MẪU TÍNH TINH THẦN
Xem:
- Công Đồng Va-ti-ca-nô II và Đức Ma-ri-a
Một
trong những chủ điểm cốt yếu trong chương 8 hiến chế Tín Lý về
Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Va-ti-ca-nô II là xác định
sứ mệnh từ mẫu của Đức Ma-ri-a đối với chúng ta. Trong chương
này, tước hiệu “Mẹ Các Tín Hữu” (hay “Mẹ Nhân Loại”) thực tế đã
tổng hợp cụ thể mọi khía cạnh về hoạt động của Đức Ma-ri-a cùng
với những ân tình Mẹ dành cho chúng ta.
1.
Một Tiến Trình Phát Triển Lâu Dài
Mặc
dù ngay từ những thế kỷ đầu của kỷ nguyên ki-tô đã có những nhận
thức và xác quyết về giáo lý Đức Ma-ri-a - Hiền Mẫu Tinh Thần
(như của thánh I-rê-nê, Ê-pi-phan, Am-rô-si-ô và Âu-gu-tinh),
nhưng những chứng cứ ấy còn hiếm hoi, ít ỏi. Phải chờ mãi đến
giữa thời Trung Cổ người ta mới thấy một sự khởi đầu phát triển
thực sự của thần học về giáo lý này. Ngày nay, càng ngày người
ta càng coi trình thuật Phúc Âm Gio-an 19:25-27 (Đức Ma-ri-a trên
đỉnh Can-vê) như một chứng từ trình bày thực tại thiên chức hiền
mẫu tinh thần của Đức Ma-ri-a đối với các môn đệ Chúa Giê-su,
nhưng về mặt lịch sử mà nói người ta chỉ hiểu được những hàm ý
khá phong phú của trình thuật này một cách tiệm tiến.
Ở
đây, chúng ta phải đối diện với một thực tại mà Giáo Hội và các
tín hữu đã cảm nghiệm được về mặt thiêng liêng trước khi nội dung
thần học của thực tại ấy được giải thích rõ ràng. Thái độ ý thức
chính yếu của các ki-tô hữu trong trường hợp này không giống như
thái độ của họ trước một chân lý được mặc khải hoặc được khám
phá qua lý luận trừu tượng. Thực tại này tự tỏ hiện những gì ẩn
chứa bên trong dần dần qua sự hiện diện và hoạt động của Đức Ma-ri-a
trong cuộc sống của chúng ta. Tương quan mẹ con là một loại suy
phổ biến và chân xác nhất có thể nói lên được kinh nghiệm về mẫu
tính của Đức Ma-ri-a đối với chúng ta trên bình diện tinh thần.
Công
Đồng Va-ti-ca-nô II đã xác nhận tầm quan trọng của kinh nghiệm
sống động này: “Giáo Hội không ngần ngại tuyên xưng, mà luôn nghiệm
thấy, và nhắn nhủ các tín hữu ghi nhớ trong lòng để nhờ sự nâng
đỡ và phù hộ từ mẫu của Ngài, họ gắn bó mật thiết hơn với Đấng
Trung Gian Cứu Thế’’ (LG 62).
Những
lời trên cho thấy rõ ràng Công Đồng đang nói về vai trò từ mẫu
của Đức Ma-ri-a.
2.
Nội Dung
Khi
gọi Đức Ma-ri-a là “Mẹ,’’ chúng ta trực giác hiểu ngay được ý
nghĩa trọng tâm của danh xưng này vì nó gợi lên những ký ức kinh
nghiệm vừa bao quát vừa sâu lắng của chúng ta. Nhưng khi phải
giải thích rõ ràng chính xác nội dung của danh xưng này thì vấn
đề không giản đơn chút nào. Trước hết, vì sự phong phú của nội
dung, nó thực sự bao hàm mọi khía cạnh hoạt động của Đức Ma-ri-a
đối với chúng ta. Vì vậy nếu muốn làm sáng tỏ danh hiệu này, ta
phải xét đến mọi khía cạnh liên hệ. (Tùy từng phương diện, mọi
đề mục trong từ điển này đều mô tả và giải thích sứ mạng của Đức
Ma-ri-a, nên đều là những đề mục liên hệ đến Mẫu Tính Tinh Thần
của Đức Ma-ri-a).
Hơn
nữa, Đức Ma-ri-a là “Mẹ’’ chúng ta một cách loại suy thiết yếu
(necessarily analogical). Các nhà thần học hiểu những điều này
rất rõ vì họ luôn nhớ những giới hạn và sự siêu việt (transcendence)
của danh xưng này. Những giới hạn rõ ràng phát xuất từ sự kiện
chúng ta không thể áp dụng vào Mẹ Ma-ri-a tất cả mọi thực tế (realities)
của một người mẹ tự nhiên, chúng ta không phải là “con ruột” của
Đức Ma-ri-a trên bình diện thể lý (theo phương diện này, Đức Ma-ri-a
là Chị của chúng ta), nhưng trên “bình diện ân sủng’’ (LG 61).
Trong một số phạm vi nào đó, Mẫu Tính của Đức Ma-ri-a đối với
chúng ta xét ra không bằng người mẹ tự nhiên, nhưng trong một
số phạm vi khác, thì lại cao vượt hơn nhiều. Thí dụ, phẩm cách
đời sống làm con Thiên Chúa của chúng ta, cuộc sống mà Đức Ma-ri-a
đã trợ giúp để đem lại cho chúng ta đã nâng cao và làm phong phú
đời sống nhân loại của chúng ta một cách khôn lường. Sự hoàn hảo
trong việc Mẹ hiến thân cho sứ mạng hiền mẫu vượt xa tất cả những
bà mẹ tốt nhất trên trần gian. Hơn nữa, ơn gọi hiền mẫu của Đức
Ma-ri-a còn mang tính phổ quát, và như thế có một mối tương quan
riêng giữa Mẹ với từng người chúng ta.
Chúng
ta có thể rút từ chương 8 hiến chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium)
những đặc tính cốt yếu của Mẫu Tính nơi Đức Ma-ri-a.
a)
Trong và qua việc phục vụ Chúa Giê-su Con Mẹ, Đức Ma-ri-a trong
thời gian tại thế đã thể hiện nhiệm vụ làm Mẹ đối với chúng ta.
Do
việc Hài Nhi được Mẹ cưu mang trong ngày Truyền Tin là Đấng Cứu
Thế, nên Đức Ma-ri-a đã ban cho thế giới “Đấng là chính sự sống,
Đấng canh tân mọi sự’’ (LG 56). Chúng ta hãy đi sâu vào vấn đề
này.
Công
Đồng, kế thừa Truyền Thống không những trình bày mức độ hiến thân
đầy tình mẫu tử của Đức Ma-ri-a đối với riêng Chúa Giê-su, mà
còn ghi nhận rằng, như một tôi trung của Chúa và do thánh ý Thiên
Chúa, Mẹ đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình cứu độ Con
Mẹ thực hiện: “Hết lòng đón lấy ý định cứu rỗi của Thiên Chúa...Đức
Ma-ri-a đã hiến mình tận tuyệt như một Nữ Tì Thiên Chúa cho con
người và công việc của Con Mẹ, tùy thuộc vào Người và cùng với
Người...phục vụ mầu nhiệm ơn Cứu Độ’’ (LG 56; x. 61).
Mẫu
Tính Tinh Thần của Đức Ma-ri-a đối với chúng ta có cùng trương
độ (coextensive) như sứ mệnh Mẹ phục vụ Chúa Giê-su Cứu Thế. Tất
cả những gì Mẹ làm cho Chúa Giê-su và với Chúa Giê-su đều liên
quan đến cuộc sống làm con Thiên Chúa của chúng ta: “Mẹ cưu mang,
sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Ki-tô, đã dâng Chúa Ki-tô lên Chúa
Cha trong Đền Thánh và cùng đau khổ với Con trên Thập Giá, Đức
Ma-ri-a đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Đấng
Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng
nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy,
trên bình diện ân sủng, Đức Ma-ri-a là Mẹ thật của chúng ta’’
(LG 61).
b)
Ngày nay Đức Ma-ri-a vẫn tiếp tục thể hiện Mẫu Tính Tinh Thần
của Mẹ: “Trong nhiệm cuộc ân sủng, Đức Ma-ri-a luôn tiếp tục thiên
chức làm mẹ, từ khi Ngài tin tưởng ưng thuận trong ngày Truyền
Tin - sự ưng thuận mà Ngài đã không ngần ngại giữ vững bên Thập
Giá - cho đến lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu rỗi mọi người được
tuyển chọn. Thực vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài trong
việc cứu độ không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục tiên lỉ cầu
bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần
rỗi đời đời’’ (LG 62).
Nhưng
Công Đồng không chấm dứt ở câu Đức Ma-ri-a thực thi chức năng
từ mẫu này “bằng việc liên lỉ cầu bầu,’’ Công Đồng còn thêm rằng
“với tình từ mẫu, Mẹ chăm sóc những anh em của Con Mẹ đang lữ
hành trên dương thế...’’ Chúng ta có thể coi đó như một gợi ý
về tính cách riêng tư trong mối quan hệ giữa Đức Ma-ri-a với từng
người chúng ta. Quan hệ ấy không phải đơn giản chỉ là một quan
tâm chung chung vì chúng ta lúc nào cũng cần được cầu nguyện.
Những lời Công Đồng làm tăng thêm niềm tin tưởng của chúng ta
mỗi khi kêu nài Đức Ma-ri-a “cầu nguyện cho chúng ta,’’ một niềm
tin tưởng đến độ xác tín rằng Mẹ hiểu biết, nhìn xem, và nghe
lời chúng ta.
Hoạt
động thể hiện sứ mệnh hiền mẫu của Đức Ma-ri-a đối với chúng ta
còn là một hình thức diễn tả tinh thần hoàn hoàn phục vụ Chúa
Giê-su của Mẹ nữa:
c)
Mục đích của hoạt động từ mẫu của Đức Ma-ri-a là hiệp nhất chúng
ta với Chúa Ki-tô đến mức độ hoàn toàn, để mỗi người chúng ta
đều có thể nói: “ Sự sống tôi đang sống đây không phải là của
tôi; chính Chúa Ki-tô đang sống trong tôi’’ (Gl 2:20), ngõ hầu
Chúa Ki-tô trở nên “mọi sự trong mọi người’’ (x. Cl 3:11).
Nói
cho cùng, ân sủng là sự sống của Chúa Ki-tô trong chúng ta, sự
sống của Đấng “mà Thiên Chúa đã đặt làm Trưởng Tử giữa đoàn em
đông đảo’’ (Rm 8:29), tức là các tín hữu mà Mẹ đã cộng tác sinh
hạ và giáo dục với tình thương của một người mẹ (LG 63).
Mặc
dù Mẫu Tính Thần Linh (Divine Motherhood) của Đức Ma-ri-a đối
với Chúa Giê-su phải được phân biệt với Mẫu Tính Tinh Thần của
Mẹ đối với chúng ta, nhưng không được tách biệt hai mẫu tính này.
Mẫu Tính thứ hai phát nguyên từ Mẫu Tính thứ nhất và được Mẫu
Tính thứ nhất làm minh sáng ý nghĩa. Mẫu Tính Tinh Thần giống
như độ trương rộng của Mẫu Tính Thần Linh, bởi vì - theo cách
diễn tả thật tuyệt vời của thánh Mong-pho thì - Mẫu Tính Tinh
Thần hệ ở chỗ “đúc chúng ta trong Chúa Giê-su Ki-tô và đúc Chúa
Giê-su Ki-tô trong chúng ta.”
d)
Nhiệm vụ từ mẫu của Đức Ma-ri-a đối với chúng ta hoàn toàn là
kết quả hành vi cứu độ của Chúa Ki-tô; bắt nguồn từ đó và tùy
thuộc tất cả vào đó: “Vai trò làm Mẹ của Đức Ma-ri-a đối với loài
người không làm lu mờ hay giảm bớt vai trò trung gian duy nhất
của Chúa Ki-tô chút nào, trái lại còn làm sáng tỏ mãnh lực của
sự trung gian ấy” ( LG 60; x. 61). Công trình cứu độ của Chúa
Ki-tô vô cùng dư dật đến độ Ngài ban cho mọi người Ngài đã cứu
độ đều được trở thành những cộng tác viên của Ngài. Người trước
nhất cộng tác theo cách thế cá biệt và phổ quát là Mẹ Ngài, Đấng
Ngài ngỏ lời và ban phương thế để hoàn tất sứ mạng từ mẫu đối
với chúng ta.
e)
Hơn nữa, Đức Ma-ri-a đã cưu mang Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm
hồn và thân xác mình nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Đấng đã rợp
bóng trên Mẹ (Lc 1:35). Cũng chính quyền năng Chúa Thánh Thần,
Linh Hồn của linh hồn Mẹ, Sự Sống của sự sống Mẹ mà Mẹ đã có được
“khả năng sinh sản” (fecundity) để làm Mẹ của chúng ta.
3.
Tương Quan Mẹ - Con
Đức
Ma-ri-a đã sử dụng tất cả năng lực tinh thần và thể lý để phục
vụ sứ mệnh làm Mẹ Chúa Giê-su. Mẹ cũng làm như thế để phục vụ
“độ trương rộng” của sứ mệnh ấy - làm Mẹ Tinh Thần đối với chúng
ta.
Điểm
đáng lưu ý là Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã sử dụng những từ ngữ
chất chứa cảm tình rất sâu đậm dịu dàng khi nói về liên hệ giữa
Đức Ma-ri-a và chúng ta. Thí dụ Công Đồng nói: “Với tình từ mẫu,
Mẹ chăm sóc những anh em của con Mẹ...” (LG 62). Công Đồng cũng
dùng những ngôn ngữ như thế khi mô tả thái độ, hoặc thái độ nên
có của từng người chúng ta nói riêng cũng như toàn thể Giáo Hội
nói chung đối với Mẹ. Đức Ma-ri-a là “chi thể của Giáo Hội...
Giáo Hội Công Giáo được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên Mẹ tình
con thảo, như đối với một người Mẹ rất dấu yêu” (LG 53). Và mặc
dù Công Đồng lưu ý rằng “lòng tôn sùng chân chính không hệ tại
tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin phù
phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật,” nhưng Công Đồng
tiếp ngay, “đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao
cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu
mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).
Như
thế, lòng sùng kính chân chính không bị rơi vào thói cảm tình
ủy mị hoặc quá chuộng cảm giác. Nhưng dù có nguy cơ này đi nữa,
thì đó cũng không phải là cớ để chối bỏ hay hạ thấp tầm quan trọng
của vấn đề là: để phát triển đến mức trưởng thành trong Chúa Ki-tô,
chúng ta phải cần đến hoạt động từ mẫu của Đức Ma-ri-a, và đó
là thánh ý Thiên Chúa. Về phía mình, chúng ta nên cố gắng duy
trì một quan hệ sinh động với Đức Ma-ri-a, một quan hệ áp dụng
hài hòa mọi khả năng của hữu thể chúng ta, kể cả phương diện cảm
tình như trong quan hệ của chúng ta đối với Đức Ki-tô. Tình từ
mẫu thiêng liêng của Đức Ma-ri-a nhắc nhở chúng ta hãy sử dụng
cả chiều kích tình cảm của con cái Thiên Chúa trong đời sống của
chúng ta.
Để
kết luận, chúng ta hãy trở về với nền tảng là Lời Chúa Ki-tô trên
núi Can-vê được Phúc Âm ghi lại: “Đây là con Bà” - “Đây là Mẹ
Con,” và những lời Mẹ Ma-ri-a nói với những gia nhân tại tiệc
cưới Ca-na: “Hãy làm điều Ngài bảo các anh.” Những lời này, Mẹ
nói với chúng ta không bao giờ mỏi mệt. Mẹ hằng ở bên chúng ta
như một người mẹ để giúp chúng ta sống trọn vẹn những lời ấy.
A.
Đơ-lơ-san
|