THÁNH GIU-SE VÀ ĐỨC MA-RI-A
Giu-se
là quí danh của một người con danh tiếng của tổ phụ Gia-cóp, cũng
là một quí danh cha truyền con nối phổ biến vào thời Chúa Giê-su.
Ngay trong danh sách các tổ phụ của Chúa Giê-su ta cũng thấy có
tên này. Và chính Chúa Giê-su trong cuộc đời công khai của Ngài
cũng được biết đến như “là con trai của ông Giu-se” (Lc 4:22 và
Ga 1:45 - Phúc Âm Mác-cô không có chi tiết này). Hai gia phả trong
chương 3 Phúc Âm Lu-ca và chương 1 Phúc Âm Mát-thêu đều ghi rằng
Chúa Giê-su là con Thánh Giu-se. Gia phả Phúc Âm Mát-thêu cho
biết rằng chính nhờ Thánh Giu-se mà Chúa Giê-su Na-da-rét được
trở thành người thừa tự những quyền lợi trong vương tộc vua Đa-vít,
người lập nên triều đại được tuyển chọn. Còn gia phả Phúc Âm Lu-ca
cho thấy nhờ Thánh Giu-se mà Chúa Giê-su Na-da-rét được làm con
cái A-đam, và vì vậy mà trở thành đại diện cho cả nhân loại.
Phúc
Âm Mát-thêu cho chúng ta biết rất nhiều về Thánh Giu-se. Cộng
đồng (hay những cộng đồng) Phúc Âm thánh Mát-thêu (tức là những
người được ngài viết Phúc Âm cho) hồi ấy thắc mắc không hiểu tại
sao Chúa Giê-su có thể vừa là Đấng Mê-si-a được Thánh Kinh nói
đến và thiên hạ đợi trông mà lại vừa là người con được Đức Ma-ri-a
thụ thai đồng trinh, theo như các truyền tụng đương thời. Câu
trả lời cho thắc mắc của họ chính là Thánh Giu-se, người được
soi sáng hiểu biết các sự kiện và đã nhận Đức Ma-ri-a làm hôn
thê, nhận Chúa Giê-su làm con để lề luật được nên trọn: “Sinh
bởi một Người Nữ, sinh dưới chế độ lề luật” như thánh Phao-lô
sau này đã viết (Gl 4:4).
Như
thế dưới cái nhìn của dân chúng và lề luật, Thánh Giu-se là người
giữ trách nhiệm “sinh ra” và giáo dục Người Con của Đức Ma-ri-a
cho đến lúc trưởng thành hầu trở nên một thành phần chính thức
của dân tộc Chúa, những người mà Chúa sẽ đến cứu độ và thống lĩnh.
Thánh Giu-se không chỉ chấp nhận địa vị làm cha Chúa Hài Nhi mà
còn quyết định đem Ngài lánh sang Ai Cập và trở về ngụ tại Na-da-rét
sau khi Hê-rô-đê băng hà thay vì ngụ tại đất Giu-đa dưới quyền
vua Ác-kê-lau hung bạo. Vì thế, Chúa Giê-su mới được gọi là Na-da-rê-ô
(Nazarene hay Nazorean), danh xưng mà một thời người Do Thái dùng
để chỉ các ki-tô hữu.
Thánh
Lu-ca đã đề cập rõ ràng đến sự hiện diện của Thánh Giu-se (“cha
mẹ”) không những khi dâng Chúa trong Đền Thờ mà cả lúc đem Người
đi lễ đền thờ lúc mười hai tuổi như lề luật đòi buộc các thiếu
niên. Ngoài những ý nghĩa có thể suy ra từ câu nói “con bác thợ
mộc,” Chúa Giê-su rõ ràng cũng làm thợ mộc chứ không chỉ là con
bác thợ mộc mà thôi. Điều ấy có nghĩa là Thánh Giu-se đã truyền
nghề thợ mộc lại cho Chúa Giê-su, một nghề người ta nhìn vào để
nhận ra Chúa tại Na-da-rét. Ở đây có lẽ không thể suy rộng nghĩa
từ “dạy nghề’’ thành “dạy học’ được, vì người ta cho rằng Ráp-bi
(ông thày) Giê-su chẳng hề học hành gì cả.
Trong
những lần Thánh Giu-se xuất hiện, Ngài luôn xuất hiện bên cạnh
Đức Ma-ri-a. Ngài thực sự là hôn phu của Đức Ma-ri-a (tiếng Hy
Lạp: aner). Sau thời gian đính hôn (ở Ga-li-lê thường là một năm),
Giu-se đã nhận Đức Ma-ri-a làm hôn thê. Chính “Hài Nhi và Mẹ Ngài”
đã được Giu-se đưa sang Ai Cập lánh nạn. Và cùng với Đức Ma-ri-a,
Giuse đem Hài Nhi dâng tiến cho Thiên Chúa trong Đền Thờ và dẫn
lên Giê-ru-sa-lem khi Hài Nhi trọn mười hai tuổi. Nhờ công khó
hiện diện và bảo bọc của Thánh Giu-se, Đức Ma-ri-a đã được sống
một cuộc đời ẩn khuất với Con Thiên Chúa, Đấng đã lớn dần “trong”
Mẹ, rồi “với” Mẹ về tầm vóc, ân sủng và khôn ngoan. Nhờ Thánh
Giu-se, Đức Ma-ri-a đã dưỡng dục Chúa Hài Nhi và suy niệm trong
lòng mọi điều đã tiên báo về Người.
Thánh
Giu-se được giao nhiệm vụ coi sóc Chúa Hài Nhi - theo lời thánh
Mát-thêu - vì Ngài là “người công chính.” Khi chuyển ngữ ra tiếng
địa phương, người ta thường làm trệch ý nghĩa từ “người công chính”
của tiếng Hy Bá trong các sách Thánh Kinh được viết sau thời lưu
đầy, đó là một từ để chỉ những vị hoàn toàn tín trung vâng giữ
giáo điều luân lý và các bổn phận tôn giáo chép trong Cựu Ước.
Đó là sự công chính vượt trên cấp độ sòng phẳng thông thường vì
nó bao hàm cả khía cạnh quảng đại và hào phóng vương giả.
Có
thể Thánh Giu-se là “người công chính” theo nghĩa ấy, vì lúc đầu,
Ngài không thể nhận Người Nữ với Bào Thai không phải của Ngài
làm vợ. Ngài là “người công chính” theo nghĩa rằng Ngài đã không
muốn vi phạm lề luật qui định trong tình huống ấy. Ngài cũng là
“người công chính” vì Ngài không muốn làm nhục Người Nữ mà Ngài
cảm thấy bị bắt buộc phải từ bỏ cách lặng lẽ. Chính ở đây, chúng
ta nhìn thấy một “sự công chính” được sáng ngời với thái độ trọng
kính và tình yêu của người Hôn Phu dành cho vị Hôn Thê để bảo
vệ dưỡng dục và ban lại cho Hài Nhi những quyền lợi của mình.
Mọi sự đều gợi ý cho thấy rằng Thánh Giu-se đã qua đời và hoàn
thành sứ mạng của mình trước ngày Con Đức Ma-ri-a bắt đầu sứ mạng
công khai.
H.
Ca-den
|