Suy Niệm của Huệ Minh

Chuá nhật 28 Thường Niên, năm C


CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN 2019.

2V 5,14-17; 2Tm 2,8-13; Lc 17,11-19.

ĐẸP LẮM LỜI TẠ ƠN

          Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Chúa Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa mọi người, xa cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và phải hô lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà tránh xa.

          Thực vậy, sau khi mắc phải chứng bệnh nan y này, thì lập tức, những bệnh nhân sẽ bị khai trừ khỏi xã hội. Đi đâu cũng phải ra dấu để mọi người xa tránh. Đây không phải chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm ngăn chặn sự lây lan, mà hơn thế nữa trong bầu khí tôn giáo, người ta có thói quen coi bệnh này như là một hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên những kẻ tội lỗi. Nếu không phải do chính tội của bệnh nhân, thì cũng do tội của cha mẹ họ. Vì thế người bệnh bị xã hội coi là kẻ tội lỗi.

          Chúa Giêsu thì khác, Ngài không thể không xót thương họ, nhất là khi họ đã lên tiếng van xin. Và tất cả 10 người phong cùi đều được khỏi. Chúa Giêsu bảo họ tới trình diện với hàng tư tế để được chứng thực là mình đã khỏi và nhờ đó mà trở về với xã hội loài người. Đây là lần thứ nhất họ được chữa lành.

          Theo luật quy định, nếu có người nào mắc bệnh phong có cơ duyên lành bệnh, thì phải đến trình diện với các tư tế, để khám xét lại. Nếu thực sự được lành bệnh thì họ mới được cho hoà nhập với cộng đồng. Chúa Giêsu bảo mười người phong đến trình diện với các tư tế là vì lý do đó. Họ đã đi trình diện, đã được chứng nhận là khỏi bệnh, nhưng chỉ có một người xứ Samari, người được xem là thuộc phường rối đạo, biết quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa và cảm tạ Chúa Giêsu. Còn chín người kia thì không. Chưa được ơn thì van vái cầu xin, được ơn rồi thì nín thinh như hến.

          Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa của lòng biết ơn trong cuộc sống con người. Trong số mười người được chữa lành, thì chỉ có một người quay lại ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài. Chúa Giêsu hẳn đã chua xót trước sự vô ơn của con người khi thốt lên: Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu sao không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại này mà thôi. Tỷ lệ quá thấp, chỉ có một phần mười. Và một phần mười ấy theo Chúa Giêsu nhận xét lại là thành phần ngoại giáo. Mặc dù là goại giáo theo nghĩa tôn giáo, nhưng lại rất có đạo theo nghĩa đạo làm người. Mà bởi đạo làm người cũng là thể hiện của đạo Chúa, cho nên người ngoại giáo Samaria này, theo cái nhìn của Chúa Giêsu, hẳn phải là người có đạo hơn chín người Do Thái kia, bởi vì người này đã thực thi cái nhân đức cao quý nhất của con người là lòng biết ơn.

          Con người không thể là người một cách sung mãn mà không cần đến người khác. Nói lên hai tiếng cám ơn là nói lên tình liên đới thâm sâu giữa người với người. Tôi không thể là tôi nếu không có người khác. Tôi cần có người khác để sống hoàn thiện, để được hạnh phúc. Từ cha mẹ tôi, gia đình tôi, những người thân thích của tôi cho đến cả những kẻ thù của tôi...Tất cả đều đã đóng góp vào sự trưởng thành của tôi. Không ai nghèo đến độ không có gì để trao tặng. Cuộc đời là một chuỗi những lãnh nhận, từ sự sống cho đến những thành đạt. Không có gì chúng ta đang có mà không do lãnh nhận từ người khác. Do đó biết ơn là một đòi hỏi thiết yếu nhất của trái tim con người. Không có lời rủa sả nào thậm tệ bằng ba tiếng: Đồ vô ơn. Hơn nữa, lòng biết ơn còn là con đường dẫn chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn mọi ơn huệ.

          Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng cám ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ tấm lòng tri ân! Thú vật còn biết vẫy đuôi cám ơn khi ném cho nó cục xương, còn người vô ơn khi nhận được ân huệ chỉ biết trố mắt nhìn và câm lặng.

          Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một lễ tạ ơn liên lỉ. Ngài đã hy sinh mạng sống làm hy tế dâng lên Đức Chúa Cha. Vì thế, ngày hôm nay, khi dâng lễ tạ ơn mỗi ngày, chúng ta cử hành mầu nhiệm cuộc đời Chúa, chúng ta sống lại tâm tình tạ ơn của Chúa, là tâm tình của Người Con dâng lên Chúa Cha.

          Cuộc đời của Chúa là bài ca tạ ơn luôn vang lên những giai điệu vui tươi trong những giây phút hân hoan và trong cả những giờ khắc bi thảm. Bài ca tạ ơn đó đã ngân lên từ môi miệng của Mẹ Maria (Magnificat), ông Zacaria (Benedictus) và vẫn tiếp tục ngân vang trong tâm hồn những người tín hữu hôm nay.

          Ta đã nghe "Cho người có lòng biết ơn là cho vay". Quả thật, cuộc sống hiện tại của mọi người sẽ đẹp biết bao khi mọi người biết chia sẻ tình thương cho nhau. Mỗi cử chỉ yêu thương sẽ được đánh dấu bằng lời "cám ơn", sẽ làm giàu thêm tình người. Mọi người sẽ sống trong tình huynh đệ với những "món nợ tình thương" trao trả cho nhau.

          Dẫu biết rằng mọi sự trên thế gian này đã qua, đang qua và sẽ qua mau. Mỗi ngày chúng ta sống là mỗi giây phút rút bớt đời sống của chúng ta. Chẳng mấy ai nói rằng cuộc sống như thế là qúa đủ hay quá dài. Cho dù người thượng thọ cao niên vẫn muốn sống thêm, dù một ngày vắn gọn. Chúng ta cần trân quí món qùa của sự sống. Mỗi giây phút sống là hồng ân Chúa ban. Nếu buông bỏ giữa chốn hoang địa, chúng ta đã biến mất từ lâu. Ngay từ lúc được thụ thai trong lòng mẹ, chúng ta đã tùy thuộc vào người khác. Cha mẹ sinh chúng ta vào đời trần trụi. Từng giây phút, chúng ta bắt đầu nhận lãnh và chịu ơn suốt dọc cuộc sống. Hồng ân sự sống là cao trọng nhất. Thiên Chúa đã an bài môi trường chung quanh để đón nhận chúng ta vào đời. Xã hội con người đã gầy dựng và dọn sẵn sàng để đáp ứng nhiều nhu cầu cuộc sống. Chúng ta chỉ cần cố gắng bỏ công sức để đón nhận, góp phần và hoàn thành sứ mệnh.

          Lời tạ ơn Thiên Chúa của chúng ta còn là những bông hoa đẹp đẽ nhất của tấm lòng mà chúng ta dâng cho Chúa mỗi ngày. Những bông hoa ấy trang điểm cho tâm hồn chúng ta thêm xinh đẹp nhờ những ân sủng Thiên Chúa tặng ban. Vì "thật ra, Chúa không cần chúng ta ca tụng, nhưng được tạ ơn Chúa lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng ta chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng ta ơn cứu độ muôn đời" (Kinh Tiền Tụng Chung, IV).

          Đúng như vậy, những lời tạ ơn của chúng ta như làn hương tỏa bay lên cao và kéo thêm nhiều cơn mưa hồng phúc xuống cuộc đời chúng ta, vì thế, khi người Samaria quay trở lại tạ ơn Chúa, Chúa nói: "Ngươi hãy ra về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Người Samaria không những được ơn lành bệnh mà còn được ơn cứu rỗi nữa. Cũng thế, sau khi được tiên tri Êlisê chữa khỏi bệnh cùi, tướng Naaman người xứ Syria đã trở lại để tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa. 

          Dấu hiệu để nhận ra người có văn hoá là biết nói tiếng cám ơn. Trong xã hội văn minh, dường như hai tiếng cám ơn liên tục được phát ra làm ấm lòng người nghe và làm tăng thêm giá trị của người nói. Người biết nói tiếng cám ơn, khi được người khác làm ơn cho mình, cả trong những điều nhỏ nhặt, được đánh giá là người văn hoá, văn minh.

           Xin cho mỗi người chúng ta vững mạnh trong đức tin để nhận ra trên thế giới này Thiên Chúa vẫn đang sống, vẫn đang hành động, đang ở với chúng ta, để chúng ta chúc tụng và tạ ơn. Giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin và xin cho mỗi người chúng ta cũng sống trọn vẹn đức tin để chúng ta chúc tụng, tạ ơn Chúa. 

 

Thứ Hai Tuần XXVIII Thường Niên.
Rm 1,1-7; Lc 11,29-32.
ĐỪNG ĐẾN VỚI CHÚA CHỈ VÌ DẤU LẠ
          Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu lên án thái độ cứng lòng tin của những người Do Thái sống cùng thời với Người. Trong phần trước, chứng kiến sự kiện hiển nhiên tốt lành là Chúa Giêsu trừ một quỷ câm, dân chúng vẫn kết tội Người “dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ” (Lc 11,15). Nay, họ lại đòi người chứng minh thân phận và quyền năng của mình bằng dấu lạ. Quả là những người cứng lòng tin.
          Ta thấy tâm thức của con người trong thời đại này thiên về thực dụng, vì thế, họ chỉ tin khi mắt thấy, tai nghe. Thái độ này trùng hợp với tâm thức của những người Pharisêu thời Chúa Giêsu.
          Thật thế, sẵn có sự hiềm khích đối với Chúa Giêsu, vì thế, họ tận dụng mọi cơ hội để thử thách Ngài. Ta thấy hôm nay họ đòi hỏi Chúa Giêsu phải làm một dấu lạ để họ tin. Tuy nhiên, họ đã bị khước từ vì bản chất của phép lạ không nhằm thỏa mãn sự tò mò hay hiếu tri của con người, nên Chúa Giêsu đã không đáp ứng nhu cầu bất chính của họ.
          Và nội dung và ý nghĩa của phép lạ không nằm ở việc thỏa mãn trong sự thách thức, mà là ngang qua phép lạ, người đón nhận sẽ có tâm tình sám hối, thay đổi đời sống và có mối tương quan thân mật, tin tưởng nơi Thiên Chúa và có tấm lòng bao dung với tha nhân. Sự biến đối này được khởi đi từ tâm tình khiêm tốn và sẵn sàng làm mới lại đời sống cho phù hợp với Thánh Ý Thiên Chúa.
          Thực trạng ngày nay của mỗi người chúng ta hẳn rất giống với người Pharisêu khi xưa! Thường thì chúng ta hay xin Chúa cho mình làm ăn phát đạt, mà không hề để ý đến cách kinh doanh của mình! Có khi kinh doanh bất chính nhưng vẫn xin Chúa cho thuận buồn xuôi gió! Hay cộng tác vào những chuyện trái với luân thường đạo lý, nhưng lại xin được bình an! Hoặc xin Chúa chữa lành bệnh tật nhưng đời sống không có gì thay đổi...! Đôi khi cũng có những người thách thức Chúa như những Pharisêu khi xưa!
          Ta thấy Chúa Giêsu cảm thấy buồn khi dân Do Thái đến với Người không phải vì tìm kiếm Nước Thiên Chúa, nhưng là tìm lợi ích từ những phép lạ. Người cũng không thể tiếp tục dằn lòng đối với sự thơ ơ của họ trước giáo huấn của Người, vốn vượt trên mọi sự khôn ngoan thế gian, vì là Lời phát xuất từ Chúa Cha để ban ơn cứu độ. Chúa Giêsu còn lo lắng bởi sự chai đá nơi con tim của họ, chậm hoán cải và đóng kín trước lời mời gọi thay đổi tâm tình, thay đổi cuộc sống.
          Dẫu thế, ta đều biết rằng, những lời nghe như trách cứ đó lại là những lời biểu lộ một tình yêu sâu xa. Chúa Giêsu đã tiếp tục thi ân giáng phúc cho dân Do Thái, và cho cả nhân loại mà đỉnh cao là tình yêu tha thứ trên thập giá. Người còn dùng nhiều cách để Lời được tiếp tục âm vang trên môi miệng của những kẻ được sai đi, để con người được đón nhận ơn cứu độ. Và Người vẫn mãi tiếp tục chờ đợi con người hối cải và sẽ ngay lập tức tha thứ cho họ bất chấp họ đã lỗi phạm nặng nề thế nào. Quả thật, dù con người có đối xử với Người thế nào đi nữa, Người vẫn luôn yêu thương.
          Tuy nhiên, có hợp lẽ không nếu chúng ta ngày nay vẫn tiếp tục làm cho Chúa Giêsu phiền lòng? Đối với chúng ta, việc lãnh nhận các bí tích cùng các cử hành phụng vụ đã thực sự đi vào chiều sâu của tâm hồn hay chưa, hay chỉ mới là những cách thức để chúng ta tự trấn an lòng mình trước những đòi hỏi của bổn phận tôn giáo, hoặc chỉ để tìm kiếm những lợi ích theo lòng muốn của chúng ta? Có thể chúng ta cũng vướng vào tình trạng của dân Do Thái xưa khi chưa đón nhận Lời như là phương tiện cứu rỗi linh hồn chúng ta. Chúng ta có thể tự vấn: Lời Chúa có vị trí nào trong định hướng cuộc đời và nhất là, trong từng quyết định dù nhỏ bé của chúng ta.
          Và thật quan trọng, một khi đã nhận thấy sự thiếu sót của mình trong mối tương quan với Chúa Giêsu và các giáo huấn của Người, lòng chúng ta có cảm thấy sự khao khát cần biến đổi cuộc đời, cần hoán cải tâm tình để quay về với Chúa? Không phải dân thành Ninivê, hay nữ hoàng Phương Nam kết tội chúng ta, nhưng chính những gì chúng ta thực hiện trong sự lãng quên Thiên Chúa, sẽ kết tội chúng ta. Ta biết rằng Chúa Giêsu yêu thương chúng ta, nhưng không vì thế mà chúng ta trở nên liều lĩnh, trái lại, chúng ta càng quyết tâm sống tốt theo lời mời gọi của Người, để xứng đáng với tình yêu đó.
          Là Kitô hữu, chúng ta có thực sự đặt lòng tin của mình nơi Thiên Chúa mà không đòi hỏi Người phải tỏ chính mình ra bằng các dấu lạ không? Bản tính tò mò của con người khiến chúng ta thích tìm kiếm và trầm trồ trước những sự lạ lùng, những cuộc hiện ra hay những sứ điệp này sứ điệp nọ,… Tuy nhiên, có một phép lạ vĩ đại vẫn xảy ra hằng ngày mà mắt ta hằng chứng kiến, tai ta hằng lắng nghe nhưng đôi khi ta không quan tâm chú ý. Đó là việc bánh và rượu trên bàn thờ biến thành thịt và máu của Thiên Chúa, làm của dưỡng nuôi linh hồn ta. Không những thế, Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực hiện những điều kỳ diệu trong cuộc đời mỗi người; nhưng để có thể khám phá, chúng ta cần có lòng tin và tâm tình cầu nguyện.
           Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhạy bén với ơn Chúa, để nhận ra một phép lạ vĩ đại, cả thể mà Ngài vẫn thường làm trên cuộc đời và trong cuộc sống của chúng ta, đó là tình yêu thương, sự bao dung của Thiên Chúa dành cho nhân loại. 

Thứ Ba Tuần XXVIII Thường Niên.
Thánh Têrêsa Giêsu (thành Avila), Trinh nữ, Tiến sĩ Hội Thánh, lễ nhớ.
Rm 1,16-25; Lc 11,37-41.
VÂNG PHỤC THEO THÁNH Ý CHÚA NHƯ THÁNH NỮ TERESA
          Thánh Nữ Têrêsa sinh tại Alencon bên Pháp năm 1873. Cha Mẹ ngài là ông bà Louis Martin và Zélie Guérin rất đạo đức, đã được Bộ Phong Thánh nhìn nhận các nhân đức anh hùng, và Bộ cứu xét phép lạ để hoàn tất tiến trình điều tra phong chân phước. Ông bà có 9 người con nhưng 4 người chết sớm. Trong 5 người con gái còn lại, Têrêsa là con út: 4 người vào dòng kín Camêlô và Léonine đi tu dòng Thăm Viếng.
          Têrêxa mồ côi mẹ năm lên 4 tuổi, và gia đình dọn về thành Lisieux. Têrêsa có ý định đi vào dòng kín tại đây mặc dù tuổi còn nhỏ. Nhưng gia đình cũng như Đức cha Hugonin đều chống lại dự án này nên Têrêsa quyết định xin phép thẳng với Đức Giáo Hoàng. Năm 1887, cùng với cha và chị Céline, Têrêsa đi hành hương Roma và trong buổi tiếp kiến ngày 20 tháng 11 năm 1887, Têrêsa xin ĐGH Leo XIII cho phép vào dòng kín mặc dù lúc đó mới được 14 tuổi. Nhưng cô chỉ nhận được một câu trở lời mơ hồ và được dẫn ra ngoài, nước mắt dàn dụa.
          Trở về Lisieux, Têrêsa được phép Đức Giám Mục cho vào dòng kín vào ngày 9-4-1888, lúc đó chị mới được 15 tuổi và 3 tháng. 24 nữ tu tiếp đón Têrêsa. Cuộc sống trong đan viện có nhiều cam go về mặt vật chất cũng như về kỷ luật. Chị Têrêsa ngày càng tiến triển trên con đường yêu mến Chúa. Ước muốn cứu rỗi các linh hồn thúc đẩy Têrêsa định xin tới dòng kín Camêlô ở Sàigon, nhưng vì bệnh lao phổi, nên chị Têrêsa phải bỏ ý định này và từ tháng 4 năm 1897, Têrêsa không thể tham dự đời sống cộng đoàn nữa. Chị qua đời ngày 30 tháng 9 năm 1897 lúc mới được 24 tuổi đời. Chỉ 27 năm sau đó, Đức Pio XI đã tôn phong Têrêsa Hài Đồng Giêsu lên bậc hiển thánh và 2 năm sau ngài tôn thánh nữ làm bổn mạng các xứ truyền giáo, giống như thánh Phanxicô Xaviê, Tông đồ miền Viễn Đông.
          Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng đã khám phá và sống trọn con đường tình yêu, con đường thơ ấu trong Phúc Âm. Chính con đường đó đã dẫn đưa Têrêsa tới đỉnh cao thánh thiện và trở thành “Tiến Sĩ Hội Thánh”, tức là bậc thầy về đàng thiêng liêng. Têrêsa đã ý thức về sự bất toàn và nhỏ bé của mình, nên biết rằng mình không thể nên hoàn thiện với sức riêng. Têrêxa đã tìm thấy trong Phúc Âm chân lý về sự “nhỏ bé”, hoàn toàn tín thác nơi tình yêu Chúa, không cần phải trở nên “cao trọng”, nhưng trở nên bé nhỏ trong vòng tay của Chúa.
          Cuộc đời của thánh nữ Têrêsa cũng có những chuyện vui buồn, những biến cố thăng trầm, nhưng sau khi trải qua tất cả những điều đó, Ngài càng có những trải nghiệm về cuộc sống và càng yêu Chúa nhiều hơn. Thời gian đầu sống trong tu viện, mỗi ngày Thánh nữ đều phung phí thời giờ vào những cuộc trò chuyện vô bổ.
          Thế rồi một ngày kia, khi đứng trước bức ảnh của Chúa Giêsu, Têrêsa cảm thấy hết sức đau buồn vì đã chưa yêu mến Người cho đủ. Têrêsa quỳ xuống trước mặt Chúa khóc lóc cho sự phản bội hàng ngày của mình. Nỗi xấu hổ, lòng tự thú và niềm ăn năn thống hối như hòa lẫn trong dòng nước mắt tuôn đổ không ngừng trên mặt Ngài. Và Thánh nữ bắt đầu tập sống cho riêng một mình Chúa Giêsu, dù phải hy sinh khó nhọc đến mức độ nào.
          Trong bài thuyết trình tại Lisieux hồi cuối tháng 9-1996, Đức Hồng Y Paul Poupard, người Pháp, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Văn hóa, đã nêu những nét nổi bật trong sứ điệp của Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng cho nhân loại ngày nay như sau:
          “Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy” (1 Ga 4, 16). Têrêsa không ngừng suy niệm về những lời trên đây của thánh Gioan và của Tin Mừng, để từ tâm hồn thánh nữ nảy sinh những trang nồng cháy tình yêu đối với Chúa Giêsu, những trang sách này như một tiếng vọng Con Tim của Chúa: ‘Tôi hiểu rằng Tình Yêu bao gồm mọi ơn gọi. Tình Yêu là tất cả; Tình Yêu tóm gọn mọi thời gian và không gian. Trong con tim của Giáo Hội là Mẹ Tôi, tôi sẽ là tình yêu’.
          “Thánh Nữ Têrêsa yêu mến Thiên Chúa với cùng tình yêu mà Chúa Cha yêu mến Chúa Con trong Chúa Thánh Linh. Thánh nữ nhìn tha nhân với cùng cái nhìn như thế, cái nhìn được tình yêu biến đổi hoàn toàn, nhưng nhiều khi bị những tâm hồn nô lệ tội lỗi coi rẻ: ‘Tôi cảm thấy ước muốn nồng nhiệt hoạt động cho sự hoán cải người tội lỗi’.
          Thánh nữ Têrêsa đã đề ra một con đường nên thánh dành cho tất cả mọi người. Đường nên thánh không phải hệ tại thi hành những công trình vĩ đại, nhưng là con đường tín thác và hoàn toàn phó thác cho ơn thánh Chúa. Con đường đơn sơ đó không thiếu những đòi hỏi, vì Phúc âm đề ra nhiều yêu sách; nhưng lòng tin tưởng phó thác nơi lòng từ bi của Chúa khiến cho những cam go trở thành êm ái dịu dàng.
          Trong cuốn “Tiểu sử tự thuật”, Thánh nữ đã nói: “Nếu chúng ta thực sự yêu mến Chúa cách trọn hảo, thì tự trong tình yêu và cùng với tình yêu ấy đến với chúng ta mọi sự lành. Nhưng chúng ta quá lừng khừng và bủn xỉn trong việc tế hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa nên chúng ta không có đủ điều kiện để lãnh nhận ơn cao trọng mà ý Người muốn là chúng ta phải trả một giá rất đắt thì mới được vui hưởng”.
          Thánh Têrêsa Avila được Giáo Hội ca ngợi: “Người đã để Thiên Chúa yêu Người nhiều”. Thánh nhân đã sống trọn khả năng yêu và được yêu đối với Thiên Chúa. Người đã đi vào trong đáy thâm sâu của tâm hồn mình để cảm nghiệm và minh chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Thánh nhân còn được ơn hiểu rõ những bí nhiệm của tình yêu, cái huyền diệu của tình yêu tuyệt đối, phải chăng Thiên Chúa qua Người đã hé mở cho nhân loại thấy thế giới thần linh, một thế giới có thật, nhưng xem ra xa vời với những cái bóng, cái hào nhoáng của thế giới văn minh.
          Thánh Têrêsa Chúa Giêsu dường như đoan chắc với chúng ta bất cứ ai cũng có thể trở nên "tuyệt vời", nếu thực sự dâng trọn trái tim cho Chúa Giêsu để Ngài toàn quyền hoạt động. Không phải ai cũng là người vĩ đại như ngài, nhưng ai cũng có thể trở nên tuyệt vời như ngài. Không phải ai cũng được những ơn cao siêu trọng đại như ngài vì Thánh Ý Chúa định cho mỗi người mỗi khác, nhưng ai cũng có thể phó thác và tuân phục hoàn toàn để Thánh Ý Chúa thể hiện trong đời mình. Không phải ai cũng có thể có khả năng miêu tả những đặc ân và trạng thái trong đời sống thiêng liêng sâu sắc như ngài, nhưng ai cũng có thể có khả năng vươn tới tầm mức viên mãn thánh thiện nhất mà Chúa mong ước, một khi để cho Chúa hành động.  Bởi vì, "mỗi vị thánh đều có một quá khứ, mỗi tội nhân đều có một tương lai." 
          Ta xin Chúa qua lời chuyển cầu của thánh nhân cho ta biết hoàn toàn vâng phục đời mình theo Thánh Ý của Chúa và trở nên công cụ tuyệt vời trong bàn tay của Chúa.

15 Tháng Mười
Thánh Têrêsa Avila
(1515-1582)
CHIÊM NIỆM VÀ CẢI TỔ ĐỂ XÂY DỰNG HỘI THÁNH NHƯ THÁNH NỮ TÊRÊSA AVILA
          Thánh Têrêsa Avila sống trong thời kỳ nhiều khai phá cũng như nhiều biến động chính trị, xã hội và tôn giáo. Ðó là thế kỷ 16, thời của hỗn loạn và cải tổ. Cuộc đời của thánh nữ bắt đầu với sự cực thịnh của phong trào cải cách Tin Lành, và chấm dứt sau Công Ðồng Triđentinô ít lâu.
          Têrêsa sinh 28 tháng 3 năm 1515, qua đời ngày 4 tháng 10 năm 1582, là một nữ tu sĩ Dòng Cát Minh, một nhà thần học nổi tiếng người Tây Ban Nha của Giáo hội Công giáo Rôma, bà gắn cả đời mình với cuộc sống chiêm niệm và tâm nguyện. Năm 1622, bốn mươi năm sau khi qua đời, bà chính thức được Giáo hoàng Grêgôriô XV phong thánh. Năm 1970, bà được Giáo hoàng Phaolô VI nâng lên hàng Tiến sĩ Hội Thánh.
          Ân sủng mà Thiên Chúa ban cho Têrêsa mà qua đó ngài trở nên thánh thiện, để lại gương sáng cho Giáo Hội và hậu thế gồm có ba điểm: Ngài là một phụ nữ; ngài là người chiêm niệm; ngài là người tích cực sửa đổi.
          Là một phụ nữ, nhưng Têrêsa giữ vững lập trường của mình trong một thế giới “trọng nam khinh nữ” vào thời đó. Ngài là người cương quyết, gia nhập dòng Camêlô bất kể sự chống đối kịch liệt của cha mình. Ngài không phải là một con người chìm trong sự thinh lặng cũng như sự huyền bí. Ðẹp, có tài, giỏi giao tế, dễ thích ứng, trìu mến, can đảm, hăng say, ngài thực sự là một con người. Cũng như Ðức Giêsu, ngài có những mâu thuẫn lạ lùng: khôn ngoan, nhưng thực tế; thông minh, nhưng đi đôi với kinh nghiệm; huyền bí, nhưng là người quyết liệt cải cách. Một phụ nữ thánh thiện, nhưng cũng đầy nữ tính.
          Têrêsa là một phụ nữ “vì Chúa”, một phụ nữ của cầu nguyện, kỷ luật và giầu lòng thương. Tâm hồn ngài thuộc về Chúa. Sự hoán cải của ngài không chỉ là một công việc tức thời, nhưng đó là một tranh đấu gian khổ suốt cả đời, bao gồm sự trường kỳ thanh luyện và đau đớn. Ngài bị hiểu lầm, bị đánh giá sai, bị chống đối khi ngài nỗ lực cải cách. Tuy nhiên ngài vẫn tiếp tục, vẫn can đảm và trung tín; ngài chống trả với chính bản thân, với bệnh tật. Và trong cuộc chiến đấu ấy, ngài luôn bám víu lấy Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Những văn bản của ngài về sự cầu nguyện và chiêm niệm, là chính những kinh nghiệm bản thân của ngài: thật mạnh mẽ, thật thiết thực và thanh cao. Một phụ nữ của cầu nguyện, một phụ nữ vì Chúa.
          Têrêsa cũng là một phụ nữ “vì tha nhân”. Qua sự chiêm niệm, ngài dành nhiều thời giờ và sức lực để tìm cách thay đổi chính ngài và các nữ tu Camêlô, để đưa họ trở về với những quy tắc ban đầu của nhà dòng. Ngài sáng lập trên sáu tu viện mới. Ngài đi đây đó, viết lách, chiến đấu – luôn luôn để canh tân, để cải tổ. Trong chính bản thân ngài, trong lời cầu nguyện, trong đời sống, trong nỗ lực cải tổ, trong tất cả mọi người ngài gặp, ngài là người phụ nữ vì tha nhân, người phụ nữ làm phấn khởi cuộc đời.
          Vào năm 1970, Giáo Hội ban cho ngài một danh hiệu mà người đời đã nghĩ đến từ lâu: Tiến Sĩ Hội Thánh. Ngài là người phụ nữ đầu tiên được vinh dự này.
          Ta thấy nét đặc biệt của cuộc đời của Têrêsa là một chuỗi những ngày tháng quyết tâm không phạm tội, dù chỉ một tội nhẹ. Têrêsa cũng đã cố tránh mọi dịp tội, vì thấy rằng mọi khó khăn trong việc hiến mình cho Thiên Chúa hệ tại ở chỗ bà đã không cắt đứt tận gốc các dịp tội.
          Và Thánh Têrêsa hiểu rõ giá trị của sự đau khổ liên tục (bệnh tật thể xác, không muốn cải tổ, khó khăn cầu nguyện), nhưng ngài đã luyện tập để có thể chịu đau khổ, ngay cả khao khát đau khổ: “Lạy Chúa, hoặc là đau khổ hoặc là chết”. Cho đến gần cuối đời, ngài đã kêu lên: “Ôi lạy Chúa! Thật đúng là bất cứ ai làm việc cho Ngài đều được trả bằng những khó khăn! Và đó thật đáng giá cho những ai yêu mến Ngài, nếu chúng con hiểu được giá trị của nó”.
          Thánh nữ Têrêsa Avila thương các linh hồn Luyện ngục cách đặc biệt. Bà hay giúp các linh hồn bằng lời cầu nguyện, hi sinh và việc từ thiện. Ðể thưởng công, Thiên Chúa thường cho bà được thấy các linh hồn lúc ra khỏi Luyện ngục về Thiên đàng. Các linh hồn này từ lòng đất đi ra.
          Các nhân đức quan trọng và cần thiết của đời tu là yêu mến nhau, dứt bỏ mọi thụ tạo và nhân đức cuối cùng nhưng vô cùng quan trọng là khiêm nhường đích thật.
          Cầu nguyện đối với bà quan trọng hơn những việc hãm mình vì thế bà không cho phép những việc hãm mình nghiệt ngã đến độ không còn sức cầu nguyện. Bã đã yêu thương mọi người đến độ không nói xấu ai, không chấp nhận gian dối. Quan niệm của bà rất rõ, yêu thương là “giúp đỡ cảm thông nhau, vui vẻ với các chị em trong các giờ giải trí dù không thích chút nào, săn sóc các chị em đau yếu, phục vụ trong những công việc hèn hạ nhất”.
          Theo bà, đã từ bỏ thì phải từ bỏ hết, vì “nếu ta không từ bỏ hết mọi sự thì Thiên Chúa sẽ không trao phó trọn vẹn kho báu của Ngài cho ta”. Bà dứt bỏ hết mọi thụ tạo nên đã được Thiên Chúa chiếm hữu ngay khi còn sống trên trần gian. Hôm nay, bà vẫn còn là mẫu gương chói ngời cho tất cả những ai muốn thuộc trọn về Chúa trong đời thánh hiến.
          Ngày nay chúng ta sống trong một thời đại nhiều xáo trộn, thời đại cải tổ và thời đại giải phóng. Các phụ nữ thời đại có thể nhìn đến Thánh Têrêsa như một thách đố. Thúc giục canh tân, thúc giục cầu nguyện, tất cả đều có trong con người Thánh Têrêsa là người đáng khâm phục và noi gương.

Thứ Tư Tuần XXVIII Thường Niên.
Rm 2,1-11; Lc 11,42-46.
HÃY CHÚ TRỌNG BÊNTRONG
          Qua trang Tin Mừng vừa nghe, ta thấy Chúa Giêsu khiển trách giới lãnh đạo Do Thái giáo xưa về ba điểm. Điểm thứ nhất là chuộng hình thức: họ đặt ra đủ các loại thuế gọi là lễ phẩm dâng lên Thiên Chúa, trong khi lại xao lãng lẽ công bằng và lòng yêu mến dành cho Ngài. Điểm thứ hai là háo danh: họ luôn cố tỏ ra bên ngoài vẻ đạo mạo, uy nghi nhưng thực chất chẳng khác gì các mồ mả ô uế. Điểm thứ ba là giả hình: họ cắt nghĩa thật tỉ mỉ về lề luật và yêu cầu người khác tuân theo, trong khi họ lại chẳng mấy để tâm đến.
          Có thể nói rằng cả ba điều đáng trách trên đều xuất phát từ một nguyên nhân sâu xa hơn, đó là thiếu tình yêu thương. Vì chưa yêu Chúa đủ, những người Pharisiêu và các kinh sư chỉ chăm chú, xét nét hình thức bên ngoài mà quên đi bổn phận chính yếu với Thiên Chúa. Vì chưa yêu tha nhân đủ, họ thích khoe khoang, coi mình hơn người khác, thiếu đồng cảm với những mảnh đời khốn khó không có điều kiện giữ đạo như họ.
          Việc rửa tay trước khi ăn lúc khởi đầu chỉ là nhằm mục đích vệ sinh, thế nhưng sau này người Do Thái lồng ghép vào đó một ý nghĩa tôn giáo, đó là việc rửa tay trước khi ăn nhằm mục đích thanh tẩy tâm hồn và làm cho thức ăn nên thanh sạch. Chúa Giêsu không đồng ý với quan niệm này, vì thế khi được một người Pharisiêu mời đến nhà dùng bữa, Chúa Giêsu đã cố tình không rửa tay trước khi ăn để có dịp sửa lại quan niệm sai lầm đó.
          Nhân dịp sửa sai quan niệm về thanh sạch khi rửa tay trước khi dùng bữa, Chúa Giêsu nhắc mọi người về bổn phận phải làm việc bác ái, bố thí. Những việc bác ái, bố thí này có khả năng đền bù và tẩy xóa bớt những tội chúng ta đã phạm. Sách Giáo Lý Công Giáo dạy chúng ta rằng việc cầu nguyện và bác ái có khả năng đền bù và xóa bớt những tội nhẹ mà chúng ta đã phạm.
          Nhìn vào những người Pharisiêu nơi trang Tin Mừng hôm nay, rất có thể chúng ta cũng như họ khi chỉ biết quan tâm đến hình thức bên ngoài, chẳng hạn như chúng ta đánh giá người khác dựa trên quần áo, tóc tai, vẻ đẹp bên ngoài, hay là chúng ta chỉ chăm sóc đến sự sạch sẽ của bát đĩa, quần áo mà quên đi vẻ đẹp của tâm hồn.
          Chắc chắn khi chỉ trích những người Biệt phái quá chú trọng đến bề ngoài, không phải Chúa Giêsu chỉ lo đến bề trong, để rồi có người dựa vào đó mà biện minh cho sự lười biếng của mình bằng việc “giữ đạo tại tâm”. Thực ra Chúa Giêsu muốn chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn, nghĩa là phải lưu tâm đến cả hai, chớ không nên coi nhẹ cái nào, tuy nhiên Ngài cũng cho biết bên trong thì vẫn cần thiết hơn, chẳng hạn đối với việc rửa tay trước khi ăn, thì rửa tay cho sạch vẫn không bằng làm cho lòng mình nên sạch trong.
          Ta ý thức rằng chính những tội chúng ta phạm mới làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ bẩn, đó có thể là những tội như gian dối, hận thù, ghen ghét, kiêu ngạo, lười biếng .v.v…
          Tình yêu vốn chẳng có biên giới. Đây chính là điều làm nên nét đẹp và sức quyến rũ của tình yêu: nó làm cho ta hạnh phúc, nhưng chẳng bao giờ khiến ta mãn nguyện. Ai nói rằng mình đã yêu đủ thực là người chưa yêu. Chúa Giêsu đã gói gọn tất cả các luật lệ nơi con người vào một điều duy nhất: mến Chúa – yêu người (Mc 12, 33).
          Như vậy, tình yêu chính là nguyên nhân và cùng đích của tất cả lề luật, và do đó, nó trường cửu, trong khi cách nó được thể hiện ra bên ngoài có thể thay đổi theo thời gian hoặc khác nhau giữa các nền văn hóa. Ngay từ những ngày đầu, thánh Phaolô nhắn nhủ với các tín hữu Rô-ma rằng: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa, cái gì là tốt, cái gì là hoàn hảo.”(Rm 12, 2)
          Ngày nay trong xã hội, người ta ít quan tâm đến việc đạo đức! Nếu có ai thực tâm sống tốt lành thì sẽ bị người ta dè bửu... Ngược lại, họ quan tâm đến kiến thức, coi trọng việc đào tạo trí thức, hay kỹ thuật để sau này kiếm sao được nhiều tiền chứ không mảy may quan tâm đến chuyện kiếm tiền như thế nào cho phù hợp với lương tâm.
          Nói cách khác, xã hội và con người ngày hôm nay quan tâm đến cái đầu chứ đâu có màng chi đến trái tim! ... Như vậy, lối sống hình thức, giả tạo là điều đương nhiên có mặt trong thời buổi này; đồng thời sự vô cảm, dửng dưng, bất nhân xuất hiện nhan nhản trong xã hội là lẽ thường tình.

 

Thứ năm tuần 28 thường niên (lễ thánh Inhaxiô Antokia)
Rm 3,21-30a; Lc 11,47-54.
NHƯ HẠT LÚA MÌ
          Nếu đi tìm sử liệu, ta sẽ không tìm được bất cứ tài liệu lịch sử nào rõ rệt về lý lịch của vị Giám mục đáng kính này.
          Dựa vào truyền thuyết ta thấy thánh Ignatiô là môn đệ Thánh sử Gioan. Ngài có một lòng yêu mến Chúa Kitô đến say mê, luôn ước ao được chết vì Chúa, do đó người ta đã tặng thánh nhân danh hiệu “Đền thờ Thiên Chúa”.
          Thánh Ignatiô được tấn phong làm Giám mục thành Antiôkia kế vị Đức Giám mục Êvôđa dưới triều hoàng đế Trajanô. Truyền thuyết cho rằng ngài chính là em bé đã được Chúa Giêsu ẵm bế đặt giữa các môn đệ trong Tin Mừng 18,3 hay câu bé bán bánh đã dâng cho Chúa năm chiếc bánh và hai con cá để Ngài làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho ba ngàn người ăn trong Tin Mừng Matthêô (Mt 14,15-20).
          Khoảng năm 110, ngài bị bắt vì đức tin và bị giải về Rôma dưới trào hoàng đế Trajanô. Trước khi lên đường tử nạn, ngài chúc phúc lành cho đoàn con cái và trao phó cả giáo đoàn Antiôkia cho Chúa Kitô. Rồi Ngài giúp lính xiềng tay ngài và vui vẻ đi theo bọn lính áp tải ngài về Rôma. Bọn lính hành hạ Ngài rất tàn nhẫn. Chúng cố ý hành hạ ngài cốt để cho các giáo hữu động lòng cảm thương ngài đút lót tiền bạc cho chúng.
          Các Kitô hữu ở Antiôkia khóc thương tiếc vị Giám mục đáng kính của họ. Họ buồn phiền vì phải ly biệt chủ chăn yêu quí nhất đời. Đứng trước cảnh ly biệt đau thương đó, Đức Giám mục Ignatiô vẫn giữ vẻ mặt tươi tỉnh, Ngài khuyên nhủ họ nên đặt tin tưởng độc nhất vào Chúa Giêsu.
          Đức Giám mục Ignatiô được dẫn theo đường bộ về Rôma. Ngài đi qua thành Smyrna. Tại đây, thánh Ignatiô đã gặp thánh Pôlycarpô. Vị Giám mục thánh thiện này cũng là môn đệ của thánh Gioan như thánh Ignatiô.
          Gặp nhau tay bắt mặt mừng, hai vị Giám mục ôm chầm lấy nhau, Đức Giám mục Pôlycarpô khóc nức nở vì quá vui mừng. Toàn dân địa phận Smyrna kéo đến vây quanh Đức Giám mục đáng kính Ignatiô để được hân hạnh nghe ngài khuyên răn, khích lệ và ban phép lành. Các giáo đoàn Đông phương còn đề cử nhiều Giám mục, linh mục, giáo dân đến chúc mừng vị thánh tử đạo tương lai đáng kính. Các Kitô hữu đều coi Ngài như một người cha thiêng liêng.
          Trong cuộc hành trình gian nan này, ngài viết 7 lá thơ, nói lên tình yêu nồng suy của ngài đối với Đức Kitô và ưu tư của ngài về sự hiệp nhất của cộng đoàn dưới sự lãnh đạo của vị Giám mục. Ngài gởi về giáo đoàn Rôma lá thơ, van xin họ đừng làm gì để người ta thả ngài.
          Từ biệt giáo đoàn Smyrna, Đức Giám mục lên đường đi thẳng tới Macêdônia, Albaniô và nhiều thành phố khác. Đi tới đâu, Ngài cũng khuyên bảo, khích lệ các Kitô hữu và khẩn khoản nài xin họ cầu nguyện cho ngài được trung thành tới cùng. Ngài thăm viếng tất cả các giáo đoàn ngài đi qua, viết thư thăm các Đức Giám mục, các linh mục thuộc quyền ngài. Tới Rôma, Ngài bị tống ngục và chờ ngày đại lễ sẽ đưa ra công trường hành hình mua vui cho quần chúng.
          Truyền thuyết cho rằng: Đức Giám mục Ignatiô đã phải chịu rất nhiều nhục hình trước khi bị đưa ra cho thú dữ dầy xéo.
          Và đến ngày đại lễ, Đức Giám mục Ignatiô với nét mặt tươi tỉnh, hiên ngang tiến ra công trường để được chết vì Chúa Kitô. Ra tới công trường, Ngài quay về phía dân chúng cao giọng nói lên đôi lời: "Kính thưa toàn thể đồng bào, xin đồng bào đừng ngộ nhận tôi đây vì có trọng tội nên bị thú dữ dầy xéo. Không phải thế đâu, sở dĩ tôi bị thú dữ cắn xé là vì tôi muốn được kết hợp với Thiên Chúa."
          Vừa dứt lời, đoàn sư tử  hùng hổ tiến về phía Đức Giám mục Ignatiô. Nghe tiếng sư tử gầm thét, Ngài kêu lớn tiếng:
          "Tôi là hạt lúa mì của Thiên Chúa. Tôi muốn được nghiền nát dưới nanh vuốt thú dữ để trở nên bánh tinh tuyền dâng tiến Chúa Kitô."
          Đoàn sư tử thi nhau cắn xé thánh nhân. Khi bị đoàn vật xâu xé, thánh nhân luôn miệng kêu tên Chúa Giêsu. Có người hỏi thánh nhân tại sao cứ kêu tên Giêsu hoài như thế. Thánh nhân trả lời: “Tôi kêu tên Giêsu vì chính tôi đã ghi khắc tên đó trên trái tim tôi và đời đời không bao giờ quên được”. Sư tử ăn hết thịt thánh nhân và để xương lại nguyên vẹn.
          Các Kitô hữu kính cẩn thu lượm xương thánh nhân đưa về an táng ở ngoại ô thành Rôma. Đến thời hoàng đế Thêôđô trẻ, giáo doàn Antiôkia rước xương thánh đó về Antiôkia cách rất trọng thể. Đám rước diễn hành đi theo những con đường thánh nhân đã đi về Rôma chịu tử đạo.
          Và rồi khi nhìn về những người Do Thái, Song song với việc ân hận về việc làm của cha ông họ, họ tiếp tục đi vào vết xe đổ của tiền nhân: bách hại “Ngôn sứ và Tông Đồ được Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa sai đến”(Lc 11, 49). Hầu hết các luật sĩ và Pha-ri-sêu từ chối không nhìn nhận ông Gioan Tẩy Giả ( Lc 7,30), lên án và xử tử Đức Ki-tô (Lc 19,15), bách hại các Tông Đồ đúng như lời Đức Ki-tô đã tiên báo trong bài Tin Mừng của ngày hôm nay. Sự mâu thuẫn trong việc làm của các luật sĩ một lần nữa bị Đức Giê-su kết án: “ Thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu tất cả các ngôn sứ.’’(Lc 11,50a)
          Nhìn lại đời sống của mỗi người Ki-tô hữu, đã có biết bao lần lời nói và hành động của chúng ta chất chứa những mâu thuẫn dẫn đến những đau khổ, bất hạnh, cả những chia rẽ gây mất niềm tin trong cuộc sống… Lời Chúa ngày hôm nay là tiếng chuông cảnh tỉnh về thói giả hình trong đời sống đức tin cũng như đời sống thường ngày của con người.

 

Thứ Sáu. THÁNH LU-CA, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG, lễ kính.
2Tm 4,10-17b; Lc 10,1-9.
LÀM CHỨNG BẰNG ĐỜI SỐNG
          Thánh Luca là người Hy Lạp ngoại giáo trở lại, và là môn đệ của Thánh Phaolô. Người là tác giả sách Phúc Âm thứ ba và sách Tông Ðồ Công Vụ.
          Thánh Luca là người học thức, có tài viết văn, có tài kể chuyện, người đề tặng cả hai tác phẩm của mình cho một nhân vật thế giá tên là Têôphim, mới theo đạo Kitô. Thánh Luca viết sách Tin Mừng khoảng giữa năm 70 và 75 sau công lịch, nhấn mạnh đến:
          Chúa Giêsu là Ðấng Cứu Ðộ mọi người, giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Chúa thu hút nhân loại bằng những đức tính cao cả của Ngài. Ngài luôn cầu nguyện ngợi khen Chúa Cha.
          Thiên Chúa nhân từ và thương xót.
          Tinh thần bỏ mình và nghèo khó.
          Thánh Luca dùng lời lẽ có ý nghĩa để diễn tả lại những trường hợp Chúa Giêsu tỏ lòng thương xót các phụ nữ hư hỏng, và phục hồi quyền lợi thế giá cho họ. Người đã kể lại những câu chuyện có ích lợi đặc biệt cho dân ngoại, như các chuyện bà Mađalêna, ông Giakêu, người trộm lành, người Samaria nhân hậu.Tin Mừng theo Thánh Luca có lẽ là sách Tin Mừng hấp dẫn nhất
          Trang Tin Mừng hôm nay, ta thấy Chúa Giêsu đã sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, không phải chỉ có nhóm tông đồ mà còn có cả nhóm môn đệ nữa. Chủ ý của Thánh Luca trong bài tường thuật này là muốn cho mọi người hiểu rằng không riêng gì các tông đồ mà là tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Và như thế, nhiệm vụ truyền giáo là bổn phận của tất cả mọi người, không loại trừ ai.
          Trước cánh đồng truyền giáo bao la, Chúa Giêsu tha thiết có những thợ gặt cho cánh đồng bát ngát của niềm tin: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2).
          Tuy là một lời mời gọi rất khẩn thiết, nhưng người thợ gặt phải như lòng Chúa mong ước, đó là những thợ gặt chuyên cần, luôn biết quan tâm, tha thiết cho mùa gặt. Nếu chậm trễ, hạt lúa niềm tin có thể bị hư mất, bị cơn lũ thế gian cuốn trôi đi. Chính vì thế, tiêu chuẩn của người thợ gặt mà Chúa thao thức trước hết là phải có lòng can đảm, dấn thân, không ngại khó, ngại khổ. Vì thế mà Chúa Giêsu đã ví hình ảnh người được sai đi: “Như chiên con vào giữa bầy sói” (Lc 10,3).
          Tiếp đến, người thợ gặt phải hết lòng thao thức với việc gặt lúa, không được xao nhãng với sứ vụ, không bị phân tâm bởi những ý nghĩ khác, không bám víu vào của cải vật chất, không nỗ lực tìm kiếm và coi vật chất là mục đích của đời mình, bởi vì, “Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6,21).
          Trái lại, phải biết sống phó thác, đơn sơ, khó nghèo: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” (Lc 10,4). Chỉ khi sống thanh thoát với tiền bạc, của cải, danh vọng, người môn đệ mới biết phó thác vào Chúa, tin tưởng vào Chúa như lời Thánh Vịnh: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105).
          Không màng đến của cải, vật chất, gia tài duy nhất mà người môn đệ mang theo là nguồn bình an của Chúa, sự bình an đích thực, không giống như sự bình an giả tạo của thế gian. Sự bình an có được khi người môn đệ biết tín thác, tin tưởng vào Chúa. Từ đó, người môn đệ lan tỏa sự bình an đến cho những người mình gặp gỡ: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: ‘Bình an cho nhà này'” (Lc 10,5). Có bình an trong tâm hồn, người môn đệ chỉ chú tâm vào một điều duy nhất là làm chứng cho Đức Kitô, như những lời chia sẻ của Thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21).
          Cánh đồng truyền giáo bao la, bát ngát, vẫn đang cần những người thợ gặt dấn thân cho sứ vụ. Truyền giáo phải là mối ưu tư hàng đầu của mỗi người Kitô hữu chúng ta. Đó không chỉ là nhiệm vụ của riêng một số người được tuyển chọn, nhưng là của tất cả những người Kitô Hữu, những người nhận lãnh lệnh truyền từ chính Chúa Kitô: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
          Và ta được mời gọi chứng cho Đức Kitô không chỉ bằng lời nói, nhưng còn phải bằng chính cuộc sống của chúng ta. Một cuộc sống thấm đượm tình yêu thương, bác ái nơi gia đình, ngõ xóm, nơi trường học, công ty, xí nghiệp, hay bất cứ nơi nào chúng ta tới. Đó sẽ là một minh chứng rõ nét nhất về sự hiện diện của Thiên Chúa, và là một lời rao giảng hùng hồn nhất về tình yêu của Thiên Chúa giữa thế giới.

 

Thứ Bảy Tuần XXVIII Thường Niên.
Rm 4,13.16-18; Lc 12,8-12.
TUYÊN XƯNG THẦY GIỮA THẾ GIAN

          Trước khi sai các Tông Đồ đi rao giảng. Chúa Giêsu là vị Thầy đã chỉ dạy thật rõ ràng: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 19), phép rửa khiến mọi người trở thành môn đệ Đức Kitô và đi vào mối tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa “bằng cách dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền dạy cho anh em”.
          Và như thế, ta thấy môn đệ thuộc bất cứ thời nào đều có một điểm chung đó là cùng tuân giữ toàn bộ giáo huấn của Chúa, sống cho sự thật của Chúa là điều rất an ủi cho tất cả mọi người chúng ta “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Chúa Giêsu thật là Đấng Emmanuel, Ngài ở cùng Giáo hội, ở cùng các môn đệ và ở cùng chúng ta trong mọi bước đường rao giảng làm chứng cho tình yêu của Ngài.
          Thật vậy, một khi đã biết Chúa, sống với Chúa và cảm nếm được sự ngọt ngào của tình yêu Chúa, thì các môn đệ không thể nào ngồi yên, họ lập tức lên đường truyền bá Đức Kitô cho mọi người, như hình ảnh của hai môn đệ trên đường Emau, của các tông đồ sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông đã mạnh dạn ra đi tuyên xưng niềm tin của mình, rao giảng về một Đức Kitô chết và sống lại “Đức Giêsu đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại” (Cv 2, 23).
          Dẫu biết rằng rao giảng như thế sẽ bi thiệt thòi, mất mát, nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng không làm các ông sợ hãi, các ông đã tin vững chắc vào lời Đức Giêsu nói: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12, 8)
          Chúa Giêsu khẳng định rằng: Ai tuyên xưng Ngài trong cuộc sống hôm nay, Ngài sẽ không quên họ trong cuộc sống mai sau. Muốn tuyên xưng Chúa đòi hỏi ta phải có đức tin mạnh mẽ và có lòng cậy trông vững vàng. Chúa mong muốn ta đưa Chúa đến cho mọi người bằng những công việc và những hành động cụ thể thiết thực chứ không chỉ bằng môi bằng miệng.
          Lối sống thực dụng hôm nay dễ làm ta quên Chúa. Ta không chối Chúa trực tiếp như Phêrô đã chối Chúa, nhưng lại chối Chúa một cách gián tiếp để biện hộ cho những lầm lỗi, cho những hoàn cảnh, cho miếng cơm manh áo, cho sự thăng tiến bản thân và bộn bề của cuộc sống. Tuy ta chối bỏ và lãng quên Chúa nhưng Ngài vẫn một mực yêu thương và mong đợi ta trở về. Ta hãy từ bỏ tất cả để chạy đến với Chúa và làm chứng cho Chúa bằng những công việc cụ thể và thiết thực nhất.
          Trong xã hội ngày nay, không còn những cực hình, tra tấn, nhưng chúng ta luôn phải chiến đấu với ba kẻ thù lớn, đó là thế gian, xác thịt và ma quỷ. Trước hết, để chiến thắng được thế gian, chúng ta phải thực hiện những cuộc lội ngược dòng. Thế gian đang cuốn mình trong dòng chảy của bạc tiền, còn chúng ta được mời gọi sống theo tinh thần nghèo khó. Nhiều người bất chấp mọi thủ đoạn để tìm cách leo lên những nấc thang danh vọng, còn chúng ta hãy học theo Chúa Giêsu, hãy cúi xuống để phục vụ mọi người. Trong xã hội đề cao lối sống cá nhân chủ nghĩa, ai cũng muốn thu góp cho bản thân mình, chúng ta được mời gọi học cách cho đi và đến với mọi người.
          Tiếp đến, chúng ta phải chiến đấu với tính xác thịt. Đây là một kẻ thù rất khó đánh bại. Muốn chiến thắng được nó, chúng ta cần phải tái lập lại vai trò của lý trí. Trước khi loài người sa ngã, lý trí con người làm chủ được tính xác thịt và biết tùng phục Thiên Chúa. Nhưng sau khi nguyên tổ sa ngã, lý trí con người đã không làm chủ được tính xác thịt, và cũng không quy hướng về Thiên Chúa, cho nên con người đã chạy theo những đam mê tội lỗi. Giờ đây, chúng ta phải cố gắng dùng lý trí điều khiển tính xác thịt của mình, để không chiều theo những khuynh hướng xấu xa mà biết quy hướng về Thiên Chúa và những điều thiện hảo.
          Còn ma quỷ, kẻ thù thứ ba, chúng luôn tìm cách quấy phá và kéo chúng ta ra khỏi vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Có khi chúng xuất hiện với bộ mặt đầy hung ác để chúng ta khiếp sợ, có khi lại ẩn nấp dưới những điều tưởng như là tốt đẹp để chiêu dụ chúng ta. Chúng ta phải thật khôn ngoan, sáng suốt và kiên trì để chiến đấu với nó.
          Nếu đơn độc chiến đấu với ba kẻ thù này, dường như chúng ta đã cầm chắc thất bại. Vì vậy, chúng ta cần phải có sự trợ giúp từ Thiên Chúa và mọi người. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, và nhất là Bí tích Thêm Sức, chúng ta đã được đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần, nhưng nhiều khi chúng ta đã quên mất Ngài.
          Nếu có Chúa Thánh Thần trợ lực, chúng ta sẽ không còn phải e ngại bất kỳ thế lực nào. Hơn nữa, chúng ta cũng còn có những người hướng dẫn tinh thần, những anh chị em luôn kề vai sát cánh bên chúng ta, hãy nắm lấy tay họ và cùng nhau làm chứng cho Đức Kitô, cùng nhau tiến về Nước Trời.
          Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Hễ ai xưng nhận Thầy trước mặt người đời, thì Con Người cũng sẽ xưng nhận nó trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12,8). Chúa Giêsu đã truyền cho chúng ta hãy tuyên xưng Danh Ngài trước mặt người đời. Để thực thi lệnh truyền này, nhiều người Kitô hữu đã phải đối mặt với những bắt bớ, phỉ báng, tra tấn, và cuối cùng là những cái chết đầy bi hùng. Còn trong thời đại ngày nay, chúng ta phải đối mặt với những điều gì khi tuyên xưng niềm tin của mình?

 

Chúa nhật 28 thường niên, năm C

HÃY CÓ TÂM TÌNH TẠ ƠN !

Văn hóa biết ơn của Việt nam rất hay. Từ thuở bé, tôi vẫn thường nghe dạy : “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. “Uống nước nhớ nguồn”. “Hòn đất ném đi hòn chì nám lại”.

Thật vậy, lời “cám ơn” rất đơn sơ bé nhỏ, nhưng đem lại cho người làm ơn một sự vui thỏa, ấm áp. Đó là phép lịch sự, tế nhị tối thiểu, bình thường, và phải cư xử như vậy mới là người biết điều. Việt Nam cũng có những câu nói diễn tả người vô ơn: “Ăn cháo đá bát”. “Vắt chanh bỏ vỏ”. “Có trăng phụ đèn”. “Ăn mật trả gừng, ăn sung trả ngải”. Kẻ muốn được ơn thì nhiều, kẻ biết ơn thì quá ít. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay có tỷ số là một phần mười mà thôi.

Cám ơn Thiên Chúa là dâng trả ân huệ về cho Ngài, là nhìn nhận Ngài là nguồn mạch tuôn trào ra ân huệ chúng ta đã lãnh nhận. Cám ơn là đi vào mối tương giao tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa đến với chúng ta và trở lại với Ngài. Người vô ơn là người chặn đứng luồng tương giao này lại, không cho nó trở về với nguồn mạch, và sẽ làm cạn khô tương giao đang có. Công trình cứu độ của Đức Giêsu chỉ thực sự sinh hiệu quả nếu chính chúng ta cởi mở để cho mọi sự quay trở lại với Người.

“Cảm ơn” là tỏ lòng biết ơn với người đã làm điều tốt cho mình. Mỗi khi ta nhận được một ơn huệ gì, thì ta phải biết tạ ơn Chúa và cảm ơn những người làm ơn cho ta. “Cảm ơn” ấy là hai từ mà ta vẫn nói hàng ngày. “Cảm ơn”, lời nói cửa miệng tưởng như có thể nói với bất kỳ ai, bất kỳ lúc nào, nhưng nhiều khi ta không biết nói lời cảm ơn.

Trang Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca nhắc cho ta nhớ lại phép lạ Chúa Giêsu chữa lành mười người phong hủi, tất cả đều được khỏi bệnh. Nhưng chỉ có một người đến tạ ơn và ca tụng Thiên Chúa. Chúa Giêsu không khỏi buồn lòng trước sự vô ơn của con người, nên Ngài đã thốt lên: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”? (Lc 17, 17-18).

Bi đát thay trong mười người hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người ngoại đạo. Còn những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.

Chúa Giêsu buồn và nói: “Không phải cả mười người được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này”. Sở dĩ Ngài xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Chúa vì đã nhận ơn phần xác, thì Ngài lại ban thêm cho ơn phần hồn là củng cố niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh. Ngài nói: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.

Ta thấy Chúa Giêsu thường tìm đến nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha. Nhưng khi biểu lộ tâm tình tạ ơn thì Ngài lại thực hiện công khai trước mặt mọi người. Chúa muốn dạy mọi người bài học về lòng biết ơn đối với Thiên Chúa.

Trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn rồi phân phát cho mọi người (Ga  6, 11).  Vào bữa Tiệc Ly, khi lập bí tích Thánh Thể, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ (Lc 22, 19). Đứng trước nấm mồ Lazarô, trước khi làm cho anh ta sống lại, Chúa Giêsu đã dâng lời cảm tạ Thiên Chúa (Ga 11, 41).

Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một lễ tạ ơn liên lỉ. Chúa Giêsu đã hy sinh mạng sống làm hy tế dâng lên Đức Chúa Cha. Vì thế, ngày hôm nay, khi dâng lễ tạ ơn mỗi ngày, chúng ta cử hành mầu nhiệm cuộc đời Chúa, chúng ta sống lại tâm tình tạ ơn của Chúa, là tâm tình của Người Con dâng lên Chúa Cha.

Cuộc đời của Chúa là bài ca tạ ơn luôn vang lên những giai điệu vui tươi trong những giây phút hân hoan và trong cả những giờ khắc bi thảm. Bài ca tạ ơn đó đã ngân lên từ môi miệng của Mẹ Maria (Magnificat), ông Zacaria (Benedictus) và vẫn tiếp tục ngân vang trong tâm hồn những người tín hữu hôm nay.

Trong các thư của Thánh Phaolô, thánh nhân cũng nhấn mạnh đến lời tạ ơn. Hơn nữa, ngài luôn sống trong tâm tình tạ ơn. Ngài nói: “Tôi luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa” (Plm 1, 4). Ngài còn nhắc nhở mọi người “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn” (1 Tx 5, 18).

Thánh Phaolô luôn dâng lời tạ ơn lên Chúa: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Ngài đã ban cho anh em nơi Đức Kitô”. Ngài cám ơn tất cả những ai giúp ngài trong công việc mục vụ: “Quà anh em tặng cho tôi đó, chúng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Ngài chấp nhận”. Như vậy, câu ngạn ngữ của người Anh nói rất chí lý: “Cho người có lòng biết ơn chính là cho vay”.

Nhìn vào xã hội ngày nay, con số những người biết ơn Chúa, tôn thờ Chúa, vẫn còn là một con số rất khiêm tốn. Còn những kẻ vô ơn thì nhiều vô kể. Chúa luôn ban ơn cho người lành cũng như kẻ dữ, cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Thế mà con người ngày càng kiêu ngạo, vô ơn đã loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.

Hỏi rằng trong chúng ta có mấy người biết cảm tạ Chúa và cảm ơn anh em? Biết bao nhiêu lần chúng ta than vãn, kêu la, trách móc hết việc này đến việc khác, hết người này đến người kia, Hơn thế nữa, nhiều người còn oán trách cả Thiên Chúa. Vậy, Lời Chúa hôm nay dạy mỗi người chúng ta hãy biết nói lời cảm ơn từ những chuyện nhỏ nhất, bởi vì chúng ta đã nhận được biết bao nhiêu hồng ân Chúa ban cho ta qua vũ trụ vạn vật, qua mọi người trên trái đất này và nhất là qua những người thân cận, những người xung quanh ta.

Lòng biết ơn biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn của mọi sự. Biết ơn là một trong những đức tính tốt đẹp của con người đối với Đấng Tạo Hoá. Vì Ngài đã ban muôn vàn phúc lộc cho chúng ta: từ không khí để ta hít thở, mặt trời để soi sáng ta, cho nước để ta uống, cho muôn loài muôn vật để ta sử dụng và làm thức ăn. Ngài luôn quan phòng, giữ gìn ta trong mọi nơi, mọi lúc… Thiên Chúa còn ban cho ta biết bao điều cao cả qua cha mẹ, qua anh chị, qua thầy cô, qua bạn hữu, qua tất cả những người đã giúp đỡ và làm ơn cho ta… Thể hiện lòng biết ơn là một nghĩa vụ hàng đầu trong cuộc sống con người.

Xin Chúa cho ta luôn biết sống có tình có nghĩa, luôn thể hiện lòng biết ơn, luôn quý trọng những hồng ân mà Chúa đã thương ban, và những gì anh chị em đã làm cho ta. Xin Chúa cho ta luôn biết sống trong tâm tình tạ ơn Chúa như thánh Phaolô đã khuyên bảo giáo dân Côlôsê: “Anh em hãy luôn sống trong tâm tình tạ ơn Chúa và biết ơn Chúa”. Đồng thời, ta cũng phải luôn biết cám ơn mọi người, vì có thể nói, tất cả những người có liên hệ xa gần với ta, đều là những ân nhân của ta.

Huệ Minh

 

CHÍN NGƯỜI KIA ĐÂU

Lời Chúa: Lc 17, 11-19
Trên đường lên Giêrusalem, Ðức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” Thấy vậy, Ðức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Ðang khi đi thì họ đã được sạch. Một người trong bọn, thấy mặt được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Ðức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari. Ðức Giêsu mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” Rồi Người nói với anh ta: “Ðứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”
Suy niệm:
Mười người phong đón gặp Ðức Giêsu.
Họ chỉ dám đứng xa, nài xin Ngài thương xót.
Ðức Giêsu không chữa cho họ ngay,
Ngài muốn thử thách lòng tin của họ.
Ngài bảo họ hãy đi trình diện với các tư tế
như thể họ đã được khỏi bệnh rồi.
Mười người phong đã vâng phục lên đường,
và chính trên đường đi, tất cả được khỏi bệnh.
Niềm vui bất ngờ ùa vào lòng mọi người.
Cả nhóm tiếp tục cuộc hành trình,
trừ một người phong ở vùng Samari.
Lòng biết ơn đối với Ðức Giêsu khiến anh quay lại,
sấp mình dưới chân Ngài mà tạ ơn.
Chín người kia đâu?
Ðức Giêsu ngạc nhiên đặt câu hỏi.
Chắc họ đã đi trình diện các tư tế như lời Ðức Giêsu,
nhưng họ quên Ðấng mới ban ơn cho họ.
Họ vui mừng ngừng lại ở quà tặng,
nhưng không vươn tới người tặng quà.
Họ đã có lòng tin nên được khỏi bệnh,
nhưng họ lại thiếu lòng biết ơn cần thiết.
Lòng biết ơn khiến lòng tin trở nên sâu xa hơn,
vì là gặp lại chính Ðấng đã ban tặng.
Chín người kia đâu?
Ðức Giêsu không làm phép lạ để được biết ơn.
Ngài mong những người kia trở lại để gặp họ,
và trao cho họ chính con người Ngài.
Ðiều này còn quý hơn cả ơn được khỏi bệnh.
Ơn lành bệnh chỉ là nhịp cầu
để ta gặp gỡ Ðấng ban ơn,
và lớn lên trong niềm tin cậy mến.
Chín người kia đâu?
Có khi tôi thường thuộc về nhóm chín người.
Tôi quá quen với những ơn Chúa ban,
đến độ thấy đó là chuyện bình thường,
đến độ không thấy cần phải tỏ lòng biết ơn.
Thật ra, biết ơn phải là tâm tình chủ yếu
chi phối lời cầu nguyện và cuộc sống của tôi.
Toàn bộ đời tôi là một hồng ân, một quà tặng.
Tôi muốn sống đời tôi như một lời tạ ơn không ngừng.
Tạ ơn là mãn nguyện về những gì đã lãnh nhận,
là thấy mình được bao bọc bởi Tình Yêu,
và muốn làm mọi sự để đáp lại Tình Yêu đó.
Người phong vùng Samari đã trở lại tôn vinh Thiên Chúa,
vì Ngài đã chữa anh lành bệnh qua Ðức Giêsu.
Chúng ta cũng đã nhận được biết bao ơn Chúa
từ tay những người xa lạ hay thân quen.
Xin cám ơn cuộc đời, cám ơn mọi người.
Ðời tôi là quà tặng của Chúa cho tôi.
Ước gì nó thành quà tặng của tôi cho mọi người.
Cầu nguyện:

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.

Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
 
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

- October 20, 2019