CHÚA BA NGÔI VÀ ĐỨC MA-RI-A
Xem:
- Chúa Thánh Thần và Đức Ma-ri-a
- Phụng Vụ
Thánh Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã lưu ý rằng Đức Ma-ri-a chỉ là
một thụ tạo của Thiên Chúa (LG 53, 55, 60), nhưng cũng xác nhận
địa vị ưu tuyển của Mẹ: “Lãnh nhận sứ mệnh và vinh dự cao cả là
được làm Mẹ Con Thiên Chúa, do đó làm Ái Nữ của Chúa Cha và Cung
Thánh của Chúa Thánh Thần” (LG 53).
Chương 8 bàn về Đức Thánh Trinh Nữ Ma-ri-a trong hiến chế Tín
Lý về Giáo Hội đã bắt đầu bằng việc nhắc lại mầu nhiệm cứu độ
đã được Thiên Chúa Cha, Thiên Chúa Con và Thiên Chúa Thánh Thần
hoạch định và thực hiện, một mầu nhiệm liên quan đến một “Người
Nữ,” đó là Mẹ Chúa Ki-tô (LG 52). Và chương này kết thúc bằng
những lời “hầu vinh danh Ba Ngôi Thiên Chúa rất thánh và không
phân chia” (LG 69), nói lên mục đích hết sức quan trọng của sự
hiện hữu và lời cầu nguyện của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.
Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã cổ động lòng tôn sùng Đức Ma-ri-a
khi đề cao “sự thờ phượng dâng lên Ngôi Lời Nhập Thể, và lên Chúa
Cha và Chúa Thánh Thần” (LG 66). Hòa nhịp với lời thánh Công Đồng,
Đức Phao-lô VI đã nhận định: “Việc đạo đức tôn sùng Đức Ma-ri-a
phải hiện đủ nét Ba Ngôi và Đức Ki-tô. Thực vậy, tự bản chất,
việc tôn thờ qui hướng trực tiếp về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần” (MC 25).
Để Thánh Mẫu học mang đậm nét thần học Chúa Ba Ngôi, điều bắt
buộc là phải khởi sự từ lịch sử ơn cứu độ như Công Đồng Va-ti-ca-nô
II đã làm. Trong tiến trình lịch sử ấy, Chúa Ba Ngôi đã tỏ mình
trong hoạt động “nhiệm cuộc” và hướng ngoại. Theo Thánh Kinh,
ơn cứu độ có một hình thái Chúa Ba Ngôi vì được Thiên Chúa thực
hiện, Đấng đã lập nên giao ước, Đấng đã sai Con Người đến với
tư cách là Đấng Cứu Thế khi thời gian viên mãn, và qua Ngài mà
quảng phát Chúa Thánh Thần ban ơn nhận làm nghĩa tử (Gl 4:5-5;
Rm 8:16).
Có thể đưa Đức Trinh Nữ Ma-ri-a vào lãnh vực cứu chuộc học (soteriological
horizon, khác với lãnh vực hữu thể học của triết học Hy Lạp) vì
những quan hệ giữa Mẹ và Thiên Chúa Ba Ngôi xuất phát từ một ý
niệm tĩnh (static conception) và mang một ý nghĩa cứu chuộc. Như
thế, lòng tôn sùng Đức Ma-ri-a được đưa vào phạm vi sùng kính
của Ki-tô giáo “một lòng sùng kính tự bản chất qui hướng về Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, hay theo ngôn ngữ của phụng
vụ là tôn thờ Chúa Cha, nhờ Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần” (MC
25).
1. Đức Ma-ri-a và Kinh Nghiệm Phượng Thờ Chúa Cha
Trong mặc khải Tân Ước, Chúa Cha giữ vai trò của nguyên khởi và
cùng đích. Chương trình cứu độ phát xuất từ Chúa Cha và mọi công
việc của Chúa Ki-tô trong Chúa Thánh Thần cũng đều hướng về Chúa
Cha. (1Cr 8:6,15; Ep 1:3-14; Cl 1:19-20). Vì thế cần thiết phải
đặt Đức Ma-ri-a vào giữa quĩ đạo tình yêu phát xuất từ Chúa Cha
và qui hướng về Chúa Cha, đồng thời bao gồm luôn Giáo Hội, Nhiệm
Thể Chúa Ki-tô. Điều này sẽ dẫn đến những hệ luận đáng ghi nhận
sau đây:
a) Việc qui hướng về Chúa Cha sẽ giữ chúng ta khỏi sai lầm khi
coi Đức Ma-ri-a như một hữu thể tuyệt đối hay độc lập tự hữu do
khẩn thiết nội khởi. Đức Ma-ri-a là một thụ tạo lệ thuộc hoàn
toàn vào Đấng Tạo Thành, và Mẹ hiện diện trong mầu nhiệm Chúa
Ki-tô chỉ vì Thiên Chúa ưu tuyển Mẹ cách tự do và nhưng không.
Bất cứ một khảo luận nào về Đức Ma-ri-a cũng không được phép đặt
Mẹ ra ngoài chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Theo Công Đồng
Va-ti-ca-nô II, chúng ta phải luôn qui hướng về công trình và
ý định Thiên Chúa khi giải thích sứ mạng phổ quát của Đức Ma-ri-a
cũng như khi suy tư về những chặng đời đa dạng của Mẹ, “Thiên
Chúa Cha rất nhân từ đã muốn...” (LG 56); “vì đẹp lòng Thiên Chúa”
(LG 59).
Ngay cả mẫu tính của Đức Ma-ri-a đối với Chúa Ki-tô cũng như đối
với chúng ta cũng nên được coi như một dự phần và bắt nguồn từ
tư cách làm Cha tối cao của Thiên Chúa (x. Ep 3:15). Hoặc hơn
nữa, “Mẫu Tính” của Đức Ma-ri-a là một biểu hiệu của mối ân cần
từ mẫu của Thiên Chúa, Đấng mà tiên tri I-sa-i-a đã trình bày
vừa là Cha vừa là Mẹ (x. Is 49:15; 66:13).
b) Được đưa vào mối liên hệ với Thiên Chúa Cha, Đấng đã tỏ mình
ra trong lịch sự cứu độ, Đức Ma-ri-a đã thực hiện chức năng phục
vụ với tinh thần đầy trách nhiệm trong chương trình cứu độ của
Thiên Chúa. Các đặc ân của Mẹ không còn là những đặc ân cá nhân
nhưng mang một chiều kích phổ quát của ơn cứu độ, chẳng hạn như
đặc ân làm Nữ Tử Ưu Ái của Thiên Chúa, ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội
và ơn làm Mẹ Thiên Chúa.
Thực sự, đây là viễn tượng Phúc Âm thánh Lu-ca đã phác tả về ơn
gọi của Đức Ma-ri-a. Theo Pơ-rê-tô (E. Peretto): "Những câu
như: 'Đầy ơn phúc' (Lc 1:28); 'Chúa ở cùng Bà' (Lc 1:28); 'Bà
đã được phúc với Chúa' (Lc 1:30) là những lời nói lên sự thỏa
lòng của Thiên Chúa và một địa vị đặc tuyển trước mặt Ngài, chứ
không về một tình trạng tĩnh tại (static). Những lời ấy mang một
ý nghĩa về chức năng và tác vụ. Ma-ri-a được gọi là Kecharitomene,
tức là đầy ơn sủng Chúa ban. Mẹ là Nữ Tử của ơn sủng tuyệt vời...
và Mẹ được dụng ý trình bày như một biểu hiện rất đặc biệt để
đề cao vai trò của Mẹ. Không đề cập gì đến những sử liệu về cá
nhân Đức Ma-ri-a, thánh Lu-ca đã chú ý đến chức năng tác vụ, vị
trí ưu tuyển và mật thiết với sứ vụ cứu độ của Mẹ.”
c)
Trong mối liên hệ với Thiên Chúa Cha, “Đức Ma-ri-a còn được coi
như đỉnh cao việc sửa soạn đón chờ Đấng Mê-si-a của dân tộc Ít-ra-en,
Mẹ là Nữ Tử Si-on,” trổi vượt giữa các người khiêm hạ và khó nghèo
của Chúa, là những người tin tưởng, hy vọng và lãnh nhận ơn cứu
độ nơi Chúa” (LG 55). Trong kinh nghiệm cuộc sống thánh thiện
sâu xa của mình, Đức Ma-ri-a khám phá ra dung mạo đích thực của
Thiên Chúa là Đấng thánh thiện, toàn năng, báo phục cho người
nghèo, từ nhân và trung tín (Lc 1:46-55). Nhưng trước hết, trong
quan hệ với Chúa Giê-su, ít nhất là từ ngày tìm được Chúa trong
Đền Thờ, Mẹ càng ngày càng nhận ra Thiên Chúa là “Cha.”
d) Như Đức Phao-lô VI nhận định trong tông thư Lòng Sùng Kính
Đức Ma-ri-a, Phúc Âm trình bày một sự tương đồng giữa những lời
của Đức Ma-ri-a và những lời của Chúa Cha nói về thái độ cần có
đối với Chúa Giê-su. Mẹ đã nói với các gia nhân tại tiệc cưới
Ca-na: “Hãy làm những gì Ngài bảo” (Ga 2:5). “Những lời này mới
đầu chỉ giới hạn trong ý muốn giải quyết vụ mất mặt cho đám tiệc,
nhưng nếu được xét trong bối cảnh Phúc Âm thánh Gio-an lại là
những lời dân Ít-ra-en trước kia đã tung hô giao ước trên núi
Si-nai (x. Xh 19:8; 24:3,7; Đnl 5:27) và làm mới lại quyết tâm
của họ (x. Gs 24:24; Ed 10:12; Nkm 5:12). Những lời ấy hòa hợp
kỳ diệu với những lời Thiên Chúa Cha phán trong cuộc thần hiện
trên núi Ta-bô-rê: Các ngươi hãy nghe lời Ngài (Mt 17:5)” (MC
57).
e) Sau cùng, lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a mời gọi chúng
ta hướng đến sự phượng thờ và yêu mến Thiên Chúa Cha (LG 65).
Nếu mục đích ki-tô hữu là sống như con cái Thiên Chúa, thì ta
phải nhớ rằng ngay đoạn Tân Ước viết về Đức Ma-ri-a sớm nhất đã
nói đến sứ mệnh Chúa Ki-tô là đem đến cho chúng ta phận phúc được
làm nghĩa tử Thiên Chúa (Gl 4:4-5).
Sống như “con cái Đức Ma-ri-a” theo gương của người-môn-đệ-được-Chúa-yêu
(Ga 19:25-27) có lẽ vừa là kết quả vừa là trợ lực của đời sống
sốt sắng làm con cái Thiên Chúa với tất cả những ý nghĩa kèm theo.
Theo thánh Lu-i Ma-ri-a đơ Mong-pho, lòng sùng Đức Ma-ri-a vun
đắp ý thức phượng thờ Chúa Cha. “Những ai thực hiện cách tôn sùng
này cách trung thành sẽ được tận hưởng tự do dành riêng cho con
cái Chúa. Họ được giải thoát khỏi mọi lo lắng, sợ sệt, áy náy
có thể giày vò ràng buộc một linh hồn, in sâu vào tâm khảm họ
một niềm tin tưởng vô biên vào lòng Cha nhân ái, và thông cho
họ một tình yêu cha con tha thiết” (Thành Thực Sùng Kính, 169).
2. Đức Ma-ri-a và Đời Sống Trong Chúa Ki-tô
Chúa Ki-tô là tâm điểm chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha
(Ep 1:18-23). Ngài là Đấng Cứu Thế, là Đức Chúa, là Đấng Mặc Khải
và là Trung Gian duy nhất (Ga 4:42; 8:12; Dt 8:6; 1Tm 2:5-6).
Ngài cũng là mẫu gương cho đời sống ki-tô hữu (Rm 8:29; Cl 3:34,21-15;
Ga 11:24; 14:26).
Về liên hệ giữa Đức Ma-ri-a với Chúa Ki-tô và đời sống ki-tô hữu,
ta cần lưu ý các điểm sau đây:
a) Chúa Ki-tô là tâm điểm sống động của đức tin và giáo lý. Trong
mầu nhiệm Chúa Ki-tô, Đức Ma-ri-a được coi như một thành phần,
một tàng ẩn. Theo dòng thời gian, dần hồi địa vị của Mẹ trong
chương trình của Thiên Chúa đã được Giáo Hội công nhận. Dù sao
chúng ta cũng phải trở lại với những cộng đoàn ki-tô hữu sơ khởi,
những người đã nhận ra thân vị Đức Ma-ri-a sau khi hiểu biết của
họ về Chúa Ki-tô đã tiến triển: “Qua Chúa Giê-su đến Mẹ Ma-ri-a.”
Nhìn từ góc độ Ki-tô học, vai trò của Đức Ma-ri-a can hệ ở tư
cách là Mẹ “rất đáng tôn kính của Đấng Cứu Chuộc thần linh, và
cách đặc biệt hơn mọi người khác, Mẹ đã là cộng sự viên quảng
đại và tôi tá khiêm hạ của Chúa” (LG 61). Tất cả những sứ vụ hay
đặc ân này đã đưa Đức Ma-ri-a vào mối liên hệ mật thiết với Chúa
Ki-tô và công trình của Ngài, và như thế ta sẽ không còn coi Mẹ
như một nhân vật song đồng hay độc lập với Chúa nữa.
Theo đức cha Bốt-su-ê (Bossuet), mẫu tính của Đức Ma-ri-a không
thuần chỉ là một chức năng thể lý mà còn là sự kiên kết đức tin
làm cho Mẹ trở thành ki-tô hữu tiên khởi, người môn đệ đệ nhất
của Chúa Ki-tô và trao cho Mẹ sứ vụ quang vinh tiền định đem Đấng
Cứu Độ đến cho thế gian.
Sự cộng tác đặc biệt vào công trình cứu độ không đưa Mẹ lên bình
diện ngang hàng với Đấng Trung Gian duy nhất vì Mẹ là một thụ
tạo được Con Mẹ cứu chuộc. Mẫu tính tinh thần của Mẹ “bắt nguồn
từ công nghiệp dư tràn của Chúa Ki-tô. Ảnh hưởng ấy nương tựa
và hoàn toàn tùy thuộc vào sự trung gian của Chúa Ki-tô, nguồn
mạch mọi quyền lực của ảnh hưởng đó. Nhưng ảnh hưởng này không
làm cản trở gì, trái lại còn giúp đỡ các tín hữu kết hiệp trực
tiếp với Chúa Ki-tô” (LG 60).
Thành ra, khi trình bày Đức Ma-ri-a trong mối liên kết mật thiết
bền bỉ với Chúa Ki-tô và công trình của Ngài, chúng ta luôn phải
thận trọng đề cao tính ưu việt của Chúa Ki-tô: “Nơi Đức Trinh
Nữ Ma-ri-a, mọi sự đều liên hệ và tùy thuộc vào Chúa Ki-tô” (MC
25).
b) Lòng sùng kính Đức Ma-ri-a phải được gắn liền cách hữu cơ vào
một sự tôn thờ duy nhất được gọi đích danh là Ki-tô giáo, vì do
Chúa Ki-tô mà có và sinh hữu hiệu, chính nhờ Chúa Ki-tô, trong
Chúa Thánh Thần, mà nó đưa tới Chúa Cha” (MC, Phần Dẫn Nhập).
Điều này được thể hiện chủ yếu trong phụng vụ, như khi mừng kính
các lễ Mẹ hoặc khi tìm được niềm phấn khích nơi Mẹ như tấm gương
cho Giáo Hội về thái độ tinh thần phải có khi cử hành và sống
các mầu nhiệm (MC 16).
Cũng thế, trong một linh đạo hướng dẫn các hoạt động cuộc sống,
việc qui hướng về Đức Ma-ri-a không được tách rời khỏi mối tươngå
quan với Chúa Ki-tô vì mối tươngå quan này luôn là nền tảng và
đặc trưng của Ki-tô giáo. Cuộc sống các thánh nam nữ là một chứng
từ cho thấy lòng sùng kính Đức Ma-ri-a không hề tạo ra một đời
sống thiêng liêng thứ hai, nhưng chỉ là một cách sống mới trong
Thiên Chúa. Điều này nói lên rằng vương quyền của Đức Ma-ri-a
không hề đối kháng, nhưng hoàn toàn qui hướng về vương quyền Chúa
Ki-tô. Theo thánh Lu-i Ma-ri-a đơ Mong-pho, tận hiến cho Đức Ma-ri-a
là việc làm mới lại cách hoàn hảo những lời hứa quyết của bí tích
Thánh Tẩy (TTSK, 120). Đối với các tín hữu, Đức Ma-ri-a trở thành
một lời gọi sống động mời họ hãy như Mẹ, quyết tâm chọn Chúa Ki-tô
và biến lời “Xin Vâng” của Mẹ trở thành của chính họ (Lc 1:38)
và làm mới lại giao ước giữa họ với Chúa Ki-tô, giao ước trong
tình yêu vâng phục (Ga 2:5).
3. Đức Ma-ri-a và Việc Tiến Bước Trong Chúa Thánh Thần
Trong Tân Ước, Chúa Thánh Thần được trình bày như ngôi vị Thiên
Chúa ẩn ngự trong lòng ki-tô hữu để “canh tân tâm hồn và giúp
họ sống như con cái Thiên Chúa trong tự do (thoát khỏi gông cùm
xác thịt) và trong tình yêu” (Rm 5:5; 8:12-16; 1Cr 12:13). Các
tín hữu vì thế phải dấn bước trong Chúa Thánh Thần và để Ngài
hướng dẫn (Gl 5:16-18; Rm 8:4) nhằm biến đổi thân xác hay chết
của họ. Đối với chân lý đức tin mà các ki-tô hữu phải sống này,
khi tôn kính Đức Ma-ri-a bắt buộc phải đề cập đến Chúa Thánh Thần.
a) Trước hết, để tránh một nội dung Thánh Linh học vu vơ và khuynh
hướng lấy Đức Ma-ri-a thay thế Chúa Thánh Thần, chúng ta phải
xác định rõ những mối tương quan giữa Mẹ với Chúa Thánh Thần.
Những tương quan này được tỏ hiện trong những hoạt động chính
yếu của Thần Khí Chúa Ki-tô nơi Mẹ Thiên Chúa” (thư Đức Phao-lô
VI gửi hồng y Su-ê-nen, ngày 13-5-1975).
Đọc những đoạn liên hệ đến Đức Ma-ri-a trong Tân Ước, người ta
thấy rằng biến cố Truyền Tin chính là một lễ-Hiện-Xuống-trước
riêng cho Mẹ. Trong hai biến cố, người ta đều gặp những từ ngữ
tương đồng: “quyền năng Thiên Chúa, Thánh Thần Chúa ngự xuống”
(Lc 1:35; TĐCV 1:8). Và cả hai biến cố ấy đều được tiếp theo bằng
nhiệt tâm truyền giáo và những thông truyền đặc sủng (Lc 1:39-45;
TĐCV 1:8; 431; 8:4-14). Chúa Thánh Thần thực hiện nơi Mẹ Ma-ri-a
công trình đầu thai trinh khiết của Chúa Ki-tô (Lc 1:35; Mt 1:20),
và tạo thành nơi Mẹ một trái tim mới mà các sứ ngôn đã tiên báo
(Ed 36:26-27; Gr 31:31), một trái tim biết đáp ứng với trọn vẹn
niềm tin (Lc 1:38).
Sự hiểu biết về mầu nhiệm Thiên Chúa và bài ca Magnificat của
Đức Ma-ri-a đều được cho là phát nguyên từ ơn linh hứng Chúa Thánh
Thần, Đấng đã phán dạy qua các tiên tri (Lc 1:46-55). Hơn nữa,
dưới chân Thập Giá, Đức Ma-ri-a đã thực thi nhiệm vụ hiền mẫu
và liên kết (unitive) của mình. Điều này phù hợp với giáo lý Phúc
Âm Gio-an vốn nhìn nhận Chúa Thánh Thần là tác nhân chính trong
việc tái sinh, biến đổi chúng ta thành con cái Thiên Chúa (Ga
3:5) và hợp nhất mọi tín hữu (Ga 14:16; 16:13-14). Cũng như Đức
Ma-ri-a, Chúa Thánh Thần cũng là “gia bảo” chính Chúa Giê-su đã
trối lại (Ga 19:27-30) cho chúng ta.
Trong nhà Tiệc Ly, Đức Ma-ri-a cùng cầu nguyện với các Tông Đồ
và môn đệ đợi chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống (TĐCV 1:14).
Vinh quang thiên đàng hiện nay của Đức Ma-ri-a cũng là công trình
Chúa Thánh Thần, Đấng phục sinh cho kẻ chết và ban cho họ cuộc
sống vĩnh hằng (1Cr 15:42-45).
Trong cái nhìn của Thánh Linh học, Đức Ma-ri-a không hề là vật
cản hay đối kháng với Chúa Thánh Thần. Ngược lại, Mẹ còn là con
đường dẫn đến hiểu biết Chúa Thánh Thần và các hoạt động của Ngài.
b) Lòng tôn sùng Đức Ma-ri-a phải được tháp hợp vào chân trời
bao la là sống theo soi động của Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần
“nhớ rằng hoạt động của Mẹ Giáo Hội vì thiện ích cho những người
được cứu độ không hề được thay thế hay cạnh tranh với hoạt động
phổ quát thường hằng của Chúa Thánh Thần. Nhưng, Đức Ma-ri-a nài
xin và dọn đường cho hoạt động của Chúa Thánh Thần. Mẹ thực hiện
việc này bằng cầu nguyện can thiệp phù hợp với chương trình của
Thiên Chúa, Đấng mà nay Mẹ đang được chiêm ngưỡng trong phúc hưởng
kiến. Mẹ còn thực hiện bằng ảnh hưởng trực tiếp của các gương
lành, quan trọng nhất là tấm gương thuần thục trọn hảo trước những
ơn soi động của Chúa Thánh Thần” (thư Đức Phao-lô VI gửi hồng
y Su-ê-nen ngày 13-5-1975).
Người ta thấy, hàm chứa trong những lời Đức Thánh Cha điều trước
tiên là cần tôn kính và luôn nhớ đến Chúa Thánh Thần. Mầu nhiệm
lễ Hiện Xuống phải chiếm địa vị ưu tiên hơn là quan hệ với Đức
Ma-ri-a trong đời sống chúng ta, bởi vì đời sống ki-tô hữu trước
hết chính là sống trọn vẹn trong Chúa Thánh Thần và theo Chúa
Thánh Thần (Rm 8:1-14; Gl 5:16-25).
Sự can thiệp của riêng Đức Ma-ri-a chỉ có ý nghĩa trong phạm vi
sự can thiệp lớn lao của Chúa Thánh Thần (Rm 8:26-27). Để tránh
khuynh hướng muốn lấy Đức Ma-ri-a thay thế Chúa Thánh Thần, điều
cần là các tước hiệu và đặc ân của Đức Ma-ri-a phải được nhìn
dưới lăng kính bản chất của các tước hiệu và đặc ân ấy, đó là
sự thông phần vào công trình Chúa Thánh Thần thực hiện trong Giáo
Hội. “Vì thế, Mẹ Ma-ri-a luôn luôn trong sự lệ thuộc vào Chúa
Thánh Thần dẫn dắt các linh hồn đến cùng Chúa Giê-su, đào luyện
họ theo hình ảnh Ngài, soi dẫn họ bằng những điều lành. Và Mẹ
là mối liên kết tình yêu giữa Chúa Giê-su và các tín hữu” (Đức
Phao-lô VI).
Trên phương diện mục vụ, theo ý kiến của Muy-lê (H. Muhler) không
cần thiết phải “định hướng lại lòng tôn sùng Đức Ma-ri-a vốn đã
rất sâu đậm trong những thế kỷ gần đây, mục đích làm cho việc
tôn sùng ấy trở thành việc Giáo Hội tôn thờ Chúa Thánh Thần hơn.”
Cũng không nên tìm cách dập tắt lòng tôn sùng ấy như một cơn cám
dỗ mà lắm người vẫn sợ. Ngược lại, hãy coi việc tôn sùng Đức Ma-ri-a
như một cách sống “trong” Chúa Thánh Thần, như một con đường tiến
đến sự kỳ diệu của mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và đến với Mẫu Tính
tinh thần của Mẹ.
Đức
Ma-ri-a là một thụ tạo đã được Chúa Thánh Thần sở hữu và sửa dọn
để trở nên Mẹ Đồng Trinh của Chúa Ki-tô Cứu Thế. Mẹ là tín hữu
đệ nhất trong giao ước mới. Mẹ là từ mẫu của các tín hữu, là hình-ảnh-mặc-khải
của Chúa Thánh Thần và cũng là nguyên bản của Giáo Hội sống động
được mời gọi để nhờ Chúa Thánh Thần kiến lập Nước Chúa trên trần
gian.
Ở đây, chúng ta cũng phải công nhận tầm quan trọng của Phong Trào
Đặc Sủng Công Giáo, một phong trào đã bất ngờ xuất hiện sau Công
Đồng, khởi sự từ kinh nghiệm sống Chúa Thánh Thần. Những thành
viên phong trào này đã phục sinh những giá trị Ki-tô giáo như
suy niệm Lời Chúa, kinh nghiệm chúc tụng, hiệp thông đức ái, đặc
sủng nói tiếng lạ và chữa bệnh, và khả năng khám phá ra thân vị
Đức Ma-ri-a trong tương quan với Chúa Thánh Thần.
Đức Ma-ri-a hướng chúng ta về cuộc sống “theo Thần Khí” vì Mẹ
là mẫu gương đón nhận Chúa Thánh Thần (Lc 1:26-38), đón nhận Phép
Rửa của Ngài (TĐCV 1:5-16), và nhờ Ngài, Mẹ đã được ban đặc sủng
hiểu được các ngôn ngữ như một hình thức ý niệm tiếp xúc với Thiên
Chúa, hay nói khác đi, là kinh nguyện chúc tụng (TĐCV 2:5-13).
Theo cha Lô-ran-tanh (R. Laurentin), kinh nghiệm sống Đức Ma-ri-a
trong tâm điểm của Phong Trào Đặc Sủng được coi là một trong những
tặng ân Thánh Linh quí báu nhất .
4. Kết Luận
Qui hướng về Chúa Ba Ngôi là điều vô cùng quan trọng đối với Thánh
Mẫu học và việc tôn sùng Đức Ma-ri-a, vì nhờ đó Thánh Mẫu học
và lòng tôn sùng Đức Ma-ri-a sẽ tìm được chỗ đứng và mục tiêu
chính thực của mình. Đức Ma-ri-a là người đầu tiên được mặc khải
- mặc dù bằng những ngôn từ ẩn ngụ - về mầu nhiệm Ba Ngôi Vị của
Đấng Tối Cao, vì nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, Mẹ đã hạ
sinh Chúa Ki-tô Cứu Thế, Con Thiên Chúa cao cả (Lc 1:28-33).
Như thế, đối với các ki-tô hữu, Đức Ma-ri-a trở thành nơi gặp
gỡ với Ba Ngôi Thiên Chúa và là nơi mặc khải công trình của Ba
Ngôi. Với mẫu gương Đức Ma-ri-a, đời sống ki-tô hữu trở thành
cuộc hành trình đến với Chúa Ba Ngôi chí thánh. Đời sống của các
vị thánh nổi bật về lòng tôn sùng Đức Ma-ri-a là chứng từ hùng
hồn về điều này.
Đơ Phi-ô-rê
|