KƠ-NỐC, ÁI NHĨ LAN
1. Cuộc Hiện Ra
Trong nhiều cuộc hiện ra của Đức Mẹ, cuộc hiện ta tại Kơ-nốc (Knock),
Ái Nhĩ Lan có tính rất độc đáo vì Đức Mẹ không phán một lời nào.
Lòng trời nhân lành thể hiện tình yêu đúng vào dịp 50 năm sau
khi đạo luật Giải Phóng Công Giáo 1829 (Catholic Emancipation
Act) được thông qua. Theo đạo luật này, Giáo Hội Công Giáo không
còn bị đặt ra ngoài vòng pháp luật nữa như trước nữa.
Cuộc hiện ra của Đức Mẹ như thế đã tăng thêm niềm tin cho các
tín hữu miền Cao-ti Me-ơ (County Mayo, nay là Cnoc Mhuire) xa
xôi hẻo lánh và đem lại ủi an cho họ giữa thời buổi gian truân.
Ngày 21 tháng 8 năm 1879, hôm trước ngày khai mạc tuần bát nhật
mừng lễ Mẹ Lên Trời theo phụng vụ hồi đó, chừng 7 giờ 30 tối,
Đức Mẹ đã hiện ra trên đầu hồi phía nam của bức tường ngôi nhà
thờ làng. Cuộc thị kiến kéo dài chừng hai tiếng đồng hồ, và mười
lăm người đã được nhìn thấy Đức Mẹ. Mặc dù khi đó trời đang mưa
rất nặng hạt nhưng các Đấng trong cuộc thị kiến và nơi các Ngài
đứng vẫn hoàn toàn khô ráo. Các nhân chứng cuộc thị kiến kể lại
như sau:
Đức Trinh Nữ mặc đồ trắng và đội một triều thiên lớn rực rỡ, tay
giơ lên như đang cầu nguyện và mắt hướng lên trời.
Bên phải Đức Trinh Nữ là Thánh Giu-se, đầu hơi nghiêng về phía
Đức Mẹ. Bên trái Đức Mẹ có thánh Gio-an Tông Đồ trong sắc phục
giám mục, tay trái cầm sách và tay phải giơ lên trong tư thế giảng
dạy. Bên phía trái thánh Gio-an có một bàn thờ, trên đó có một
Thánh Giá và một Chiên Con chừng tám tuần tuổi. Đầu hồi bức tường
làm hậu cảnh của thị kiến được một đám mây sáng bao phủ.
2. Sứ Điệp
Mặc dù Đức Mẹ không phán một lời nào, nhưng lời giải thích thị
kiến được chấp nhận rộng rãi nhất cho rằng Đức Mẹ muốn củng cố
dân tộc Ái Nhĩ Lan trên bước đường của họ. Đức Ma-ri-a là hiện
thân của sự thánh thiện cá nhân; thánh Gio-an là hiện thân cho
công cuộc bảo vệ và phát triển Giáo Hội; Thánh Giu-se hiện thân
cho đức ái; tượng Thánh Giá tượng trưng cho hy sinh; và bàn thờ
(trên đó Chiên Con Thiên Chúa được hiến tế) tượng trưng cho nguồn
sức mạnh cần thiết cho đời sống tín hữu.
Bài học thứ nhất từ cuộc thị kiến là thánh lễ. Mọi sự dường như
đều qui hướng về đó - bàn thờ nơi Chiên Con được hiến tế, tư thế
của Đức Mẹ, sự hiện diện của thánh Gio-an trong lễ phục trang
trọng, và thái độ cung kính của Thánh Giu-se.
Nhưng chúng ta còn nhận được trong cuộc thị kiến lời nhắc nhở
về một chân lý vĩ đại khác liên hệ đến thánh lễ: đó là sự cần
thiết của vai trò trung gian và chuyển cầu của Đức Ma-ri-a, và
tính cách đặc biệt mà thánh lễ có được nhờ mầu nhiệm Đức Ma-ri-a
về trời và được ân thưởng. Chúng ta tôn kính hài cốt các thánh
khi muốn cầu xin điều gì, nhưng chúng ta không có hài cốt Người
Mẹ Thiên Đàng của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta có được một nguồn
uy lực hơn thế vô cùng - đó là sự tiếp diễn Lễ Hy Sinh của Con
Mẹ được sát tế trên các bàn thờ. Chúng ta có chính Thịt và Máu
Chúa trên bàn thờ, và đồng thời, trên thiên đàng Ngài cùng đang
ngự bên hữu Chúa Cha với Huyết Nhục mà Ngài đã nhận được từ Thân
Xác Đức Mẹ. Nếu thân xác đã chết của các thánh còn có sức làm
Trái Tim Thiên Chúa động lòng thương cảm chúng ta, thì Thân Xác
sống động của Mẹ Vô Nhiễm, Đấng đã dày đạp muôn đời kẻ thù nhân
loại còn có thế lực biết chừng nào!
Mi-ca-e Ô Ca-rôn (Michael O’ Carroll) kêu gọi: “Vì vậy, chúng
ta hãy nhìn về sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại Kơ-nốc, đó là lời mời
gọi chúng ta hãy đến nương nhờ Đức Trinh Nữ, Mẹ Trung Gian mọi
ân sủng, Nữ Vương trời đất hơn nữa để cầu xin cùng Mẹ và ý thức
hơn nữa trong cuộc sống của mình về sự hiện diện đầy nhân lành
của Mẹ trên thiên đàng.”
3.
Đền Thánh
Kơ-nốc nhanh chóng trở thành một địa điểm hành hương. Ngoài ngôi
nguyện đường cũ kỹ với chiếc đầu hồi nơi Đức Mẹ đã hiện ra, người
ta sau cùng đã xây dựng thêm một ngôi thánh đường khang trang.
Người ta đã ghi lạ hàng ngàn vụ lành bệnh, mặc dù mãi cho đến
năm 1936 ủy ban y khoa vẫn chưa thành lập để giám định các vụ
việc. Tuy nhiên, còn lạ lùng hơn nữa là vô số “vụ chữa bệnh linh
hồn” mà Đức Gio-an Phao-lô II đã ám chỉ khi ngài đến kính viếng
đền thánh vào ngày 30 tháng 9 năm1979 dịp mừng kỷ niệm 100 năm
biến cố Đức Mẹ hiện ra.
“Từ ngày hồng phúc ấy, ngày 21 tháng 8 năm1897 cho đến hôm nay,
những người yếu bệnh và đau khổ, những người tật nguyền thể xác
hay tinh thần, những người u sầu trong niềm tin hay lương tâm,
tất cả đã được chữa lành, được ủi an và được củng cố trong niềm
tin vì họ đã tin tưởng rằng Mẹ Thiên Chúa sẽ dẫn dắt họ đến cùng
Chúa Giê-su. Mỗi lần một khách hành hương đến viếng nơi ngày xưa
là một ngôi làng hẻo lánh lầy lội miền Cao-ti Me-ơ, mỗi lần có
một anh chị em đến với ngôi nhà thờ cũ kỹ với chiếc đầu hồi nơi
Đức Mẹ đã hiện ra, hoặc đến với đền thánh Đức Mẹ Nữ Vương Ái Nhĩ
Lan là họ đến để làm mới lại niềm tin vào ơn cứu độ Chúa Giê-su
đã đem đến, Ngài là Đấng đã làm cho tất cả chúng ta trở nên con
cái Thiên Chúa và thành những người thừa tự Nước Trời.”
Đức Thánh Cha đã nâng ngôi nhà thờ mới được xây lên bậc vương
cung thánh đường, và dâng một bông hồng vàng cho đền thánh.
A.
Buy-ô-nô
|