NGƯỜI NỮ
Xem:
- Cana
- Đức Ma-ri-a dưới Chân Thập Giá
- Người Tôi Tớ Thiên Chúa
1. Đức Ma-ri-a, Người Nữ Hoàn Hảo
Theo Phúc Âm Gio-an, Chúa Giê-su đã hai lần gọi Mẹ Người bằng
danh xưng “Bà” (Ga 2:4; 19:26). Điều này chứng tỏ rằng Đức Ma-ri-a
chính là người đại diện và là hiện thân của dân tộc Đấng Mê-si-a.
Và có thể nói được Mẹ là E-và Mới. Mẹ của chúng sinh dưới chân
Thập Giá đã cộng tác trong mối liên hệ như Hiền Thê của A-đam
Mới để sinh ra Dân Tộc Mới của Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần.
“Theo lời tiên báo trong Sáng Thế Ký 3:15, Người Nữ này đã được
tiền định làm người cộng tác với Thiên Chúa trong chiến trận chống
lại Sa-tan. Bà chính là Mẹ của Đấng sẽ đạp dập đầu kẻ thù. Tuy
nhiên, theo viễn ảnh tiên báo của Cựu Ước, Miêu Duệ của Người
Nữ ấy, Người sẽ chiến thắng thần dữ hình như nhất thiết phải là
một con người.”
“Ở đây, có sự kiện kỳ diệu về Đấng Nhập Thể, Miêu Duệ của Người
Nữ ấy, Người sẽ hoàn tất lời tiên báo không phải là một người
thường. Ngài có bản tính nhân loại thực sự nhờ Người Nữ, Mẹ Ngài,
nhưng đồng thời Ngài cũng là Thiên Chúa thật. Ngay từ ban đầu,
giao ước giữa Thiên Chúa và Người Nữ đã mang một chiều kích mới.
Đức Ma-ri-a đi vào giao ước này với tư cách là Mẹ Thiên Chúa.”
“Để song đối với hình ảnh người nữ ban đầu đã phạm tội, Thiên
Chúa đã tạo nên một người nữ hoàn hảo, người có sứ mệnh làm Mẹ
Thiên Chúa. Giao ước mới này cao vượt trên phạm vi một cuộc giao
hòa đơn thuần. Vì giao ước này đã nâng Người Nữ ấy đến một tầm
cao không ai có thể tưởng tượng được” (Đức Gio-an Phao-lô II,
ngày 4 tháng 1 năm 1984).
2. Nữ Tính của Đức Ma-ri-a
Ngoài những ý nghĩa tiềm tàng trong Thánh Kinh, từ ngữ “người
nữ” còn gợi lên một chiều kích riêng của Đức Ma-ri-a như một người
nữ trưởng thành và đầy trách nhiệm vì Mẹ hoàn toàn chấp nhận hoàn
cảnh và ơn gọi của mình. Mẹ là “Người Nữ của dân tộc Ít-ra-en,”
Mẹ đi sâu vào lòng dân tộc và lịch sử Ít-ra-en.
Mẹ là “Người Nữ” theo nghĩa đầy đủ nhất của từ ngữ này vì Mẹ hành
xử với tư cách một người trưởng thành. Chúng ta thấy Mẹ đón nhận
các trách nhiệm của mình trong biến cố Truyền Tin, một biến cố
sẽ mãi mãi an bài vận mệnh của Mẹ. Mẹ không hề khoa trương về
đặc ân của mình, không hề lãng phí khối tình duy nhất dành cho
Chúa Con để mong giữ Ngài lại cho riêng mình. Ngược lại, ý thức
về sứ mệnh của Chúa Giê-su, Mẹ muốn Ngài cứ xúc tiến chương trình
ấy: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2:3). Trong giai đoạn hoạt động công
khai của Chúa, Mẹ luôn ẩn mình phía sau, nhưng trong giờ Thập
Giá, Mẹ đã hiện diện. Mẹ không hề phật lòng khi được nhắc nhở
phải thay đổi cách xử đối như mọi người mẹ thế gian phải làm lúc
con bà khôn lớn, trong trường hợp của Mẹ lại mang một chiều kích
ngoại lệ vì ngôi vị Thiên Chúa của Con Mẹ. Vì ngoài những chiều
kích tự nhiên của mối quan hệ mẹ con, còn có những chiều kích
đức tin vượt trên mọi tương quan máu mủ. Sự “từ bỏ” của Mẹ sâu
xa đến độ Mẹ đã chấp nhận cái chết của Chúa Giê-su trên Thập Giá
vì phần rỗi thế gian.
Vì thế, người ta không thấy nơi Đức Ma-ri-a thái độ nhỏ nhen canh
giữ Chúa Giê-su cho riêng Mẹ. Mẹ biết rằng Người không thuộc về
riêng Mẹ. Mẹ hiểu rằng Chúa thuộc về tất cả mọi người. Đức Ma-ri-a
không bị trói buộc trong thái độ “bo bo” làm thui chột sự phát
triển của Mẹ lẫn Con. Trung tâm hiện hữu của Mẹ không phải là
Mẹ, nhưng là Chúa Con, Đấng ban cho sự hiện hữu của Mẹ tất cả
ý nghĩa. Thái độ đó chính là nguyên lai cho cuộc sống cá nhân
thực sự của Đức Ma-ri-a, với ý thức trách nhiệm và tình nguyện
biết đưa ra sáng kiến khi cần thiết (Lc 1:38; Ga 2:3). Đức Ma-ri-a
hiến mình để phụng sự Chúa Con, và tìm được tự do của Mẹ khi để
cho Chúa theo tự do của Người.
Đức Ma-ri-a là người nữ hoàn hảo vì bên cạnh ơn gọi đặc biệt làm
trinh nữ, làm vợ và làm mẹ, Ngài đã mang nơi mình một nữ tính
trọn vẹn thể hiện qua những đặc điểm như trực giác, tinh tế, nhạy
cảm, ân cần đến tha nhân và các nhu cầu của họ. Đó là lý do khiến
các ki-tô hữu có một niềm tin tưởng phó thác vào Mẹ gần như theo
bản năng.
Sau cùng chúng ta hãy chiêm ngắm con người Đức Ma-ri-a, một người
nữ với nét bình dị, anh dũng và rất “người” của Mẹ. Trong tông
thư Lòng Sùng Kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Đức Phao-lô VI trình
bày những đường hướng để tái khám phá con người Đức Ma-ri-a như
một người nữ đức tin, một người nữ chủ động và đầy trách nhiệm.
Đức Thánh Cha nói: “Thực tế mà nhìn sẽ thấy khó mà đưa hình ảnh
Đức Mẹ - theo như một số văn chương đạo đức diễn tả - vào hiện
trạng của xã hội sống ngày nay, đặc biệt của giới phụ nữ... Do
đó, một số người không thích việc tôn sùng Đức Ma-ri-a bởi vì
khó mà nhận Đức Ma-ri-a làng Na-da-rét làm gương mẫu cho cuộc
sống bởi khung cảnh của Mẹ bị coi là quá hẹp so với tầm hoạt động
bao la đang mở ra cho con người thời nay” (MC 34).
“Giáo Hội luôn luôn đưa Đức Ma-ri-a làm gương mẫu cho các tín
hữu, không nhằm giới thiệu lối sống hay cảnh vực văn hóa mà Mẹ
đã sống, vì cả hai đều lỗi thời, nhưng chỉ nhắm đến việc Đức Ma-ri-a
đã hoàn toàn thực hiện ý Chúa trong thực trạng của đời sống (Lc
1:38). Đúng hơn, Mẹ được nêu gương cho các tín hữu vì cung cách
mà Mẹ, trong cuộc sống đặc thù của Mẹ, đã chấp nhận thánh ý Thiên
Chúa một cách trọn hảo, đầy ý thức trách nhiệm, vì Mẹ đã lắng
nghe thực thi Lời Chúa, và vì đức ái và tinh thần phục vụ luôn
thúc bách hướng dẫn các hoạt động của Mẹ. Mẹ xứng đáng cho mọi
người noi gương vì Mẹ là môn đệ số một và trọn hảo nhất của Chúa
Ki-tô. Tất cả các điều đó có giá trị nêu gương mãi mãi cho thế
giới” (MC 35; 37).
3. Đức Ma-ri-a và Phụ Nữ Ngày Nay
Trong bức thư mục vụ năm 1973 mang tựa đề “Đây là Mẹ Con” đầy
ý nghĩa, các giám mục Hoa Kỳ đã trình bày Đức Ma-ri-a theo các
khía cạnh đa diện trong cuộc sống phức tạp của ki-tô hữu thời
nay. Các ngài đã đề cao Mẹ như mô phạm cho tất cả tự do thực sự
của phụ nữ, nhấn mạnh đến vai trò của Mẹ trong công cuộc thăng
tiến phụ nữ, và Mẹ là hình ảnh tiên báo vai trò của phụ nữ Ki-tô
giáo trong Giáo Hội và xã hội hôm nay.
“Theo các Phúc Âm, Chúa Ki-tô đã tỏ ra một thái độ khai sáng cho
các phụ nữ: qua cuộc nói chuyện với Ngài với người đàn bà Sa-ma-ri-a
bên bờ giếng; qua mối tình thân hữu Ngài dành cho chị em Mát-ta
và Ma-ri-a, đặc biệt là việc bênh vực cho Ma-ri-a khi bà say sưa
lắng nghe lời Ngài thay vì lo phục vụ; qua thái độ Ngài đối với
người đàn bà gốc Phê-ni-xi xứ Xi-ri-a và con gái yếu bệnh của
bà (Mc 7:29); qua việc Chúa hiện ra với Ma-ri-a Ma-đa-lê-na sau
khi sống lại và sai bà đi loan báo tin mừng cho các Tông Đồ. Những
sự kiện trên - được hiểu theo bối cảnh văn hóa thời ấy - cho chúng
ta một căn bản để xúc tiến cuộc thăng tiến và giải phóng thật
sự cho phụ nữ.”
“Phẩm giá mà công cuộc cứu độ của Chúa Ki-tô mang lại cho mọi
phụ nữ đã được thể hiện một cách tuyệt hảo nơi Đức Ma-ri-a, mô
phạm cho tất cả tự do thực sự của phụ nữ. Trong Phúc Âm, Mẹ Chúa
Giê-su được mô tả với những đặc tính như:
*
Thông minh (trong biến cố Truyền Tin, Mẹ hỏi: “Điều ấy làm sao
có thể được?”);
*
Nhiệt thành với tinh thần tông đồ (trong cuộc viếng thăm bà Ê-li-sa-bét);
*Đầy
tinh thần tìm hiểu và chiêm niệm (trong lúc Chúa bị lạc mất trong
Đền Thờ);
*Khéo
ứng xử và sáng kiến (tại tiệc cưới Ca-na);
*Đầy
cảm thông và can đảm (trên núi Can-vê);
*Và
đầy tràn đức tin.
Những
điểm tiềm tàng ấy trong cuộc sống của Chúa Giê-su và Đức Ma-ri-a
ấy cần được trình bày cặn kẽ trong một nền thần học lành mạnh
khi bàn về vai trò của phụ nữ Ki-tô giáo trong bối cảnh Giáo Hội
và xã hội hôm nay” (số 141-142).
Đức Phao-lô VI đã phác thảo một nội dung thần học như thế về Đức
Ma-ri-a trong bức tông thư “Lòng Sùng Kính Đức Trinh Nữ” ban hành
năm 1974. Ngài trình bày vai trò của Đức Ma-ri-a và người phụ
nữ thời nay: “Mẹ là tấm gương phản ảnh những ước vọng của phụ
nữ thời nay” (số 37).
1) Phụ nữ ngày nay mong muốn tham dự vào quyền quyết định các
vấn đề của cộng đồng. Như thế họ có thể vui mừng chiêm ngưỡng
Đức Ma-ri-a, người “đối thoại với Thiên Chúa và nói lên sự ưng
thuận tích cực tự do để giải quyết không phải một vấn đề nhất
thời, nhưng chính là biến cố quan trọng của toàn nhân loại, tức
là biến cố Ngôi Lời Nhập Thể.”
2) Phụ nữ ngày nay sống trong một thế giới đề cao giá trị hôn
nhân và coi khinh đời sống đồng trinh như một “lối sống thui chột”
(counterproductive). Qua việc nhận biết vì sao Đức Ma-ri-a đã
lựa chọn cuộc sống trinh khiết, cuộc sống chuẩn bị cho Mẹ đi vào
mầu nhiệm Nhập Thể theo chương trình Thiên Chúa, họ sẽ hiểu rằng
không phải “Mẹ phủ nhận các giá trị của đời sống hôn nhân, nhưng
vì đó là một sự lựa chọn can đảm, nhằm tận hiến toàn thân cho
tình yêu Thiên Chúa.”
3) Phụ nữ ngày nay sống giữa một thế giới rất coi trọng thái độ
khẳng định bản thân (self-assurance). Họ sẽ ngạc nhiên vui sướng
khi thấy rằng “Đức Ma-ri-a thành Na-da-rét hoàn toàn phó thác
theo thánh ý Chúa, nhưng Mẹ không phải là một người phục tùng
cách thụ động hay tôn kính Chúa cách nô lệ, mà là một người nữ
can đảm tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng nâng đỡ người hèn mọn yếu
đuối và đánh đổ kẻ quyền thế trên đời” (x. Lc 1:51, 53).
4) Phụ nữ ngày nay ước muốn ủng hộ những lực lượng giải phóng
quần chúng và xã hội. Họ có thể nhận ra “Đức Ma-ri-a đứng hàng
đầu trong những kẻ nghèo hèn của Chúa. Mẹ là người nữ đã nếm mùi
khó nghèo và đau khổ, trốn tránh và lưu đày (x. Mt 2:13-23).”
Từ những nhận định trên, ki-tô hữu có thể hiểu biết thêm về Đức
Ma-ri-a, mẫu gương cho phụ nữ ngày nay. Dĩ nhiên để được như thế,
họ phải đọc Thánh Kinh dưới ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần và
những khám phá của các nghành khoa học con người cũng như những
hoàn cảnh đa dạng của thế giới hôm nay.
A.
Đơ-lơ-san - A. Buy-ô-nô
|