|
Thánh
Giuse Trong Phúc Âm |
|
Thánh
Gioan Kim Khẩu bàn về vụ trốn qua Ai Cập
Thánh
Gioan Kim Khẩu (340-407) quê thành Antiôkia, Giám mục
thành Constantinôpôli, được mệnh danh là
Kim Khẩu, vì sự khôn ngoan và tài biện của
ngài.
Sinh
thời, Ngài đã làm cho giáo hữu say mê, mến
phục tài giảng thuyết và lòng bác ái của
Ngài, Ngài mãnh liệt đã kích cổ tục dị
đoan và đời sống sa đọa, nhất
là phản đối Nữ Hoàng Eudoxia đã chiếm
đoạt tài sản của nhân dân, nên năm
403 bị kết án lưu đầy và chết
nơi đất khách năm 407.
Đức
Piô X đã tôn phong Ngài làm Tiến Sĩ Giáo Hội
và Quan thầy các nhà giảng thuyết.
1.
Giuse vâng lênh Chúa truyền
Thiên
thần không nói gì với bà Maria, nhưng bảo
ông Giuse rằng: "Hãy chỗi dậy đem
Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn qua Ai Cập." Thiên
thần không nói là hôn thê ông mà nói là Mẹ Ngài, vì
sau khi sinh nở, không còn gì để nghi ngờ
nữa, đức tin của ông đã được
củng cố rồi. Thiên thần có ý nói ra rằng:
mẹ này, con này không phải là của ông.
"Hãy
đem Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn qua Ai Cập".
Thiên thần cho biết lý do là: "Bởi Hêrôđê
toan lùng Hài Nhi mà giết". Nghe vậy Thánh Giuse
không thắc mắc: Thực là khó hiểu! Thần
vừa bảo tôi Ngài sẽ cứu thoát toàn dân
mà rày không tự cứu thoát được mình,
để chúng tôi phải lên đường,
chạy đến phương xa nước
lạ, chẳng là mâu thuẫn với lời Thần
vừa nói đó sao?
Tháng
Giuse không bao giờ hỏi thế, vì ông có đức
tin vững vàng. Ông cũng không hỏi bao giờ
trở về, mặc dầu Thiên thần chỉ
nói mơ hồ khi bảo: "Cứ ở đó
cho đến khi tôi báo lại". Nhưng đó
không phải một lẽ cho ông trì hỗn, thờ
ơ. Lập tức, ông vâng lời và chấp
nhận mọi thử thách.
Thiên
Chúa dụng tâm pha trộn cay đắng với
ngọt bùi. Đó là cách Chúa đối xử với
các Thánh. Chúa chẳng để các Ngài phải
nguy khốn mãi, cũng không muốn các Ngài đựơc
an bình luôn. Chúa lần lượt gieo vui, rắc
buồn vào đời sống các Ngài.
Đời
sống Thánh Giuse cũng thăng trầm như
thế.
Trước
hết, thấy bà có thai, ông đâm nghi nan bối
rối, nhưng rồi có Thiên thần hiện
đến giải tỏa mối lo sợ nghi
ngờ. Lúc Ấu Chúa sinh ra ông vui mừng lắm
nhưng lại sợ hãi xiết bao khi thành đô
náo động, và các vương thịnh nộ
lùng tiêu diệt Hài Nhi!
Tiếp
theo biến động này là niềm vui ngôi sao
xuất hiện đưa Đạo sĩ tới
thăm. Nhưng xiết bao lo sợ, khi Thiên thần
cho biết Hêrôđê toan hại tánh mạng Hài
Nhi và truyền cho Giuse bôn đào ngoại cảnh,
dường như Chúa không có mặt ở đó,
bởi lẽ chưa đến ngày Ngài làm phép
lạ. Nếu Ngài làm phép lạ ngay tự ban đầu
thì có lẽ quần chúng lại không tin Ngài là một
con người.
Ngôi
đền thờ này không phải một lúc mà
mọc lên. Phải thành thai chín tháng, mới sinh
ra, được bú mớm nuôi dưỡng, qua
những năm thơ ấu, rồi mới đến
tuổi trưởng thành. Như thế không ai
chối cãi Mầu Nhiệm Nhập Thể được
nữa.
Chắc
anh em sẽ hỏi tại sao xảy ra nhiều
phép lạ lúc Chúa mới sinh? Thưa đó là ơn
riêng dành cho Đức Mẹ và Thánh Giuse, cho ông
già Simeon sắp lìa trần, cho mục đồng,
cho đạo sĩ và cho dân Do Thái. Nếu người
Do thái biết lưu ý tới sự việc xẩy
ra lúc bấy giờ chắc về sau họ sẽ
được nhiều ơn ích.
Anh
em đừng lấy làm lạ tại sao các Tiên
tri không nói gì đến các Đạo sĩ. Thưa
các Tiên tri không tiên báo hết mọi điều,
cũng không làm thinh hết mọi sự. Một
đàng nếu không tiên báo gì hết, thì khi sự
việc xảy ra, người ta sẽ sững
sờ bối rối. Bằng nếu cho biết
trước tất cả, thì người ta sẽ
sa vào giấc ngủ hôn mê. Vả, như vậy,
đâu còn chỗ cho các thánh ký Phúc âm thi hành sự
mạng say này?
2.
Lời tiên tri ứng nghiệm
Về
lời tiên tri: "Ta gọi Con ta từ Ai cập",
người Do thái đừng có kiếm chuyện
nói rằng lời ấy chỉ về mình. Chúng
tôi trả lời cho họ rằng các nhà tiên tri
có thói quen lấy việc người nọ mà
ám chỉ việc người kia, điều
ấy thuộc về bản tính lời tiên tri.
Thí
dụ lời tiên tri về Giacob: "Hãy làm chỉ
anh em ngươi, các con trai của mẹ ngươi
phải cung cúc trước mặt ngươi"
(St 27, 29). Lời chúc này chỉ ứng nghiệm
cho con cháu ông chứ không ứng nghiệm cho bản
thân ông, vì ông phải run sợ quị lụy trước
anh mình.
Cũng
nói được như thế về lời
triên tri ta đưong bàn trên đây. Một đàng
thờ bò vàng, tế thần ngoại giáo, giết
con cúng quỷ, một đàng là Con thật Thiên
Chúa, hằng làm sáng danh Cha, ai đáng gọi là
Con Thiên Chúa hơn? (Ds 25). Nếu Ngài không tới
thì lời tiên tri đó thiếu đối tượng,
không thể giải thích được.
Ta
nên lưu ý là chính Thánh sử cũng diễn tả
tư tưởng ấy khi ông viết: "Hầu
cho lời đó nên trọn". Vậy lời
đó không nên trọn nếu Đấng Kitô không
đến.
Sự
kiện "Xuất Ai cập" cũng là một
vinh dự lớn cho Trinh Nữ Maria. Dân tộc
Do thái lấy đó làm một đặc ân cho
mình, thì Trinh Nữ cũng có quyền như vậy.
Người Do thái tự hào nhớ lại mình
đã ra khỏi Ai cập, coi đó là một kỷ
niệm vinh quang. Một tiên tri đã ám chỉ
điều ấy khi ông kêu lên: "Há Ta chẳng
đem Israel ra khỏi Ai cập ư?" (Am 9,7).
Vinh
dự ấy, Trinh Nữ Maria đáng được
hơn ai hết. Cuộc xuất lưu và hồi
hương của dân Do thái là hình bóng hai cuộc
hành trình của Trinh Nữ Maria. Dân Do thái sang Ai
cập là để thoát nạn chết đói.
Đức Kitô sang Ai cập để tránh âm mưu
đe dọa tính mạng Ngài. Họ đã tới
Ai cập và thoát cơn cơ cận. Ngài đã
tới Ai Cập mà thánh hóa nước này.
Hãy
nghiệm xem Thiên tính Ngài được biểu
lộ qua vẻ tầm thường của nhân
tính Ngài chừng nào!
Khi
Thiên thần bảo ông bà qua Ai cập thì không hứa
đi theo, dường như muốn bảo cho
cả hai biết rằng Đấng đồng
hành tốt nhất của ông bà chính Hài Nhi mới
sanh đó. Bởi vì từ khi xuất hiện,
Ngài đã thay đổi mọi sự trên thế
gian. Các thù địch, Ngài cũng biến thành
khí cụ hành ý định của Ngài.
Các
Đạo sĩ ngoại giáo đã từ bỏ
dị đoan truyền kiếp để tới
thời Ngài. Hoàng đế Augustiô, khi ra lệnh
làm sổ kiểm tra toàn lãnh thổ, đã vô tình
cộng tác vào việc Ngài sinh ra tại Bêlem.
Ai
cập đã tiếp nhận Ngài, cứu Ngài khỏi
âm mưu bày sẵn, nên có một mối liên hệ
mật thiết với Ngài. Đến sau nghe
các Tông đò rao giảng danh Ngài, thì Ai cập có
thể tự hào là mình đã tiếp rước
Ngài trước hết.
Đặc
quyền ấy đáng lẽ của dân Do thái
nhưng dân Ai cập, bởi lòng nhiệt thành
nên đã dành được trước.
Trích
dịch bài giảng "Trốn qua Ai cập".
Lạy
Thánh Giuse là đấng rất công bằng, xin
cầu cho chúng con.
Chứng
Tích:
Hai thành khỏi dịch
Năm
1638, thành Avignon, nước Pháp, phải dịch
tả chết nhiều lắm, chẳng có phương
dược nào chữa được. Trong lúc
túng cực, dân thành chạy đến kêu cầu
Thánh Cả Giuse và khấn rằng: Nếu Ngài
cứu thành cho khỏi dịch thì tự hậu
hằng năm sẽ mừng lễ Ngài cách trọng
thể.
Ôi!
Thánh Giuse quyền thế và từ tâm dường
nào! Chính ngày người ta khấn cầu thì thành
Avignon và cả vùng lân cận đều khỏi
dịch, chẳng còn ai chết vì chứng đó
nữa.
Thành
Avignon vừa thoát thì dịch tả lại lan
sang thành Lyon. Nhưng thành này kịp theo gương
thành kia mà kêu khấn Thánh Cả, nên cũng được
thoát nạn.
(Sách
Tháng Thánh Giuse, Cố Lương)
|