|
TRÀ
KIỆU
Trà Kiệu thuộc giáo phận Qui Nhơn được vinh hạnh có đền thánh
Đức Mẹ từ năm 1898 trên hòn Bửu Châu, dâng kính Đức Bà Phù Hộ
Giáo Hữu để ghi nhớ một chiến thắng vẻ vang Đức Mẹ đã ban cho
các giáo hữu nơi nơi đây trước sự vây hãm và tấn công của phong
trào Cần Vương. Năm 1885, họ quyết tâm hủy diệt họ đạo ấy như
đã hủy diệt từng trăm họ đạo khác tại miền Trung.
Trà Kiệu tức xã Xuyên Kiệu, thuộc huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng
Nam, cách Hội An không xa.
Làng này gần như vuông vức, mỗi chiều trên một ngàn mét, trừ thành
lũy Chiêm Thành ra, thì toàn là đồn điền phì nhiêu. Về phía tây
có rặng đồi Kim Sơn (hòn Bằng), phía Đông có hòn Bửu Châu (non
Trược hoặc Trọc) cách nhau chừng một ngàn mét. Phía Nam, có thành
lũy cũ của người Chiêm Thành, còn phía bắc là một giải cát bằng
phẳng.
Nhờ đất phì nhiêu, đời sống ở đây dễ dàng và sung túc. Dân số
hầu như toàn tòng Công Giáo, có tiếng là gan dạ và nhiệt thành
sùng kính Đức Mẹ.
Thuở xưa, tổ tiên ta gọi người Chiêm Thành là Chùm Chà. Chữ chà
sau đọc trại ra trà, bằng cớ tại Trung Việt còn nhiều vùng có
tên bắt đầu bằng chữ trà như Trà Câu, Trà Khê, Trà Bàn, Trà Khúc.
Còn chữ kiệu có lẽ là do chữ kiều đọc trại đi, vì kiều nghĩa là
người ở xa, tức là Đàng Ngoài, di cư lập nghiệp tại đó.
Theo
tài liệu chắc chắn và di tích còn lại, Trà Kiệu là thành trì của
người Chiêm Thành còn để lại khi bị thất trận trước sức nam tiến
ồ ạt của người Việt. Dân tộc ta từ Bắc di cư vào Quảng Nam đời
vua Lê Thánh Tông (1470-97). Người Thanh Hóa, Nghệ An đến lập
nghiệp tại Trà Kiệu. Đồng bào lương dân e dè không dám ở trong
phạm vi thành trì của Chàm, nhưng người Công Giáo không tin kiêng
gì thấy đất tốt cảnh đẹp cứ ngang nhiên lập làng tại đó.
Năm 1883, sau khi vua Tự Đức băng hà, Nguyễn Văn Tường và Tôn
Thất Thuyết lạm dụng quyền hành, gây rối trong triều đình và ngấm
ngầm khởi xướng phong trào Cần Vương. Chương trình “Bình Tây Sát
Tả” được thi hành triệt để. Bình Tây thì không thấy đâu, nhưng
Sát Tả, tức giết hại giáo hữu Ki-tô giáo thì họ đã thành công
một cách ghê tởm! Từng trăm ngàn giáo hữu bị thiêu cháy, chôn
sống, giết chết cách dã man, oan uổng không lưỡi nào kể xiết.
Ngay trong tỉnh Bình Định đã có hơn 150 họ đạo bị đốt phá. Cả
miền Trung số người bị sát hại lên tới năm bảy vạn. Tình cảnh
thật bi đát hơn cả thời bắt đạo gắt gao dưới thời Tự Đức.
Đồng số phận truân chuyên gian khổ của giáo hữu khắp nước, ngày
1 tháng 9 năm 1885, Trà Kiệu bị bao vây thình lình. Khi đó cha
Nhơn (Bruyère) và giáo dân không ngờ nên không kịp chuẩn bị gì
cả, chỉ có năm khẩu súng cũ kỹ, năm khẩu súng nạp hậu với bốn
mươi viên đạn. Cha sở cũng như giáo dân chỉ biết chạy đến kêu
xin Đức Mẹ phù hộ. Họ đặt tượng Đức Mẹ giữa nhà, thắp nến rồi
ông già bà cả và trẻ em quây quần lần hạt. Mỗi khi giao chiến
xong, giáo hữu cầm giáo mác cùng trở về sấp mình cầu nguyện hồi
lâu. Trong làng có 370 nam nhân tráng kiện từ mười sáu đến sáu
mươi tuổi chia ra làm bảy đội, hơn năm trăm phụ nữ cũng trở thành
chiến binh thủ thành và cấp viện. Nhiều lò rèn hoạt động đêm ngày
cung cấp giáo mác cho đủ mỗi người một cái, vậy mà họ đã cầm cự
suốt 21 ngày đêm không có ai đến cứu viện trong khi lương thực
cũng thiếu thốn.
Những ngày đầu giáo hữu nản lòng trước địch quân đông đảo, đầy
đủ vũ khí đạn dược. Quân địch chiếm đóng hai hòn Bửu Châu và Kim
Sơn, đặt súng hạng nặng bắn vào Trà Kiệu. Một khẩu súng hạng nặng
đặt cách nhà thờ chỉ độ một trăm mét do một võ quan điều khiển
bắn nhiều phát vào nhà thờ nhưng chỉ trúng một phát nhẹ, dấu tích
ấy ngày nay vẫn còn. Về sau, chính võ quan ấy thú nhận cố ý bắn
Người Đàn Bà xinh đẹp bận áo trắng đứng ngay trên nóc nhà thờ.
Cả ngày hôm ấy và hôm sau, địch quân trên đồi Kim Sơn kêu rằng:
“Lạ thật, Người Đàn Bà kia cứ đứng mãi trên nóc nhà thờ, dù ta
cố nhắm thế nào bắn cũng không trúng.” Cha sở Nhơn và giáo hữu
đều nghe nói nhưng nhìn thì không thấy gì chỉ có hai người được
thấy Đức Mẹ là hai mẹ con bà Chỉnh và bà Nhã. Bà Chỉnh thấy trước
gọi con là bà Nhã lạy Đức Mẹ đi. Bà Nhã hỏi: “Đức Mẹ đâu mà lạy?”
Bà Chỉnh nói: “Con cứ lạy đi.” Lạy rồi, bà Nhã ngó lên liền thấy
Đức Mẹ đứng trên nóc nhà thờ.
Đồng thời, địch quân còn nói nhìn thấy nhiều con trẻ mặc áo đỏ,
áo trắng từ trên không xuống lũy tre, tay cầm gươm bạc sáng ngời
giúp giáo hữu chiến đấu. Quân địch rước được Chưởng thủy Tý đem
voi về chỉ huy, nhưng giáo dân đem đuốc hơ voi, voi sợ bỏ chạy,
quân địch không dám tiến lên và Chưởng thủy Tý bị quân ta hạ thủ
cấp đem về.
Ngày 21 tháng 9 giáo dân Trà Kiệu quyết định phản công. Khi ấy
dưới chân đồi, địch quân thét la xông đánh thúc voi xông vào,
nhưng voi không tiến mà giật lùi. Người quản tượng kêu lên: “Voi
không chịu tiến vì quân kia đông quá. Kìa hãy xem những lũ quân
xuống qua lũy tre. Ta phải chạy thôi vì quân bên đạo đông quá”.
Dân Trà Kiệu đều nghe lời ấy rõ ràng, nhưng không ai trông thấy
gì cả. Một thanh niên bắn trúng một tướng địch chỉ huy, giáo dân
cùng hô khẩu hiệu Giê-su Ma-ri-a Giu-se và tiến công đồng loạt,
địch quân bỏ chạy tán loạn.
Sau trận chiến, giáo hữu Trà Kiệu thiệt mất bốn mươi, còn quân
địch chết trên ba trăm. Giáo hữu Trà Kiệu toàn thắng, tịch thu
ba khẩu đại bác, mấy súng hiệp và rất nhiều đạn được cùng lương
thực.
Mười ba năm sau, tức năm 1898, giáo dân Trà Kiệu kiến thiết ngôi
thánh đường tuy không to lớn nhưng xinh đẹp trên đỉnh non Trược
để ghi ơn Đức Mẹ dưới tước hiệu “Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu.”
Từ ấy đến nay, đền thánh Trà Kiệu vốn nổi tiếng là linh thiêng,
kẻ lương người giáo đến cầu khẩn và nhiều người đã được sở nguyện
như ý. Cỏ cây quanh đền thờ nhờ ơn Đức Mẹ thông ban, đã công hiệu
chữa nhiều bệnh tật.
(Trích tư liệu của cha Phạm Châu Diên)
|
|