02. GIÁO DÂN
VIỆT NAM BIỆT TÔN ĐỨC MẸ
Anh
chị em rất thân mến trong Chúa Kitô và Mẹ
Maria,
Chắc
anh chị em đã hơn một lần nghe thuật
lại lời các nhà Truyền giáo Âu châu ca tụng
giáo dân Việt Nam
rằng:
"Giáo
dân Việt Nam
rất sùng kính Đức Mẹ".
Vậy
điều khen lao ca tụng trên đây có đúng
không?
Nếu
đúng, thì tại lý do nào?
Giờ
đây, tôi muốn cùng với anh chị em tìm hiểu
sơ qua về hai đề tài đó bằng
hai khía cạnh như sau:
1.
Tình Mẫu tử nơi người Việt Nam
2.
Những chứng minh hùng hồn về mối
tình cao cả đó.
1.
TÌNH MẪU TỬ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
Trước
hết, tôi muốn đề cập đến:
A.
Tình mẫu tử tự nhiên:
Anh
chị em thân mến,
Xin
anh chị em cho tôi biết: Có ai trong anh chị
em đã ở dưới lỗ nẻ mà chui lên
không nhỉ?
Chắc
chắn là không có ai rồi. Vì như lời tục
ngữ Việt Nam đã nói:
"Con
người có cha có mẹ
Chẳng
có ai ở lỗ nẻ mà chui lên".
Như
vậy, mọi người chúng ta đã biết
rõ: Chúng ta đã được sinh ra bởi một
người mẹ. Mà đã có mẹ, tức
là có con. Đã có mẹ có con, tất nhiên phát sinh
ra tình Mẫu tử, tức là tình mẹ thương
con, tình con yêu mẹ. Tình mẫu tử đó, phát
sinh ngay từ lúc bà mẹ thụ thai, dần dà
mối tình thiên phú đó tăng triển theo thời
gian và viên mãn khi một vế lìa đời.
Suốt
chín tháng trời ròng rã, người con chỉ
sống nhờ khí huyết và hơi thở của
mẹ. Mẹ ăn uống con được
hưởng; mẹ hô hấp con được
nhờ. Mẹ đau con khổ, mẹ vui
vẻ con hân hoan.
Anh
chị em có thấy không: từ khi đứa
con lọt lòng mẹ cất tiếng khóc chào đời,
cho đến khi biết đi, đứng, chạy
nhảy, nô đùa, thì nhất cử, nhất động
đều cậy nhờ bà mẹ. Mẹ
cho ăn, cho bú, mẹ thay quần áo; mẹ tập
cho biết bò, biết đứng, mẹ dắt
tay để con chập chững bước đi.
Riêng
đối với người Việt Nam
chúng ta, mối tình Mẫu tử đó lại
càng trở nên thắm thiết mặn nồng
hơn nữa, vì bà mẹ luôn luôn ẵm bế
con, nưng niu mơn trớn con trên cánh tay, nhất
là nuôi con bằng sữa mẹ. Đứa con
đã uống tình mẹ qua giòng sữa, qua ánh
nhìn và vòng tay của hiền mẫu.
Không
phải như các bà mẹ Âu Mỹ hay những
nước văn minh vật chất, họ chỉ
nuôi con bằng sữa bò hay sữa nhân tạo;
sau khi sinh con ra, liền trao cho người vú,
hay người ở chăm sóc nuôi dưỡng. Các
bà mẹ Việt Nam đã thực hiện đúng
câu tục ngữ Việt Nam:
"Chín
tháng cưu mang. Ba năm bú mớm". Và "Công
mẹ nuôi con bằng trời bằng biển".
Theo
các nhà tâm sinh lý: Nếu bà mẹ nuôi con bằng
sữa của mình, thì mối tình mẫu tử
giữa mẹ và con sẽ trở nên đậm
đà, thắm thiết và bền bỉ.
Các
bà mẹ Âu Mỹ thường khuyên con cái khi đến
tuổi thành niên, ra sống riêng để tự
lập thân.
Nhưng
các bà mẹ Việt Nam
thì khác, chẳng những chín tháng cưu mang, ba
năm bú mớm, mà suốt đời vẫn
muốn cho con cái sống chung với cha mẹ. Nếu
vạn bất đắc dĩ con cái phải
đi ở riêng, thì mối tình mẫu tử hằng
theo sát con mọi nơi và mọi lúc.
Chắc
anh chị em đã thấy rõ: Có bà mẹ Việt
Nam nào già lão hay yếu bệnh mà muốn lìa xa
con cái? Có bà nào muốn vào sống trong nhà dưỡng
lão đâu? Họ chỉ thích sống bên con, bên
cháu, để mẹ con, bà cháu tíu tít bên nhau suốt
ngày.
Đến
ngày tư ngày Tết, mẹ con, bà cháu quây quần
bên nhau, tình mẫu tử lại càng đầm
ấm nhộn nhịp hơn nữa.
Và
lỡ ra Chúa gọi bà về, thì một bức
màn tang vĩ đại phủ kín đại gia
đình. Những vành khăn tang được
khoác lên đầu con cháu, cả đến những
đứa cháu mới bước đi lẫm
chẫm cũng đã bị phủ đầu
bằng một vành tang, là dấu hiệu, là bảo
chứng mối tình mẫu tử.
Anh
chị em không thể tìm thấy mối tình mẫu
tử thắm nồng bộc lộ ra bên ngoài
như thế tại các gia đình Âu Mỹ.
Đúng
như câu ca dao Việt Nam:
"Công
cha như núi ngất trời,
Nghĩa
mẹ như nước ở ngoài biển Đông".
Núi
non dù có cao ngất trời, người ta cũng
đo lường được.
Trái
lại, nước ngoài biển Đông, tức
là biển Thái Bình, thì mênh mông, bao la, bát ngát, làm
sao người ta có thể đo lường
hoặc tính đếm cho được!
Chắc
chắn đã có lần anh chị em nghe lời
giới thiệu ngọt ngào, truyền cảm,
đầy xúc động của ca sĩ Thanh
Lan trong băng nhạc chủ đề Quê hương
và Lòng Mẹ như sau:
"Mẹ
là dòng suối ngọt ngào."
"Mẹ
là bóng mát dịu dàng."
"Mẹ
là nguồn thương yêu bất tận."
"May
mắn thay là những người còn mẹ."
"Mất
mát thay là những người thiếu mẹ."
"Mỗi
người chúng ta hãy dành một Bông Hồng cài
áo Mẹ."
"Tất
cả chúng ta đều trở nên bé nhỏ dưới
ánh mắt, trong vòng tay và trong tình thương yêu
bao la như biển cả của mẹ."
"Mẹ
đã che chở cho chúng ta trong những vinh nhục
của cuộc sống, qua những sóng gió của
cuộc đời."
Nhạc
sĩ Y Vân, trong nhạc phẩm Lòng Mẹ, đã
miêu tả tình mẹ bao la bát ngát như biển
Thái Bình. Ai nghe cũng mủi lòng rơi lệ.
"Lòng
Mẹ" (Từ và Nhạc của Y Vân).
Ôi!
bài ca thật cảm động. Nhưng như
anh chị em đã biết, lời ca có hay, ý nhạc
có xúc tích mấy chăng nữa, nếu đem
so với sự thực, còn kém vô cùng. Chỉ có
ai đã nếm hưởng mới thấu hiểu
một phần nào mối tình mẫu tử bao
la vĩ đại như trời biển đó
mà thôi.
Tích
Chuyện
Tôi
xin kể cho anh chị em nghe một câu chuyện
rất cảm động tôi đã được
chứng kiến hồi còn là một Chủng
sinh tại Việt Nam vào năm 1950.
Tôi
có một ông Bác họ, tên là Ngữ. Gia đình
Bác chỉ có hai người con, anh Hiếu 16 và
chị Thảo 13 tuổi. Tuy gia đình nghèo túng,
Chúa cho làm ăn đủ sống qua ngày, mặc
dầu lam lũ, nhưng hai bác vẫn lo cho con
cái học hành đến nơi đến chốn.
Bác gái thương yêu và cưng chiều chị
Thảo lắm lắm. Bác vẫn khoe với bà
con lối xóm rằng: Cô Thảo là công chúa và là
cục cưng của bác. Nhìn vào hai người
con, ai cũng tưởng rằng thuộc gia
đình khá giả: Quần áo luôn mới mẻ,
sạch sẽ, đầu tóc gọn gàng. Nhưng,
nếu nhìn vào cha mẹ, thì khác xa nhau lắm: bác
trai và bác gái ăn mặc rất bình dị, đơn
sơ, ăn uống thanh đạm. Tất
cả sức lực đều dồn hết
cho hai con cưng, chỉ mong sao cho con cái luôn được
đầy đủ, sung sướng, học
hành tấn tới, là hai bác thỏa mãn rồi.
Bỗng
một hôm: "Họa vô đơn chí", sự
khốn khó đã đến với gia đình
hai bác. Chị Thảo bị cảm hàn nặng.
Hai bác đã hết sức lo lắng chạy chữa,
để con gái cưng của mình mau bình phục.
Nhưng dù bác sĩ cao tay hay thuốc thang linh hiệu
mấy, bệnh tình của chị Thảo chẳng
những không thuyên giảm, mà mỗi ngày một
tăng. Hai bác đã phải miễn cưỡng
đưa con gái cưng đi nhà thương để
chữa trị. Và bác gái, bỏ cả công việc
làm ăn, ngày đêm túc trực bên con. Bác đã
lấy tình Mẫu tử thắm nồng trùm phủ
trên con gái cưng, với hy vọng con mình mau khỏi
bệnh. Nhưng: "Mưu sự tại
nhân, mà thành sự tại Thiên". Thiên Chúa và Đức
Mẹ đã vội ngắt Bông Huệ xinh đẹp
trắng trong đó về Trời. Sau một tháng
chữa trị, chị Thảo đã từ giã
cõi đời trong vòng tay ấm áp và dưới
cặp mắt sưng u đẫm lệ của
người mẹ hiền đã mất ăn
mất ngủ vì con.
Hôm
lễ an táng chị Thảo, dân làng đã đi
rất đông. Bác gái Ngữ, mặc dầu thân
mình đã kiệt quệ vì thiếu ngủ thiếu
ăn, lại vì buồn bã mất con, bác đã
nhờ hai đàn ông khoẻ mạnh nâng đỡ
hai bên, giúp bác đi lễ an táng.
Từ
nhà bác tới nhà thờ, và từ nhà thờ tới
nghĩa trang chỉ xa bằng nửa cây số,
thế mà, mặc dầu đã có hai người
khoẻ mạnh đỡ hai bên, bác gái đã ngất
xỉu và ngã quỵ đến 4 lần!
Nhưng,
khi vừa tới nghĩa trang, thì một sức
mạnh phi thường đã giúp bác gái hành động
như một lực sĩ:
Vừa
khi quan tài đặt xuống đáy huyệt,
chưa kịp kéo dây lên, bác gái Ngữ đã vuột
khỏi tay hai người canh giữ, hùng hổ
lao mình xuống huyệt sâu, nằm úp mặt trên
quan tài, gào thét tên con, bắt con phải sống
lại, làm cho không biết bao nhiêu cặp mắt
rơi lệ!
Phần
tôi, cũng không cầm nổi giọt lệ,
đã để nó tự do tuôn trào, lòng đầy
xúc động.
Ôi!
tình mẹ yêu con mạnh mẽ và trào tràn biết
chừng nào! Hôm nay kể lại chuyện có thật
này, lòng tôi lại bồi hồi xúc động.
B.
Tình Mẫu tử siêu nhiên
Kính
thưa toàn thể anh chị em!
Như
anh chị em đã biết, trái tim của người
mẹ, bất cứ một người mẹ
trần gian nào, đều là vực thẳm của
tình yêu và lòng tốt lành nhân ái.
Còn
về trái tim của Đức Maria thì phải
nói sao đây?
Thánh
Gioan Vianney, cha sở xứ Ars đã quả quyết
với chúng ta rằng: "Trái Tim Mẹ Maria đầy
tình thương xót, âu yếm chúng ta đến
nỗi nếu đem tất cả tình yêu của
các bà mẹ hợp lại mà so sánh thì cũng ví
như một tảng nước đá đặt
bên cạnh Trái Tim thực sự của Đức
Mẹ vậy".
Phong
tục và tập quán người Việt Nam đã
tạo cho người Việt Nam lòng hiếu
thảo đối với các bà mẹ, để
đền đáp lại mối tình mẫu tử
nồng thắm của người mẹ trào
tràn trên con cái Việt Nam.
Về
phương diện siêu nhiên cũng thế, giáo
dân Việt Nam đã học biết tình hiếu
thảo phải có đối với Người
Mẹ trên trời, là Đức Maria, ngay khi người
tân tòng mới gia nhập đạo Công Giáo. Và
mối tình cao cả đó, đã tăng triển
theo thời gian.
Anh
chị em có tin không: Chúng ta có thể quả quyết
mà không sợ sai lầm rằng: Không một người
Công Giáo Việt Nam nào mà không biết, không nhận
và không mến yêu Đức Mẹ.
Chúng
ta cũng có thể quả quyết mà không sợ
sai lầm rằng: Lòng sùng kính Đức Mẹ
một cách chân thành và thắm thiết đó đã
thấm nhập vào tâm khảm giáo dân Việt Nam
ngay từ thời các nhà Truyền Giáo Âu châu bắt
đầu gieo rắc hạt giống Phúc âm trên
đất Việt Nam. Lòng sùng kính đầy hiếu
thảo và đầy tình mẫu tử đó dần
dà đã ăn sâu vào tim óc, vào huyết mạch,
vào cốt tủy giáo dân Việt Nam.
Nhờ
sẵn có lòng hiếu thảo đối với
người mẹ trần gian, lòng hiếu thảo
đối với Người Mẹ trên trời
đã lớn dần và tăng triển rất
mạnh mẽ và bền lâu.
Trước
tiên, giáo dân Việt Nam được hấp thụ
lòng yêu mến sùng kính Đức Mẹ bằng
lần hạt Mân Côi do các cha Dòng Đaminh truyền
bá. Và từ đó, mọi giáo dân say sưa
lần hạt. Nhiều người nhà quê bình
dân không có đồng hồ, kém học thức,
chỉ biết tính quãng đường dài bằng
mấy tràng hạt họ đọc dọc đường.
Tiếp
đến, các nhà Truyền Giáo thuộc Hội
Thừa Sai Paris Pháp đã giúp giáo dân tôn sùng Đức
Mẹ Vô Nhiễm bằng những hang đá Lộ
Đức với tượng Đức Mẹ
chấp tay xưng mình: "Ta là Đấng Vô
Nhiễm Nguyên Tội".
Về
sau, các cha Dòng Chúa Cứu Thế đã dẫn dắt
giáo dân Việt Nam đến quây quần khấn
xin với Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
Từ
năm 1942, Phong trào FATIMA được phổ
biến khắp thế giới, giáo dân Việt
Nam lại đua nhau lắng nghe và thi hành mệnh
lệnh của Mẹ bằng việc tôn sùng Trái
Tim Vẹn Sạch Mẹ. Nhất là từ ngày
Dòng Đức Mẹ Đồng Công được
thành lập, thì phong trào tôn sùng Trái Tim Vẹn Sạch
Mẹ lại được phát triển khắp
nơi một cách mạnh mẽ.
Vì
thế, chúng ta có thể kết luận rằng:
Suốt ngày đêm, từ Bắc chí Nam, từ
ải Nam Quan cho tới mũi Cà Mâu, nơi nào
có giáo dân Việt Nam, thì nơi đó văng vẳng
lời kinh cầu xin với Đức Mẹ,
hoặc tiếng hát tung hô thánh danh và nhân đức
Đức Mẹ.
Đáp
lại, tình Mẫu Tử nồng thắm của
Mẹ Maria đã trào tràn chan hòa trên đoàn con cái
Việt Nam, chẳng những người Công
Giáo, mà cả lương dân, hoặc anh chị
em thuộc các tôn giáo bạn cũng được
hưởng tràn trề tình yêu thương săn
sóc của Đức Mẹ.
Giờ
đây, chúng ta hãy trưng dẫn những minh chứng
hùng hồn.
2.
NHỮNG CHỨNG TÍCH HÙNG HỒN
Tục
ngữ Việt Nam
có câu:
"Nói
có sách, mách có chứng".
Giờ
đây, tôi cũng muốn chứng minh với
anh chị em lời các Nhà Truyền Giáo Việt
Nam đã ca tụng giáo dân Việt Nam có lòng sùng
kính Đức Mẹ cách đặc biệt.
*
Riêng cá nhân:
-
Không một người Công Giáo nào mà không thuộc
Kinh Kính Mừng và cách thức lần hạt.
-
Đa số giáo dân Việt Nam,
nhất là nữ giới và thiếu nhi, mỗi
người đều có một Tràng Chuỗi
để lần hạt, hoặc bỏ trong túi
áo, trong ví, hay là đeo ở cổ.
-
Nhiều giáo dân Việt Nam
đeo ảnh vảy Đức Mẹ hay làm phép
lạ, hoặc ảnh thay áo Đức Bà.
-
Nhiều phụ nữ Việt Nam
còn đeo áo Đức Bà. Ở miền Trung,
áo Đức Bà được thêu bằng chỉ
ngũ sắc chung quanh ảnh Đức Mẹ,
và các thiếu nữ, cũng như các bà già, thích
đeo vào cổ ngoài áo dài.
-
Nhiều bà có tuổi, ở nhà rảnh rỗi
coi nhà, hoặc giữ cháu cho con cái đi làm, các
bà thường lần hạt nhiều giờ
để kính Đức Mẹ.
Có
thể nói được rằng Kinh Mân Côi đã
nẩy mầm và phát triển theo tuổi đời
của giáo dân Việt Nam.
*
Các gia đình:
Xin
kính mời anh chị em đi theo tôi vào thăm
các gia đình Công Giáo Việt Nam. Chúng ta sẽ
thấy rõ điều này: Không một gia đình
Công Giáo nào mà không có tòa Mẹ, bàn thờ Đức
Mẹ, hoặc ảnh tượng Mẹ. Chẳng
những một tượng, một ảnh Mẹ,
mà nhiều nhà còn trưng bày rất nhiều ảnh
Mẹ đủ mọi tước hiệu nữa.
Tòa
Mẹ tại tư gia thì trang hoàng đèn, nến,
hoa, cảnh rất lộng lẫy trang nghiêm và
đẹp mắt.
Có
nhiều gia đình không những có một bàn thờ,
một tòa Mẹ chính ở nhà khách, mà còn có tòa
phụ ở phòng ngủ hoặc nhà cơm nữa.
Có
nhiều gia đình đã tôn vương Thánh Tâm
Chúa và Khiết Tâm Mẹ.
Ảnh
tượng về Mẹ giáo dân Việt Nam ưa
trưng bày nhất là ảnh Đức Mẹ
Hằng Cứu Giúp, tượng Đức Mẹ
Lộ Đức và ảnh, tượng Trái Tim
Mẹ.
Anh
chị em có biết không: nhiều gia đình Công
Giáo Việt Nam còn có thói quen rất tốt lành
là mỗi tối quây quần trước tòa Mẹ,
đọc một ít kinh cần rồi lần
hạt chung với nhau. Sau đó, một bài hát
về Mẹ được đồng ca, mặc
dầu gồm nhiều bè dị giọng, nhưng
cùng chung một tình yêu mến Mẹ thắm thiết
và chân thành.
Có
một số gia đình khác, nếu không phải
đi làm sớm, họ cũng đã tụ họp
lại trước tòa Mẹ sau khi thức dậy
ban sáng, để dâng mình và gia đình cho Mẹ,
rồi đọc kinh lần chuỗi chung với
nhau.
Không
những chỉ có người lớn như ông
bà cha mẹ đọc kinh chung, mà đại đa
số gia đình, đã đọc kinh chung tập
thể: già, trẻ, lớn, bé. Gia đình Công Giáo
Việt Nam quả thật là gia đình riêng của
Đức Mẹ.
Giờ
đây, tôi muốn đề cập đến
*
Các Trung Tâm Thánh Mẫu:
Mặc
dầu Đức Mẹ chưa lần nào hiện
ra công khai và trang trọng với con dân Việt
Nam, nhưng các Đền Thờ, các Trung Tâm, nơi
hành hương kính Đức Mẹ trên toàn quốc
Việt Nam thì đầy dẫy khắp ba miền.
Tại
miền Bắc: Chúng ta thấy có Đền Đức
Mẹ Hằng Cứu Giúp tại Thái Hà ấp,
Hà Nội, thuộc Dòng Chúa Cứu Thế.
Ở
Bùi Chu, có Đền Thánh Đức Mẹ Vô Nhiễm
tại Phú Nhai.
Tại
miền Trung: Một Đền Thờ vĩ đại
và tân trang đã được xây cất tại
Bảo Nham thuộc tỉnh Nghệ An, để
ghi nhớ ơn Mẹ đã cứu giáo dân thoát
cơn bách hại của Văn Thân.
Rồi
đến Đền Đức Mẹ Trà Kiệu
tại quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Đền
Thánh La Vang, Trung Tâm Thánh Mẫu toàn quốc, tại
Quảng Trị, nơi mà tương truyền
rằng Đức Mẹ đã thân hiện với
một nhóm nhỏ giáo dân thời bách hại đạo,
để an ủi và nâng đỡ họ và ban
cho họ rất nhiều ơn.
Tại
miền Nam: Chúng ta có Đền Đức Mẹ
La Mã, Bến Tre, nơi có ảnh Đức Mẹ
Hằng Cứu Giúp hay ban ơn lành.
Tiếp
đến Trung Tâm Đức Mẹ Fatima tại
Bình Triệu, tỉnh Gia Định, nơi đã
thu hút khá đông giáo dân cũng như lương
dân tìm về để cầu xin, khấn hứa.
Nơi Mẹ đã ban rất nhiều ơn lành
cho kẻ kêu xin.
Chúng
ta còn phải kể Đền Đức Mẹ
Hằng Cứu Giúp ở Sàigòn, nơi có trụ
sở Dòng Chúa Cứu Thế, cũng là nơi
thu hút khá đông giáo dân Việt Nam tìm về để
khấn xin.
Anh
chị em nên nhớ kỹ điều này.
Mặc
dầu tại các Trung Tâm Thánh Mẫu vừa kể
trên không được diễm phúc Đức
Mẹ thân hiện để ban truyền sứ
điệp mới như ở Lộ Đức,
Fatima hay La Salette. Thế mà, giáo dân Việt Nam,
một giáo dân biệt tôn Đức Mẹ, đã
không quản ngại đường xa trắc
trở, cũng không ngán lệnh cấm cản
của bạo quyền vua chúa vô đạo, ghét
đạo, hay bọn Cộng sản vô thần,
họ nhất quyết và hăng hái tìm về
Đất Mẹ, để thỏ thẻ nỗi
lòng, nài xin Mẹ ban ơn cứu giúp.
Bây
giờ chúng ta hãy hướng về
*
Giáo dân Việt Nam tại hải ngoại:
Như
chúng ta đã thấy rõ: Vì Cộng sản vô thần
chống và đàn áp tôn giáo, đặc biệt
là Công Giáo, cho nên giáo dân Việt Nam mới đành
lòng rời bỏ quê hương, tạm sống
ở quê người đất khách, nhưng
họ nhất quyết không lìa xa, không rời
bỏ lòng mến yêu tôn sùng Đức Mẹ.
Tạm
cư nơi nào có Đền Thờ hoặc Trung
Tâm Đức Mẹ, thì giáo dân Việt Nam, không
ai bảo ai, đua nhau đến kính viếng,
tạ ơn và khấn xin. Không mùa hè nào mà không
có một vài phái đoàn Việt Nam,
hoặc đi chung hay đi riêng, đến Trung
Tâm Lộ Đức, Fatima để khấn xin cùng Mẹ.
Tại
Trung Tâm Đức Mẹ Sầu Bi ở Portland
thuộc tiểu bang Oregon, năm nào cũng tổ
chức cuộc hành hương kính viếng Đức
Mẹ, đã qui tụ hàng ngàn người Việt
Nam khắp nơi tìm về.
Tại
Đền Thánh Khiết Tâm Mẹ ở Carthage,
thuộc tiểu bang Missouri, một thành phố
trầm lặng, số dân chỉ gần 12 ngàn
người, đa số là những người
hưu trí, thế mà hằng năm đã có từ
ba ngàn lúc ban đầu, đã nhảy vọt lên
tới ba chục ngàn người Việt Nam tìm
về quây quần trên đất Mẹ, một
mảnh đất chật hẹp, khô chồi,
đá ngầm nhiều hơn là đất, nhưng
đã thấm nhuần tình Mẫu Tử giữa
Đức Mẹ Maria, Mẹ Hiền Chí Ái và đoàn
con di tản Việt Nam từ bốn phương
trời, kể cả Âu châu, Úc châu và Mỹ châu.
Giờ
đây tôi xin hỏi anh chị em:
Cái
gì đã lôi cuốn giáo dân Việt Nam, sức mạnh
nào đã thúc bách họ bỏ công ăn việc
làm ùn ùn kéo nhau về vùng đất khỉ ho cò
gáy đó, để rồi phải chịu thiếu
ăn, mất ngủ, thiếu thốn mọi
tiện nghi vật chất? Các nơi đó, cũng
chẳng thấy ông cha, thầy dòng hay bà sơ
nào làm phép lạ như những vị Thánh sống
cả?
Câu
trả lời rất đúng:
Đó
là mãnh lực của Tình Mẫu Tử, một
tình yêu thắm thiết, đậm đà và nồng
cháy giữa Mẹ và con, giữa đoàn con dân
Việt Nam đang đau khổ quằn quại
tại quê nhà, hay đang phiêu bạt khắp bốn
phương trời, với Bà Mẹ Hiền
yêu quí nhất, là Đức Trinh Nữ Maria.
Như
thế, chúng ta có thể hợp lời cùng các
nhà Truyền Giáo Âu châu mà kết luận một
cách minh nhiên rằng:
Giáo
dân Việt Nam
biệt tôn, tức là sùng kính Đức Mẹ
Maria một cách đặc biệt.
MỘT
LINH MỤC VIỆT NAM VỠ SỌ
Tôi
xin kể cho anh chị em nghe một câu chuyện
có thật sau đây:
Ngày
22 tháng 5 năm 1932, có hai linh mục tại Bắc
Việt Nam vào dự tuần tĩnh tâm đặc
biệt tại Trụ sở Dòng Xitô Phước
Sơn, thuộc tỉnh Quảng Trị. Đó
là cha Phương và cha Mục.
Ngày
bế mạc, hai cha đã rủ nhau về Đền
Thánh Đức Mẹ La Vang tại Quảng Trị,
Trung Việt Nam, để tạ ơn Đức
Mẹ.
Sau
khi cầu khấn tạ ơn Mẹ trước
bàn thờ chính, hai cha đi xem quang cảnh Đền
Thánh. Để quan sát rõ hơn và bao quát toàn vùng,
cha Phương đã lên tháp Đền Thánh.
Khi leo lên tầng tháp trên hết cao 6 thước,
cha Phương bị trượt chân té ngửa
xuống nền Đền Thờ, cha bị vỡ
sọ, một vài mảnh sọ văng ra, một
đầu gối bị dập, ống chân bị
gẫy quặp lại, máu me chảy lai láng, nạn
nhân nằm bất tỉnh trên nền nhà thờ.
Cha
Quản Nhiệm Đền Thánh La Vang lúc đó
là cha Trung, một linh mục thuộc Hội Thừa
Sai Paris, Pháp, đã cấp tốc cho người
lên nhà thương thị xã Quảng Trị để
mời bác sĩ Phạm Văn Huy tới. Nhưng
thật là xui xẻo, bác sĩ Huy đi vắng.
Nỗi lo lắng bao trùm Đền Thánh của
Mẹ! Nhưng cha Quản Nhiệm không thất
vọng, đã đặt hết niềm tin tưởng
vào Mẹ La Vang, một người Mẹ đầy
tình thương.
Đến
8 giờ tối, bỗng có tiếng kèn xe vang lên
từ xa vọng lại Đền Thánh, cha Quản
Nhiệm liền sai người ra đường
đón xe, thì ra, đó là xe của bác sĩ Hasle
người Pháp, quản đốc nhà thương
thị xã Huế, đi săn thú đang về
qua Đền Thánh.
Bác
sĩ Hasle vào tận nơi quan sát, rồi vội
vã chở nạn nhân tới nhà thương Quảng
Trị, đồng thời đánh điện
tín, mời bác sĩ Huy về ngay.
Thế
rồi, cả hai bác sĩ Pháp - Việt đã
tận tụy chữa trị cho cha Phương.
Nhưng cả hai ông đều nhận xét rằng:
"Nếu cha Phương qua khỏi được
chỉ còn nhờ phép lạ mà thôi".
Quả
thực, phép lạ đã xảy ra trước
sự ngạc nhiên của hai bác sĩ và của
mọi người. Chỉ sau 10 ngày chữa trị,
cha Phương đã bình phục, đi lại
như thường.
Cả
hai bác sĩ Việt - Pháp đều đồng
thanh tuyên bố:
"Đây
là ơn thiêng trên trời, là phép lạ Trời
ban qua lời cầu bầu của Đức
Mẹ La Vang, chứ chẳng bác sĩ nào có tài
chữa trị khỏi cách lạ lùng như vậy".
Lạy
Mẹ Maria, Nữ Vương nước Việt
Nam, xin Mẹ cầu bầu cho đồng bào
Việt Nam chúng con luôn luôn sống hiếu thảo
và ngoan hiền với Mẹ mãi mãi.
Chân
thành cám ơn toàn thể anh chị em.
Lm.
An Bình, CMC
|