tư của ta đều giới hạn.
Có điều lạ, là: khi Chúa bị cáo giác là đầu óc Ngài không lành sạch và chừng như Ngài cũng bị quỷ ám, thì Ngài đáp trả bằng truyện kể dụ ngôn. Cũng thế, khi ta giáp mặt với cách biệt mở ngỏ ở dụ ngôn, và giả như ta có khả năng giải quyết mọi cách biệt như thế trong cuộc sống không ý nghĩa, thì ta đâu phải là người không lành sạch. Và, khi ta vượt qua cảnh đời nô lệ rất không minh bạch để đến với rõ ràng, đúng đắn, thì ta không còn bị quỷ tha ma bắt, nhưng lại có quyền uy tuyệt đối bằng những lời tuyên bố trọn hảo. Và từ đó, ta có thể thư giãn ngồi cười và kể những câu truyện mỉa mai, châm biếm mà Tom Wright vẫn bảo mọi người đi Đạo chúng ta đều mắc phải hội chứng thiếu tính châm biếm, mỉa mai, khôi hài.
Người tỉnh táo hơn, sẽ đọc ra được dấu vết tư tưởng của ngôn sứ Isaya ở dụ ngôn truyện kể do thánh Máccô ghi. Sách Ysaya đoạn 55, câu 10-11 viết: lời của Chúa giống như làn nước ban hạt giống cho người gieo và như bánh trái cho người được ăn. Nhưng, các đoạn này không ‘điều giải’ được sắc thái khác thường/dị biệt ở dụ ngôn. Ngoài ra, các cụm-từ chính dù không rút từ Kinh Sách của người Do thái, nhưng lại đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong câu chính “Người Con Dấu Yêu” gieo vãi/nảy nở ở nhiều chỗ trong Tin Mừng thánh nhân ghi. Chừng như thánh Máccô muốn người đọc quay về với cảnh trí có thanh tẩy để bắt đầu truyện kể về Tin vui ngài công bố.
Thần Khí đến với Chúa khiến Ngài trở nên Con Một của Chúa Cha. Và, động thái này gây ảnh hưởng lên tính “Người” của Ngài, khiến tính chất ấy yếu dần đi để Ngài trở thành “con người” đích thực để rồi biến đổi tính mỏng dòn của con người thành động thái mở ra với Chúa. Người đọc dụ ngôn, có thể diễn rộng tư tưởng ấy. Cũng có thể, diễn rộng cung cách giảng giải tiêu biểu của Chúa. Chính vì thế, Chúa đã nói lên những điều chưa hoàn tất để thêm vào. Và, đó là nét đặc thù của dụ ngôn, hôm nay.
Chính trong phần kể truyện thánh Máccô sử dụng, các dụ ngôn được tháp nhập vào trong đó. Chừng như đó chính là đặc trưng của chính dụ ngôn. Nên, khi thánh Máccô viết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa là ngài viết qua tư cách làm con của loài người không tự bảo vệ chính mình trước uy lực dẫn Ngài đi đến hệ quả là, nỗi chết. Có thể tất cả sự việc được nghiên cứu và suy nghĩ thật cặn kẽ để biến thành dụ ngôn, rất ý nghĩa.
Quanh dụ ngôn người gieo giống ở Tin Mừng Máccô đoạn 4 câu 14-20, có hai đoạn văn qua đó tác giả sử dụng phương pháp diễn giải, đặc biệt ở đoạn 4 câu 10-13 và câu 20-25, tác giả tập trung nhấn mạnh đến sự kiện mù tối/hiểm hóc, qua cung cách sử dụng ngôn ngữ của dụ ngôn. Hiểm hóc/mù tối ban ra để chỉ một ít người được chọn là người có tai để nghe, chứ không được mặc khải, cả với mình.
Khi nói về hạt giống tăng trưởng, thánh Máccô nhấn mạnh chữ “hạt giống lớn lên”, ngài muốn nói: ngay cả những người gieo giống cũng không biết hạt ấy tăng trưởng cách nào. Cũng vậy, có nhiều điều người nghe vào thời ấy không thể hiểu, tựa như sự chết và sự sống mới. Điều đó, khởi sự từ chức năng “Con Thiên Chúa” tiếp theo sau là phần tự sự nói theo nghĩa chữ, tức sự thành tựu đem con người đến nơi nào chẳng ai biết được. Và, ở dụ ngôn, điều này thách thức con người đạt đến thành tựu bằng chính ngôn ngữ của mình. Theo chân Chúa, người người đi vào chốn mù tối vượt quá mọi dẫn giải. Chính vì thế, con người nên sẵn sàng với tình huống ấy, tức: cuối cùng ra, dụ ngôn chỉ là ngôi mộ, luôn trống vắng.
Có điều khiến ta thấy rõ, là: thánh Máccô đưa mọi người vào với thứ gì đó hơn cả dụ ngôn. Dù, thánh nhân dạy ta suy tư theo cung cách của dụ ngôn. Tựa hồ phụng vụ Hội thánh cũng dẫn ta về với suy tư giống như thế, về cộng đoàn do Chúa thiết lập. Suy tư, là bởi: ở đây nữa, luôn có sự mù mịt tối nghĩa. Bởi, tất cả đều tiến triển theo cung cách của dụ ngôn, thôi.
Con dân Đạo Chúa là tập thể khá bất thường. Có người gọi họ là gia đình không dựa trên quan hệ họ hàng. Người khác lại bảo: họ là nhóm người đã được biến đổi bên trong Do thái dựa trên ý tưởng về “đầy tớ Chúa” như ngôn sứ Ysaya từng nói. Ý tưởng này, không đối chọi với ý niệm về “người ngoại cuộc” sống ngoài nhóm hội của các thánh.
Với Ysaya, đây chỉ là chuyện nhỏ về người đầy tớ tái tạo bộ tộc của Do thái mà không cần trở thành ánh sáng muôn dân nước. Chúc lành của Thiên Chúa là sự lành thánh ban cho dân Do thái, nhưng điều đó cũng có nghĩa là: ơn lành được ban cho toàn thế giới qua dân Do thái. Cũng đúng cả hai và ngược lại. Đó chính là sự mù tối, thiếu nghĩa. Đó, cũng là dụ ngôn, cũng rất thật.
Có người hỏi: vậy thì, với Đức Giêsu, gia đình là gì? Khi sống đời trưởng thành, Chúa có gia đình không? Phải chăng ta muốn đây là việc thăng tiến các gia đình; và bằng vào việc này, ta lại thăng tiến cả lịch sử đứng sau con người? Phải chăng đó cũng là cách Chúa muốn ta gắn bó với nhau nhưng không dứt khoát, cũng chẳng rõ ràng? Cung cách ấy, có thể thực hiện được không? Có tốt đẹp lắm không? Vẫn nên tư duy một lần nữa về sự khác biệt giữa ta và người sống chung quanh mình?
Thật ra, suy tư về sự khác biệt giữa những người sống với nhau và cạnh nhau, có nghĩa là ta phải sống đích thực mà thi hành ý định của Đấng Khác với mình. Đấng ấy đang hiện diện ở chốn thiên cung? Cũng thế, có nên suy tư về tính cách “chính trị” của động thái ủng hộ hoặc chống đối không? Có nên phân tách kỹ ý nghĩa của tả phái với hữu khuynh không? Phải chăng các tương phản như thế vẫn được thăng hoa theo cung cách rất rộng? Phải chăng có yếu tố nào lúc đầu khá rõ rệt để ta có thể định nghĩa được chính mình nếu ý định rất đoan quyết của Đấng Khác với ta, đang ở chốn thiên cung, vẫn chỉ là một và chỉ có tính quyết định, không? Nếu thế thì, đó là tính chất rất dụ ngôn!
Cuối cùng thì, quan điểm chính ở đây, là: sự khác biệt giữa tính hiệp thông và cộng đồng. Hội thánh Chúa đáng ra phải mang ý nghĩa của thể thức khá lạ kỳ về cộng đồng xã hội luôn tuôn chảy từ thể thức kỳ lạ của hiệp thông tâm linh, huyền nhiệm. Bởi, hầu hết các vết thương lòng ở thánh hội, đều đến từ sự diễn giải quá đáng về chiều kích bí nhiệm hoặc mang tính rất xã hội, thôi.
Cuối cùng thì, công cuộc dựng xây thánh hội sẽ mang ý nghĩa chữa lành vết thương ấy. Giả như Đức Chúa sử dụng dụ ngôn xây dựng hội thánh tựa như khi Ngài đặt tên cho ông Simôn thánh Phêrô rất đá tảng ở Tin Mừng thánh Mátthêu, thì Hội thánh sẽ luôn có đó để được xây dựng thêm một lần nữa. Và, cũng được chữa lành thêm một lần nữa. Và khi ấy, Chúa lại sẽ khuyên nhủ thánh Simôn Phêrô hãy cứ tiếp tục mà dựng xây/chữa lành cho hội thánh của Ngài, mãi như thế.
Cuối cùng ra, tất cả dụ ngôn về người gieo giống là dụ ngôn về một dựng xây cộng đồng thánh hội cũng rất mới, trên đá tảng mang nhiều chấm hỏi, cả dấu chấm.
Trong cảm nghiệm ý nghĩa của dựng xây, cũng nên ngâm tiếp lời thơ còn bỏ đó vẫn chưa xong:

            “Hôm nay có phải là Thu?
            Mấy năm xưa đã phiêu du trở về.
            Cảm vì em bước chân đi,
Nước nghiêng mặt ngọc lưu ly phớt buồn.”
(Đinh Hùng – Bài Hát Mùa Thu)

Chắc chắn, bài hát của nhà thơ sẽ không như ca lời của dụ ngôn Chúa dạy. Bởi, mùa Thu có phiêu du vẫn là mùa của những dẫn dụ ta nên về với Chúa mà dựng xây thánh hội vẫn cứ “lưu ly phớt buồn”.          
Lm Kevin O’Shea CSsR
Mai Tá lược dịch Chuyện Phiếm đọc sau Chúa Nhật thứ 11 Thường Niên năm B 14/6/2015
 
“Làm sao, giết được người trong mộng”,
Để trả thù duyên kiếp, phũ phàng.”

(Phạm Duy – Giết Người Trong Mộng)
(Lc 12: 51-53)
            Ối giào! Giời ạ! Giết gì mà giết lắm thế? Giết được cả người trong mộng nữa sao? Mà sao lại chỉ giết người bội thề, u mê, quên tình nghĩa phu thê, như thế? Giết nhiều, rủi lỡ tay giết cả người “trong mộng đã đi về”, hoặc “đã hiện về” như “loài bướm đong đưa”, dễ sợ chưa? 
Thật ra thì, có chém giết như thế, kể cũng tệ. Bởi, nếu suốt ngày hát hò rồi kêu lên “Giết người đi!”, “Giết người đi!” tức là: cứ giết và giết, để “trả thù duyên kiếp phũ phàng” thì, ôi thôi lại thi-ca với âm nhạc!
Hết nhiều nhất, là khi có bé em vừa hát câu trên xong, lại thêm ca-từ lê thê như để bảo: “Đêm qua em mơ gặp… chú/bác” gì đó, say mơ đến độ thấy cả  râu/tóc bạc phơ của chú/của bác, nên không còn muốn “giết người trong mộng” nữa, thế có chết không!
            Thôi thì, bạn và tôi, ta có hát đi hát lại đến chán chê mê mỏi cũng chỉ có mỗi câu những giết là giết, mà thôi. Có mơ đi mơ lại toàn người này người nọ rồi gọi là chú/bác cuối cùng cũng lại than vãn, hát thêm rằng:

“Nhưng người ơi! Nhưng người ơi!
Sao người trong mộng vẫn hiện về?
Nhưng người ơi! Nhưng người ơi!
Sao người trong mộng vẫn say mê?
Ơi người ơi! Ơi người ơi!
Sao tình trong mộng vẫn ê chề?
Ơi người ơi! Ơi người ơi !
Sao mình trong mộng vẫn ngu si?
Ơi người ơi! Ơi người ơi!
Thôi đành thôi, thôi đành thôi
Giết người trong mộng mơ…”

(Phạm Duy – bđd)

Vâng! Vấn đề lâu nay đặt ra với người đời, chỉ có thế. Giết người trong mộng hay giữ người trong mộng, vẫn cứ là thơ/văn cho hợp vận, chứ làm gì có ai đòi giết nhiều quá sức vậy chứ? Vâng. Phiếm luận chuyện Đạo/đời, đôi lúc cũng để giết, nhưng không phải “người trong mộng”, mà là thời gian, ấy chết là ngôn-từ với ngôn-ngữ, rất vô-tích-sự.
Nhưng “thời gian”, sao gọi được là vô-tích-sự? Dù, bàn dân thiên hạ cứ mừng đi mừng lại các kỷ-niệm những giết và giết đầy chết chóc cả vào hôm nay, như báo/đài vẫn tường-thuật.
Báo đài nhà Đạo hôm nay, chỉ muốn tường-thuật chuyện chết chóc tuy không giết người trong mộng, bên trong hay bên ngoài nhà Đạo. Nhưng, những chuyện thần học, tu-đức lẫn tin tức, cũng không thoát. Ví-dụ ư? Thì, đây: vừa qua có báo/đài nọ đã cả gan loan tin tức…mình bảo rằng Đức Giáo Tông Công-giáo nói ta cũng có thể chấp-nhận giải-pháp “dĩ độc trị độc”, để tránh chiến-tranh, bạo-lực (?) vv…   
Người loan tin trích-dẫn chuyện này ở đâu không biết, chỉ biết là: ở Úc người ta đã trích câu nói về chiến tranh, giết chóc hoặc bạo loạn, từ đấng bậc vị-vọng chốn chóp bu Giáo hội Công giáo như sau:

“Tôi kêu gọi mọi bên, mọi phía đang dính dự hãy chấm-dứt vòng quay xoắn ốc đầy ghét ghen/bạo-lực để có can-đảm mà đưa ra quyết-định hoà-giải hầu đi đến hoà-bình. Xây-dựng hoà-bình thật rất khó, nhưng sống mà không có hoà-bình lại chỉ là sống trong dằn-vặt, khổ đau mà thôi.” (Đức Giáo Hoàng đã có kêu gọi khi một số đồng bào bị tấn-kích tại hội-đường Do-thái ở Giêrusalem tháng 11/2014, The Australian Catholics Hè 2015 tr. 4)

Nói về chiến tranh, lại phải nói cả về hoà bình nữa mới được. Nói về hoà bình, lại cũng nên nói đến những chuyện kể mang tính vui tươi, bổ ích, tích cực dễ nghe và dễ sống với đời hơn, thế mới phải. Bần đạo đây, có anh bạn đang sống ở đảo quốc phương xa vẫn nhất quyết không nghe và không đọc báo/đài truyền-thanh/truyền-hình suốt ngày nói toàn chuyện giết người hoặc chết chóc, mà thôi. Đổi lại, anh kể cho bần đạo câu chuyện bên dưới tạo niềm vui hưng-phấn mà sống:

“Truyện rằng:
Hôm ấy, có người mù nọ thèm món Vịt quay bèn quyết định đến tiệm mì, kêu:
-Cho ngộ một con dzịt quay Pắc Kinh à!
Anh bồi bưng vịt ra, và người mù sờ con vịt hít một hơi rồi nói:
-Ồ! Cái lầy là con dzịt quay Thượng Hải, đó nị.
Anh bồi bèn mang vào bếp yêu cầu làm con vịt khác. Nhưng mang con nào ra, cũng bị cho là không phải, lúc thì khách bảo: cái lày là dzịt Quảng Đông, cái kia Hải Nàm. Đến con thứ tư, ông mới bảo đây đúng chánh-hiệu là nó đó. Nhà bếp nghe vậy rất ư khâm phục. Chợt có người từ trong bếp ra, bèn hỏi khách:
-Thưa khách xộp! Sao ông lại có thế biết đích xác vịt nào là vịt Bắc Kinh vậy?
-Đơn giản thôi. Ngộ chỉ cần rờ cái phao-câu của nó rồi ngộ hít một hơi là biết ngay hà!
Anh phụ bếp quá xúc động bèn mếu máo nói:
-Thưa ông! Tôi đây mồ côi cha mẹ từ hồi chiến tranh/loạn lạc, không biết mình sinh ra từ phương nào, Bắc Kinh hay Thượng Hải, có thể nào ông đoán giùm tôi được không?
-Ồ, cái lày thì ngộ không có làm lược à!. Sờ phao-câu con dzịt thì lược, chứ lụng chạm cái con người nị thì ngộ không có dám, à. Lỡ pậy, lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia, thì sao?”

Truyện kể đây, cốt chỉ để minh-hoạ một chuyện, rằng: ở đời, nhiều người chẳng sợ gì chuyện “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Cũng chẳng ngần ngại mọi thứ, nên cứ hay lẫn lộn người với vật, hoặc người này với người khác, rồi làm chuyện xằng bậy, gây chiến.
Chiến hay hoà, có thể không do người đời làm chuyện xằng bậy, nhưng cứ hay lầm lẫn những điều mà người mình gọi nôm na, là “cầm nhầm”. Đạo Chúa, cũng có trường hợp không nghiêm-trọng, nhưng cũng là ngộ-nhận được đấng bậc ở Melbourne, Úc Châu trình bày như sau:

“Mặc dầu, lâu nay “Kinh Hoà Bình” được gán ép cho thánh Phanxicô thành Assisi là tác-giả, nhưng thật ra kinh này được viết cách đây không lâu lắm chỉ vào đầu thế kỷ thứ 20 mà thôi.

Cụ thể hơn, thì “Kinh Hoà Bình”, lần đầu được phổ biến trên tập-san tu-đức gọn nhỏ viết bằng tiếng Pháp vào năm 1912, như lời cầu dùng trong thánh-lễ, suốt thời gian đó. Kịp đến năm 1915, có nhóm người Công-giáo Pháp thấy kinh này quá hay bèn kính gửi lên Đức Giáo Hoàng lúc ấy là Đức Bênêđíchtô XV những muốn chấm-dứt cuộc đại-chiến thế-giới từng tàn-phát cả châu Âu. Và, Đức Giáo Hoàng truyền cho in bản kinh này trên các báo của toà thánh ở Rôma. Và rồi, sau đó nhật-báo Pháp La Croix cũng xin được phép phổ-biến rộng hơn như kinh nguyện-cầu bình-an hầu chiến-tranh mau chấm-dứt.

Ở Hoa Kỳ cũng vào thời đó, có nhiều người thấy kinh này hay và thích hợp nên đã gán cho thánh Phanxicô thành Assisi làm tác-giả, và rồi phân-phát rộng-rãi trên bìa cứng suốt Đệ Nhị Thế Chiến và những năm sau, nguyện cầu cho hoà-bình ở khắp nơi.

Bản kinh được dịch tiếng Anh thành nhiều văn-bản khác nhau cũng vì một mục-đích. Bản-văn được biết nhiều và ưa-chuộng nhất ở xứ này lại được tác-giả là Johann Sebastian von Tempelhoff, một tu-sĩ Dòng Phanxicô ở Nam Phi đã phổ nhạc thành ca-vịnh phổ-biến khắp chốn. Chính Mẹ Têrêxa thành Calcutta cũng có công đưa bản kinh này vào các lời nguyện-cầu buổi sáng cho các chị em Dòng Truyền Giáo Bác Ái, do Mẹ thành-lập. Mẹ còn khiến cho cộng-đoàn đọc kinh này ở Oslo vào buổi Mẹ nhận giải Nobel Hoà Bình, năm 1979.

Thật sự, cũng chẳng ai biết rõ tại sao Kinh này lại được gán cho thánh Phanxicô hết. Thế nhưng, tính giản-dị của lời kinh cùng với lòng nhiệt thành nóng-bỏng và sự độ lượng nơi ý-tưởng cũng như điều được nhấn mạnh vào các yếu-tố cuộc sống đã làm dội vang tinh-thần khó-nghèo bình-dị của thánh Phanxicô, rất trọn vẹn.

Lời kinh đây, mời gọi mọi người chúng ta hãy xa lánh động-thái tiêu-cực trong cuộc sống, vốn dĩ gây ảnh-hưởng lân mối quan-hệ giữa con người và Thiên-Chúa và với nhau, như các đặc-thù gây hại, tương-tự như: tính nóng giận, hờn ghen, nghi-kỵ và sự tăm-tối. Kinh này còn khuyến-khích ta ra đi mà thực-hiện hoà-bình cùng thứ tha, tin tưởng và hy vọng, mãi muôn đời.” (X. Lm Andrew Hamilton sj, Channelling God’s peace, The Australian Catholics Hè 2015, tr. 9)

Nói như người đấng bậc nhà Đạo, là nói thế. Tức, chỉ nói đến yêu thương, an bình và giùm giúp. Còn, như nghệ sĩ lại cứ hát mãi ca-từ những giết và giết, nay hồi tâm thay vào đó bằng những câu ca rằng:

“Làm sao giữ được người trong mộng?
Để được tình yêu, dẫu bẽ bàng.
Giết người trong mộng?
Hay giữ người trong mộng?
Giết người trong mộng?
Hay giữ người mộng mơ?”

(Phạm Duy – bđd)

Có nói nhiều và hát không thiếu những lời dữ tợn/hiền dịu cũng chỉ để diễn-tả tình-trạng thực-tế của cuộc đời đầy nhiễu nhương. Đời nhiễu nhương, nhưng không có nghĩa tệ-bạc như một số người thường hiểu lầm khi nghe Đấng Thánh Nhân Hiền những bảo rằng:

“Anh em tưởng là Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao?
Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ.
Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau,
ba chống lại hai, hai chống lại ba.
Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái,
con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng."
(Lc 12: 51-53)

Xem như thế, thì đời người là một chuỗi ngày gồm toàn những hiểu lầm, ngộ nhận làm sai. Thế nên, lại có đấng bậc thày dạy khác, nay muốn minh-xác để bạn và tôi, ta hiểu rõ ý-nghĩa thần-học của Kinh thánh rất như sau:

“Mỗi khi các nhà chú-giải trích-dẫn đoạn này, thường bảo rằng: gia-đình rồi sẽ chia rẽ nhau tựa hồ tình-trạng của một số người tin vào Đức Giêsu, còn những người khác lại khước-từ không tin vào Ngài, chút nào. 

Theo tôi, vấn-đề ở đây không liên-quan đến niềm tin của ai hết, mà là quyền uy/sức mạnh của gia-đình thôi. Cũng nên để ý đến điều được nói ở dụ-ngôn về sự phân-cách giữa các thế-hệ. Đức Giêsu vẽ lên hình ảnh tiêu-biểu, về gia-đình Địa Trung Hải có 5 thành-viên, là: cha mẹ, con gái còn son sẻ, con trai đã có gia đình và vợ anh, tất cả đều chung sống dưới một mái nhà. Đức Giêsu nói: Ngài sẽ chia-cách những người như thế khiến họ sống riêng rẽ. Việc Ngài chỉ-trích, là sự sắp xếp sức mạnh/quyền-uy của gia-đình có bậc mẹ cha đầy uy-lực trên con trai, con gái và dâu con họ.

Thật ra thì, truyện này cũng giúp ta hiểu được những câu truyện kể và lời nói Đức Giêsu từng dạy-dỗ về cuộc sống gia-đình. Gia-đình, là xã-hội thu nhỏ. Là khung-cảnh trong đó ta học được khuôn-mẫu tình thương, ghen ghét, việc giùm-giúp và cả cách xách-nhiễu nhau nữa. Không phải gia-đình nào cũng đều có cảnh sống ấm-cúng và dung-dưỡng nhau theo kiểu Norman Rockwell. Bởi, đời sống gia-đình dính-dự vào quyền-bính, nên cũng dính đến chuyện lạm-dụng quyền-lực nữa. Và, đó là quan-điểm/lập-trường mà Đức Giêsu muốn đả-phá.

Nhóm/hội lý-tưởng của Ngài, trái hẳn sắp xếp xã-hội thông-thường của nhân loại. Nhóm/hội Ngài thiết-lập rất cởi-mở và ai cũng có thể tiếp-cận nhau dưới trướng của Ngài. Ở Vương Quốc Nước Trời, không có chuyện lạm-dụng quyền-lực. Tất cả, được đón chào vui vẻ. Mọi người đều ngang bằng nhau và giống nhau theo ý-định và mục-đích do Chúa muốn.             

Xã-hội dân-chủ vào thế-kỷ đương-đại, ta cũng không bị rút khỏi khuôn-mẫu thế-giới quyền-uy của Đức Giêsu. Ta từng biết thế nào là lạm-dụng quyền-uy thế-lực trong đời sống gia-đình. Thành-ngữ “bạo-lực trong gia-đình” ta từng nghe đi nghe lại nhiều lần hơn các thế-hệ trước. Nay, ta biết rằng lạm-dụng lớn thường ẩn nấp bên dưới mặt ngoài thấy êm ả.

Thành thử, dù có ở vào thế-kỷ thứ nhất hoặc 20, 21 này, việc Đức Giêsu chỉ-trích vẫn có đôi điều để nói, là: không có cơ-cấu gia-đình nào trở thành tuyệt-đối hết. Mọi cấu-trúc hiện-tỏ cho con người là để dung-dưỡng nhau, mà sống thôi. Đời sống gia-đình, giống như cuộc sống nhân-loại, đều nằm trong phạm-vi dưới Vương Quốc Nước Trời, do Chúa phản-biện. Đời sống gia-đình, giống các hình-thức khác nơi sự liên-đới với con người. Nó hiện-hữu vì mục-đích công-bằng và tình-thương, thôi.” (x. Cựu linh-mục John Dominic Crossan & mục-sư Richard Watts, Who is Jesus,Westminster John Knox Press 1996 tr.47)

Nói cho cùng và hiểu cho thấu các sự việc của con người trong đời, cũng nên nói và hiểu qua thơ-văn nhè nhẹ có truyện kể ở đời, để cho vui. Truyện kể hôm nay có giòng chảy những bảo rằng:

“Có hai con chim gáy rất thân với nhau. Hết tha thẩn xuống đồng lượm từng hạt lúa, chúng lại bay lên ngọn tre râm ran tiếng gù. Cứ tha hồ mà dồn dập, mà khoan thai có khi nhẹ nhàng như lời tình tự. Bỗng chẳng may một anh bị con người bẫy được đem về nuôi. Anh kia liền đi tìm bạn mới.

Mặc dù được chăm sóc chu đáo, nhưng bị giam hãm trong lồng phần thì nhớ da diết cánh đồng quê, phần thì nhớ bạn, chim cất lên những tiếng ai oán não nùng. Nghe tiếng than của bạn, anh chim gáy ở ngoài cũng tìm đến thăm. Thấy bạn mình được ở trong chiếc lồng son, có thức ăn nước uống đầy đủ, anh ta ganh tị bảo:
- Tưởng khổ cực lắm, hoá ra phúc đức ông cha bảy đời để lại mới có được kẻ nâng niu chiều chuộng còn than vãn nỗi gì.

Anh chim trong lồng nghẹn ngào không thốt nên lời.
Thấy thế anh chim ở ngoài nảy ra ý định: Mình muốn vào đó, nhưng có cả hai thì thức ăn sẽ ít đi, chi bằng tìm kế cho nó bay ra để ta vào tha hồ mà chén. Nghĩ vậy anh ta liền dùng lời ngon ngọt dụ dỗ:
- Muốn thoát thân thì nhịn ăn, giả vờ chết. Chủ sẽ bắt ra xem thử, lúc ấy nhanh chân mà tẩu thoát.

Quả thật bằng cách đó anh chim nọ được vùng vẫy nơi trời cao và say sưa cất giọng trầm bổng. Còn anh chim ở ngoài lại cứ quanh quẩn bên chiếc lồng, tất nhiên được vào trong dễ dàng.

Được no nê nhưng anh ta mới nhận ra sự cô độc, tù túng. Từ đó, chim càng lười biếng không cất nổi tiếng gáy. Người chủ thấy thế cũng chẳng còn săm soi, chăm sóc như ngày xưa nữa. Nhiều hôm phải nhịn đói, nước mắt lưng tròng, thân hình tiều tụy trông mà tội nghiệp, anh ta liền dở chiêu cũ nhưng có ai mà dại nữa. Lúc này, anh chim gáy nọ mới nhận ra rằng sống mà chỉ vì miếng ăn thì đó chỉ là kiếp sống thừa”.(truyện do St gửi)

            À thì ra, mọi chuyện xảy ra trên đời không vừa ý, cũng chỉ do hiểu sai , hiểu lầm hoặc hiểu không tới nơi tới chốn căn-nguyên/cội rễ của nó.
Ở nhà Đạo cũng thế, có những chuyện và những việc cần điều-nghiên/học hỏi cho kỹ, mới tránh khỏi những sai sót, ngộ nhận cũng tương tự. Và, Đức Giáo Tông Phanxicô có lần cũng minh-định những chuyện như thế, trong sống Đạo rất thực-thụ:

“Ngày nay, sứ điệp của Giáo Hội cũng là sứ điệp của hành trình thẳng thắn, con đường can đảm theo tinh thần Kitô. Như Kinh Thánh đã nói: hai môn đệ đơn sơ, ít học, đã có can đảm. Lời để dịch từ can đảm, chính là thẳng thắn, nói tự do, không sợ nói sự thật.”

Đức Thánh Cha cũng giải thích:
Chính sự can đảm loan báo như thế, là điều phân biệt chúng ta với những kẻ chiêu dụ tín đồ. Chúng ta không quảng cáo để thu thập thêm những người gia nhập hội tinh thần của chúng ta. Điều mà Kitô hữu làm, chính là loan báo một cách can đảm, loan báo Chúa Giêsu Kitô nhờ Thánh Linh. Chính Thánh Linh ban sức mạnh cho những người đơn sơ, ít học, như Phêrô và Gioan, sức mạnh can đảm loan báo Chúa Kitô cho đến chứng tá cuối cùng, là cuộc tử đạo.” (Tin Vatican 13.4.2015, G. Trần Đức Anh OP dịch)

Tóm lại, có nói và hát về chiến-tranh, giết chóc hoặc mơ mộng nhiều như truyền-thông báo đài gì đi nữa, cũng chỉ nên hát và nói những câu cuối để còn quyết tâm thực-hiện chuyện để đời, là đem hy-vọng và bình an đến với mọi người.
Quyết thế rồi, ta không còn ngại-ngần gì mà không hát những câu ca thời-thượng một dạo như sau:

“Làm sao giữ được người trong mộng?
Để được tình yêu, dẫu bẽ bàng.”
(Phạm Duy – bđd)

Giữ được người trong mộng” hay trong cuộc đời rất thực tế, cũng chỉ để “được tình yêu, dẫu bẽ bàng”. Chính đó là thông-điệp của nghệ-sĩ già từng gửi đến người đời, bấy lâu nay.

Trần Ngọc Mười Hai
Không có gì để đời, nhưng vẫn muốn hợp
với người nghệ-sĩ nói lên được điều đó
với mọi người.    

 

vhd sưu tầm - June 14, 2015

 

 

 
     

Tỉnh Dòng Đồng Công Hoa Kỳ
1900 Grand Ave - Carthage, MO 64836
Phone: ( 417) 358-7787 Fax: (417) 358-9508
cmc@dongcong.net (văn phòng CD) - web@dongcong.net (webmaster)