29. TỪ NÚI TABÔRÊ ĐẾN LỄ RƯỚC LÁ
Đã
hơn hai năm rưỡi rồi, Chúa Giêsu thi hành sứ mạng của Ngài,
bằng lời giảng dậy và bằng phép lạ. Nay đã gần tới thời giờ
Ngài phải nộp mình chịu chết và trở về với Cha Ngài. Ngài
quyết định cho các tông đồ được nhìn thấy Thân Xác Ngài biến
hình vinh quang trước khi bị bọn đao phủ làm mất dạng, để
niềm tin của các vị không bị lung lay khi thấy Thầy mình
tử nạn. Cuộc biến hình vinh quang này xảy ra tại núi Tabôrê,
cách Naxarét hai dặm, y như Phúc Âm đã thuật lại. Gương mặt
Chúa giãi sáng như mặt trời, y phục Ngài trắng hơn tuyết,
toả rạng ngời ánh sáng.
Nhưng
có một điều Phúc Âm không nói đến là: lúc một vài thiên thần
đi tìm ông Maisen và ông 'lia để làm chứng nhân cho cuộc
hiển vinh đó, các thiên thần cũng đi rước Mẹ Maria lên núi
Tabôrê. Chúa Giêsu yêu mến Mẹ Ngài lắm, không thể để Mẹ không
được dự vào cuộc biến hình này, một cuộc biến hình không những
xứng với vẻ cao trọng khôn tả của Mẹ, mà còn xứng với Mẹ đồng
công vào cuộc Tử Nạn Cứu Chuộc của Chúa. Mẹ vượt trên các chứng
nhân của cuộc biến hình về cao trọng và công nghiệp, Mẹ cũng
vượt cao trên họ về cách nhận thức mầu nhiệm này. Không những
Mẹ nhìn thấy Nhân Tính biến hình của Chúa Giêsu Kitô, mà Mẹ
còn nhìn thấy cả Thần Tính của Ngài, trong suốt cuộc biến hình
lạ lùng ấy nữa. Mẹ nhìn mà không sợ hãi như các tông đồ, nhưng
với một lòng thán phục bình thản và khoái thú. Ngoài ra, nhiều
lần khác, Mẹ đã từng nhìn thấy Thể Xác Con chí thánh Mẹ giãi
chiếu ánh huy hoàng của Linh Hồn Ngài. Nhưng hiệu quả cuộc
Chúa biến hình lần này sinh ra trong Mẹ còn lớn lao hơn nữa.
Khi ra khỏi cuộc chiêm ngắm này, Mẹ hoàn
toàn bừng cháy tình yêu, hoàn toàn nên như Thiên Chúa, và Mẹ
vẫn duy trì y nguyên hình ảnh sống động của quang cảnh đó suốt
những ngày còn lại của Mẹ ở đời này.
Sau
cuộc Chúa biến hình bồi dưỡng thêm này, Mẹ lại được rước về
nhà Naxarét. Nơi đây, Chúa Giêsu đến gặp lại Mẹ ngay, nhưng
Chúa ở lại nhà ít thời gian thôi, vì lễ Vượt Qua đã gần đến.
Trước khi từ biệt ngôi nhà đáng tôn kính này lần cuối cùng,
Chúa cảm tạ Chúa Cha đã ban hữu thể nhân loại cho Ngài, và
dâng lại cho Thiên Chúa để cứu rỗi loài người. Ngài thưa lên: "Con
hân hoan sắp làm thoả nguyện phép công bình của Cha, và hoà
giải con cháu Adong với Cha. Con sắp sửa đi dựng cờ Thánh Giá,
để những ai yêu mến nhân đức sẽ chiến đấu dưới bóng cờ này".
Mẹ
Maria nhìn thấy trong Linh Hồn Chúa Giêsu, như trong một tấm
gương, tất cả tâm tình của Chúa, và đem hết tâm hồn hợp
nhất với những tâm tình ấy. Mẹ cũng nối tiếp thưa lên với Thiên
Chúa rằng: "Lạy
Thiên Chúa toàn năng, con cảm tạ Chúa vì ngay ở đời này, Chúa
đã nâng con lên tới chức làm Mẹ của Con Chúa, đã ban tràn ngập
cho con nhiều ân sủng khi con được cùng sống với Ngài, trong
suốt ba mươi năm. Con sắp đi tham dự vào lễ hi sinh mạng sống
của Ngài. Ước chi một mình con được chịu tất cả những đau khổ
đang chờ đón Ngài". Dâng kinh nguyện ấy xong, Mẹ và Chúa cùng nói với nhau nhiều chuyện. Trong
cuộc chuyện vãn này, đau khổ và hứng vui đã pha lẫn với những
lời Mẹ than vãn rất thiết tha, vì Mẹ không thể ngăn cản được
cuộc Tử Nạn của Chúa, và không được chết cùng với Chúa.
Mang
đầy những tâm tình đó, Chúa và Mẹ rời Naxarét để đi Giêrusalem.
Hồi này, Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ lẫy lừng hơn những
phép lạ đã làm trước, khi đi qua xứ Giuđêa. Mẹ Maria đôi khi
mới rời xa Chúa để làm một vài công việc đặc biệt, nhưng lúc
đó lại có ông Gioan ở liền bên Mẹ, thấu hiểu được những mầu
nhiệm cao cả giấu ẩn trong Trái Tim Mẹ. Trong những ngày sau
cùng của Chúa, noi theo gương Chúa, Mẹ ban nhiều ân huệ cho
loài người: cải hoá các tội nhân, chữa lành các bệnh nhân,
cứu trợ những người nghèo khó và đau khổ. Nhưng vì luôn bừng
cháy một tình yêu cực lực đối với Con của Mẹ, nên Mẹ cảm thấy
một nỗi đau buồn buốt nhói vì phải xa cách mặt Ngài, và một
khát vọng nóng bỏng được gặp lại Chúa, đến nỗi khi Chúa chậm
trở về với Mẹ hơn thường, Mẹ đã bị ngất xỉu. Về phía Chúa Giêsu,
Chúa cũng thoả nguyện với những tâm tình của Mẹ, nên Chúa không
thể xa lìa Mẹ lâu được. Ngoài ra, trong linh hồn vô nhiễm mĩ
lệ và rạng ngời của Mẹ, Chúa còn tìm được một xoa dịu rất quý
báu cho những đau khổ Ngài chịu trong Thân
Xác.
Chính
vào thời gian này, Chúa Giêsu phục sinh cho Laxarô tại Bêtania,
nơi Chúa dừng lại sáu ngày trước lễ Vượt Qua. Trong
bữa tiệc dọn đãi Chúa, Maria Mađalêna đã chứng tỏ lòng quảng
đại tôn kính Ngài theo cách của bà sáng nghĩ. Bà tưới trên
chân Chúa một thứ hương thơm cao giá, rồi lấy tóc mà lau. Bà
lại đập vỡ luôn cả chiếc bình bằng bạch ngọc đựng hương thơm
ấy mà đổ hết những giọt cuối cùng trên đầu Đấng Thương Xót
cứu chuộc bà, như bà đã làm khi mới trở lại.
Tên
Giuđa tham lam lớn tiếng chỉ trích bà: "Làm
cái gì mà phung phí thế kia?" Khi Chúa Giêsu lên tiếng biện hộ cho bà, y chỉ trích luôn cả Chúa. Lòng đầy
hờn giận và căm phẫn, y quyết tâm tìm cách hại cả mạng Thầy
chí thánh mình. Rất buồn khổ vì tội ác quái gở đó, Mẹ Maria,
ngay trong đêm ấy, đã gọi tên tội lỗi khốn nạn đó, dùng những
lời hết sức cảm động và vừa khóc vừa tỏ cho y biết ý định ghê
gớm của y, nài xin y hãy báo thù chính Mẹ, nếu y còn cố chấp
gan lì trong mối hờn giận Chúa Giêsu. Mẹ lại đem tặng y nhiều
tặng vật mà Mẹ nhận được của Mađalêna biếu Mẹ, với chủ ý ấy.
Nhưng y không hề mềm lòng trước lòng nhân từ bao la của Mẹ,
y càng sắt đá thêm ra, và thâm hiểm lặng im để chứng tỏ mối
căm phẫn câm nín của y. Chưa thất vọng, Mẹ đầy tình thương
còn đi tìm gặp Chúa Giêsu, vừa sấp mình xuống dưới chân Chúa
vừa chan hoà nước mắt, Mẹ đem hết tình cảm thương nói với Chúa,
làm cho Chúa cảm nghiệm được một an ủi rõ ràng trong nỗi buồn
chí tử mà ác tâm sâu sắc của Giuđa đã gây ra cho Chúa.
Sau
đó, theo thói quen, Mẹ ở lại với Chúa trong phòng nguyện, bắt
chước Chúa cầu xin. Chúa phủ phục trước uy nhan Cha Ngài,
và một lần nữa, với một tâm hồn nhẫn nhục tuyệt cao, chấp nhận
chịu đau khổ và nhục nhã trong cuộc tử nạn để tôn vinh Cha
Ngài và cứu rỗi nhân loại. Mẹ Maria cũng khóc với Chúa và Mẹ
hợp nhất với lễ hi sinh Ngài dâng. Lễ dâng kép đôi ấy rất đẹp
lòng Cha hằng hữu, nên trước lúc nửa đêm, Cha đã hiện ra dưới
hình Người cùng với Chúa Thánh Thần và rất đông vô số thiên
thần. Cha phán với Con Ngài: "Cha
chấp nhận lễ hi sinh của Con, và bằng lòng thi hành phép công
bằng nghiêm thẳng của Cha trên Con, để tha tội cho loài người.
Và con nữa, hỡi Maria, Cha muốn con theo gương Cha mà trao
nộp Con của con để cứu chuộc loài người". Mẹ trả lời: "Lạy Chúa, con chỉ là tro bụi, muôn nghìn lần chẳng đáng làm Mẹ của Con Chúa,
con xin dâng Người cho Chúa và con xin dâng mình con cùng với
Người. Con nài xin Chúa cho con được đau khổ như Người".
Thiên
Chúa nâng cả hai Mẹ Con lên và đặt Ngôi Lời Nhập Thể trên ngai
của Ngài và bên hữu Ngài. Nhìn thấy thế, Mẹ Maria
hứng khởi một nguồn vui thánh thiện và lại được mặc một vẻ
lộng lẫy thiên đàng. Mẹ đọc lên những câu đầu của thánh vịnh
109 thành một khúc hát cao quang. Thiên Chúa áp dụng vào Con
Ngài những lời khác của thánh vịnh ấy. Bài bình giảng của Thiên
Chúa gồm lại hai điểm chính là: tôn vinh Con Ngài và hạ nhục
kẻ tội lỗi, cừu thù của Ngài xuống. Để làm đảm bảo và hình
ảnh của cuộc vinh phong trong tương lai này, Ngài quyết định
Chúa Giêsu phải vào đô thành Giêrusalem bằng một cuộc khải
hoàn rạng rỡ như Thánh Kinh tiên báo. Trong phần đêm còn lại,
Chúa Giêsu và Mẹ Ngài đã nối tiếp những cuộc hàn huyên thân
thiết.
Buổi
sáng một ngày nọ ứng với Chúa Nhật Lễ Lá sau này, Chúa Giêsu
lên đường về Giêrusalem, có rất đông thiên thần tháp
tùng ca ngợi tình thương của Ngài đối với nhân loại. Các thánh
ký đã thuật lai cuộc đón tiếp tưng bừng mà mọi người say sưa
hoan hô Chúa: "Vạn
tuế Đức Vua nhân danh Chúa đến với chúng ta! Hoan hô con Vua
Đavít!" Tuy nhiên, bề ngoài chẳng có gì tỏ ra xứng với một cuộc tung hô khải hoàn như
thế. Chúa đến, cỡi trên một con lừa nhỏ, chẳng có gì lộng lẫy.
Nhưng chính thánh ý Thiên Chúa đã muốn rằng, trong ngày hôm
đó, tất cả các tâm hồn đều phải dâng cho Con Ngài một niềm
tôn kính huy hoàng. Tại Bêtania, nơi Mẹ lưu ngụ, Mẹ nhìn thấy
tất cả quang cảnh tưng bừng ấy, và nghe thấy tiếng Thiên Chúa
Cha phán tỏ cho mọi người tham dự đều nghe hiểu được: "Cha đã tôn vinh Con rồi, Cha sẽ còn tôn vinh Con nữa".
Thiên
Chúa cũng muốn cuộc khải hoàn này có một tầm mức rộng rãi khác
thường. Ngài sai Đức Tổng Thần Micae đem tin đó xuống
u ngục. Tại đây, các thánh được thấy tất cả những gì diễn biến
tại Giêrusalem, các ngài hát lên nhiều ca vịnh mừng Chúa Cứu
Chuộc chiến thắng tội lỗi, sự chết và hoả ngục. Ngoài ra, tất
cả những người đã biết Chúa Giêsu bất cứ cách nào, không những
ở Palestina, mà cả ở Aicập hay các nơi khác, đều được Thiên
Chúa ban cho một ánh sáng, làm họ hân hoan và tăng thêm niềm
tin và nhân đức của họ. Chúa cũng không để cho ngày vui đó
phải nhuốm mầu tối tăm cái chết: không một ai chết trong ngày
đó. Chúa cũng không cho phép ma quỷ thu được một lợi lộc nào
trong suốt thời gian khải hoàn ấy, chúng bị xô xuống vực sâu
hoả ngục hết.
Suốt
trong hai ngày, chúng cuống lên vì xấu hổ và điên cuồng trong
hoả ngục. Luxiphe tiết lộ cho chúng quỷ biết y sợ rằng
con người khải hoàn dị thường vào Giêrusalem là Đấng Cứu Thế.
Y nói: nếu đúng thế đừng thúc giục bọn Dothái giết Ngài, như
đã xúi giục trước nữa, trái lại phải ngăn cản, vì cái chết
của Ngài sẽ tiêu diệt nhà nước nó và cứu rỗi thế gian. Sau
quyết định đó, Satan đã hiện thành người đến bảo Giuđa thôi
ý định tội lỗi của y, hắn tặng cho y tất cả vàng bạc y muốn.
Nhưng tên phản phúc bỉ ổi nhất đó, vì mất ân sủng rồi, nên
cứ lì lợm với quyết định của y. Hoả ngục cũng thổi cho mấy
ông biệt phái ý tưởng đừng giết Chúa Giêsu trước lễ Vượt Qua,
với hi vọng ngăn cản được về sau. Quỷ lại mớm cho phu nhân
của trấn thủ Philatô những áy náy về số phận của Chúa, và cho
cả nhà cai trị yếu bóng vía đó chống lại cuộc lên án mà ông
ta thấy rõ là bất công oan uổng.
Phần
Chúa Giêsu, Ngài cứ chuẩn bị cho môn đệ suốt trong ba ngày
theo sau cuộc khải hoàn. Ngài đàm đạo với họ về mầu nhiệm
Thánh Giá rất vĩ đại, trong những cuộc đi với họ lên Giêrusalem
hai ngày đầu để giảng dậy dân chúng. Nhưng nhất là với Mẹ Maria,
trong khoảng thời gian Ngài còn ở lại với Mẹ, Chúa Giêsu đã
thông trao tràn trề ánh sáng về việc Cứu Chuộc, mà mục đích
tối cao là tôn vinh Thiên Chúa.
LỜI
MẸ HUẤN DỤ
Hỡi
con, con phải hết sức yêu thích chịu đau khổ, sao cho đối với
con, đau khổ lớn hơn hết là không được đau khổ, vì Chúa
chỉ làm ta đau khổ để ban ơn trợ giúp xuống cho ta hân hoan.
Trong cuộc Chúa biến hình, sau khi tự hạ trước nhan Cha hằng
hữu, Chúa đã dâng lên Cha một kinh nguyện chỉ một mình Mẹ được
biết, để đảm bảo nguồn an ủi nói trên. Kinh nguỵện ấy như thế
này: "Xin
Cha ban cho thân xác người nào chịu đau khổ vì yêu mến Con,
được thông phần vào vinh quang của Thân Xác Con cân xứng với
công nghiệp họ lập".
Nếu
thân xác chỉ làm việc chút ít mà còn được thưởng, phần thưởng
của những người chịu đựng những đau khổ lớn lao, những
người tha thứ sỉ nhục, chỉ biết lấy ơn báo oán, như Mẹ Con
Mẹ đã làm cho Giuđa, họ còn đáng thưởng đến đâu nữa! Không
những Con Mẹ đã bình thản giữ nguyên vẹn danh dự là tông
đồ cho y, mà còn xử nhân từ với y, đến nỗi chỉ tại y đã tự
ý phó
mình cho ma quỷ rồi, nên mới không thể trở về đường lành
được nữa.
Được
thế gian giả dối hoan hô, chẳng có gì quan trọng cả. Chỉ có
một mình Thiên Chúa mới thực sự tôn vinh những ai
đáng tôn
vinh. Vì thế, Con chí thánh Mẹ mới chỉ chịu khải hoàn vào
Giêrusalem với mục đích là làm sáng tỏ quyền năng Thiên
Chúa, làm cho
cuộc Tử Nạn Người chịu thêm nhục nhã, và dậy cho loài người
biết là họ không được hưởng vinh dự ở đời này vì họ, mà
vì một mục đích cao cả hơn họ phải quy hướng những vinh dự
ấy
về, đó là vinh quang Đấng Tối Cao.
Mẹ
thấy con ước ao biết tại sao Mẹ lại không đi với Chúa trong
cuộc khải hoàn đó, nên Mẹ trả lời cho thoả ý con.
Trước khi
rời bỏ Bêtania, Ngài đã cho Mẹ được chọn, nên Mẹ xin
Ngài để Mẹ lại Bêtania, nhưng khi nào Ngài đi chịu nạn chịu
chết xin
cho Mẹ đi cùng: Mẹ tin rằng nếu Mẹ dâng mình đồng công
với Ngài trong những sự nhục nhã Ngài chịu trong cuộc
Tử
Nạn,
làm vui lòng Ngài hơn là chia sẻ với Ngài về những vinh
quang trong
cuộc khải hoàn ấy. Rất có thể là cuộc khải hoàn ấy cũng
cho Mẹ được vinh dự một phần, vì Mẹ là Mẹ Ngài, nhưng
Mẹ chẳng
muốn chút vinh dự nào về cho mình. Mặt khác, Mẹ chẳng
tham dự chút nào vào Thần Tính Thiên Chúa, mà mọi vinh dự đều
phải quy về; và những vinh dự Mẹ có thể nhận được, lại
rất có thể
chẳng thêm gì cho vinh quang của Ngài cả.
Đó
là một bài học đặc biệt gợi cho con biết chán ghét vinh dự
trần gian, những vinh dự tựu trung chỉ là hư
ảo gồm
hết mọi hư ảo, và chỉ làm cho tâm trí thêm phiền muộn.