|
NGƯỜI
NÔ LỆ
Bờ
biển Anh Quốc xẩm tối.
Ðàn muỗi đói vo ve đuổi
người. Patrick
cùng các bạn đang dạo bước. Xa xa, vài đóm sáng ngoằn ngoèo
rồi vụt tắt.
Một người trong bọn nói:
-Có lẽ bọn chúng đang đổ
bộ lên bờ.
Ba tao nói, tại chính nơi này
bọn chúng thường bắt người
đem đi làm nô lệ!.
Patrick cười gằn.
Chàng tự
phụ với thân hình vạm vỡ 16
tuổi đời của chàng.
-Hãy coi tao đây! Sức tao như
trâu thế này mà không bảo vệ
được chúng mày hay sao?
Tụi mày có theo tao hay không?
Lưỡng lự dồn ái ngại,
tụi bạn của Patrick lẽo đẽo
theo sau chàng... Thình lình, một tiếng
kêu ú ớ đàng sau khiến chàng
giật mình quay lại.
Một cảnh chộp bắt người
rùng rợn khiến Patrick tự động
co giò chạy lẹ! Nhưng đã quá muộn.
Chàng bị một bọn chuyên nghề
săn người túm lại.
Miệng chàng bị tọng đầy
giẻ. Hai tay
bị trói giặt cánh khỉ.
Hai chân bị còng lại.
Bọn họ hò hục khiêng chàng
đi một quãng, rồi quẳng chàng
lên một chiếc thuyền cũ.
Nơi đây, các bạn của Patrick
đã cùng chung số phận.
Nằm co quắp trên sàn thuyền,
suốt đêm Patrick lắng nghe tiếng gió
gào, tiếng sóng vỗ.
Chiếc thuyền cũ ảm mùi cá
ươn suốt đêm chồi lên hụp
xuống kiến chàng chóng mặt và
non mửa. Cuối
cùng, khi trời vừa sáng, chàng nghe
tiếng thuyền chạm bờ cát.
Họ tháo xiềng chân Patrick rồi
kéo chàng lên bờ.
Tại đây, chàng đối diện
với một lũ người lạ, họ
banh miệng, vén mắt xem xét, mặc cả
chàng như một con vật! Lắng nghe những
lời đàm thoại của họ, chàng
hiểu rằng hiện chành là nô lệ
của bọn người vô đạo tại
Ái Nhĩ Lan.
Ông
chủ của Patrick không đến nỗi
tệ. Sau khi
trả tiền, ông ta đem Patrick về làng
gần đó, cho chàng ăn uống và
nghỉ ngơi. Gần trưa, Patrick được lệnh
đi theo chủ băng qua một khu rừng
tiến kên sườn núi.
Xế chiều, họ tới một căn
chòi, chàng trên đỉnh núi.
Chính nơi đây Patrick sẽ sống
và chăm nom đoàn vật của chủ.
Bấy giờ là năm 403. Biết rằng cố gắng trốn thoát lúc
này là nguy đến tính mạng.
Lính gác đầy bờ biển.
Nằm trong chòi, chàng cố dỗ
mình vào giấc ngủ, nhưng tiếng
ngáy rung chòi của ông chủ khiến
chàng không sao ngủ được.
Chàng gượng gạo đưa tâm
trí cầu nguyện.
Nhưng cũng chẳng xong!
Ðã lâu, chàng bỏ ngoài tai
những lời khuyên nhủ của các
cha, chẳng thèm để ý chi đến
cuộc sống đạo.
Chàng nghĩ thầm:
-Có lẽ Chúa phạt mình! Chắc mình phải sống trên đất
vô đạo này đến mãn đời!
Ngày hôm
sau, Patrick lùa đàn vật xuống sườn
đồi rồi để mặc chúng dựa
lưng vào gốc cây, chàng hết ngắm
nhìn đoàn vật đang gặm cỏ,
rồi lại nhìn bầu trời xanh.
Những sợi mây mền mại vất
vẻo lưng chừng đồi khiến tâm
thần chàng dịu lại.
Có sức thúc đẩy bên trong
giục chàng cầu nguyện.
Chàng nhớ lại các kinh lạy
cha chàng nghĩ:
-Chúa là Cha mình! Chúa sẽ
giúp mình! Rồi
liên tưởng đến Mẹ Maria, chàng
buột miệng cầu nguyện với người.
Trải qua nhiều ngày, Patrick chỉ
luẩn quẩn với kinh lạy cha.
Ngày này qua ngày khác, Thiên
Chúa đã trở nên người bạn
đường độc nhất của chàng.
Mỗi ngày chàng nâng hồn lên
với ngài trên 100 lần.
Chàng lập đi lập lại những
lời nguyện chân thành.
Nhiều đêm chàng ngủ luôn
tại sườn đồi, để rồi
trước khi bình minh ló dạng chàng
có thể chỗi dậy cầu nguyện,
mặc dầu sương lạnh, mặc cho
tuyết phủ, mặc kệ mưa rơi!
Sức ấm của tình yêu Chúa
đã làm chàng quên cả gía lạnh.
Sáu
năm dài chăn đoàn vật cho chủ.
Rồi một đêm nằm ngủ dưới
vòm sao, những tiếng nói từ trên
cao đến với chàng trong giấc ngủ,
thúc giục chàng hãy can đảm mà
vượt thoát, và như vậy chàng
có thể trở lại chốn sinh thành.
Với lời cầu xin ơn phù trợ,
chàng chỗi dậy thực hiện lời
nhủ khuyên. Sợ
rằng đi theo đường cũ sẽ
bị phát giác, nên chuyển hướng
ngược lại chàng băng rừng vượt
suối trèo non, hết tuần này sang tuần
khác. Sau hơn
200 dặm đường, chàng tới bờ
biển và hỏi xin một chỗ thí
trên tàu. Nhưng đời nào lại có chỗ
thí cho chàng!
Bọn thủy thủ nhìn chàng cười
chế diễu. Một
lát cầu nguyện trong thinh lặng, chàng
quay gót ra đi.
Nhưng đước một quãng, một
thủy thủ gọi giật chàng lại:
- Ê! trở lại đây.
May ra mày giúp chúng tao được
việc chăng.
Những ngày ở trên tầu, Patrick
nói chuyện với thủy thủ đoàn
về uy guyền và tình yêu củaThiên
Chúa. Bọn
họ lắng nghe lời chàng cách say mê.
Họ chưa bao giờ nghe nói tới
Chúa Kitô và Các Kitô hữu.
Sau
ba ngày trên biển cả, bọn họ
lên bờ rồi bắt đầu một
cuộc hành trình vô định kéo
dài nhiều tháng băng qua miền
đất không dân cư nhà cửa.
Họ bắt đầu gặp đói
khát! Người thuyền trưởng gọi
Patrick tới:
-Mày nói Chúa của mày toàn
năng và Chúa mày sẽ giúp
đỡ chúng ta lúc này?
Chàng trả lời:
-Nếu các ông tin vào Chúa
của tôi, Ngài sẽ
ban lương thực cho các ông.
Không có sự gì Ngài không
làm được.
Chúa đã nghe lời cầu của
vị thuyển trưởng.
Ngay hôm đó họ gặp một
bầy heo rừng.
Giết được một sồ, họ
đem quay rồi ăn uống linh đình
như ngày hội.
Từ hôm ấy Chúa của Ptrick trở
nên vĩ đại trước
mặt bọn họ.
Cuối
đường hành trình, Patrick đã
về tới nơi sinh trưởng của chàng.
Gia đình và thân quyến đón
mừng chàng như một người sống
lại từ cõi chết.
Ngày tháng trôi qua, Patrick tiến
tới không ngừng trong tình yêu Chúa.
Chàng miên man nghĩ tới các linh hồn
ngoại đạo bên kia bờ đại
dương, nơi chàng đã sáu năm
sống trong cảnh nô lệ.
Thế rồi một đêm, tiếng
nói vô hình lại đến với
chàng trong giấc ngủ:
-Hỡi bạn, chúng tôi nài
xin bạn hãy trở lại và sống
giữa chúng tôi.
Chàng hiểu rằng Chúa muốn chàng
dâng hiến đời mính cho phần rỗi
các linh hồn tại Ái Nhĩ Lan. Ðể thực hiện ơn Chúa gọi,
trước hết chàng sang pháp thụ
huấn trong tu viện, dưới quyền thánh
Martin thành tours.
Sau khi
thánh nhân qua đời, chàng tới
một thành phố khác cũng tại nước
Pháp. sống với đức Cha Germanus.
Ðức cha sai chàng trở lại Anh
quốc. Chàng được thụ phong linh mục,
rồi phục vụ các linh hồn nhiều
năm tại đó.
Nhưng Cha Patrick không sao quên được
tiếng mời gọi thần linh đã đến
với Ngài đêm xưa.
Ngài mạnh dạn thưa trình câu
truyện với Ðức Cha Germanus và nài
xin Ðức Cha Germanus giúp mình thực
hiên ơn gọi. Ðức Cha Germanus không muốn mất
Patrick, nhưng cuối cùng cũng đành
để Cha đi Rôma gặp Ðức Thánh
Cha Celestine. Ước
vọng của Cha Patrick đã thành sự
thật! Ðức
Thánh Cha truyền chức Giám Mục cho
ngài rồi sai Ngài trở về Ái Nhĩ
Lan truyền giáo.
Tới
Ái Nhĩ Lan, việc đầu tiên Ðức
Cha Patrick làm là lên đỉnh núi,
nơi Ngài đã chăn đoàn vật
sáu năm dài cho chủ.
Tại đây, theo gương Chúa
Kitô, Ngài đã ăn chay cầu nguyện
40 đêm ngày, để chuẩn bị
việc truyền giáo.
Thế rồi bắt tay vào việc. Tại Tara, mùa Phục Sinh năm 433, các
vua chúa ngoại đạo đang cùng với
con dân của họ tôn kính các thần.
Theo tục lệ bản xứ, không
ai được đốt lửa cho tới
khi mhà vua đốt ngọn lửa đầu
tiên. Ðức
Cha Patrick biết điều đó.
Ngài hiên ngang leo lên một ngọn
đồi rồi đốt một đống
lửa rất lớn.
Lập tức Ngài bị bắt điệu
đến trước mặt vua, và đây
chính là điều Ngaì muốn.
Nhà vua bực tức hỏi Ngài:
-Ngươi là ai? Ai sai ngươi
tới đây?
Tại sao ngươi cả gan bất tuân
lệnh ta?
Không
một chút sợ hãi, Ngài
trả lời:
-Tôi tên là Patrick Giám Mục
của Thiên Chúa, Ðức Thánh Cha
Celestine sai tôi tới nói cho các ngươi
về Ba Ngôi trong một Thiên Chúa, một
Thiên Chúa nhưng có Ba Ngôi.
Ông
vua ngoại giáo lộ vẻ tò mò, rồi
bảo Ngài giải nghĩa thêm.
Ðức Cha Patrick đã lần lượt
giảng về Chúa Ba Ngôi, về Ngôi
Hai xuống thế làm người, về
tình yêu vô hạn của Thiên Chúa.
Nhà vua hài lòng khi nghe lời giảng
của Ðức Cha Patrick.
Sau đó vua ban phép cho Ngài được
giảng đạo tại Ái Nhĩ Lan.
Ba mươi năm tiếp sau đó,
Ðức Cha Patrick sống giữa dân chúng
và rao giảng Lời Chúa.
Chúa bảo vệ Ngaì khỏi những
cuộc sát hại.
Lời Giảng của Ngài làm mền
lòng người nghe.
Họ đã lần lượt đón
nhận Ðức Tin Công Giáo.
Ði tới đâu, Ngài liền cho
xây nhà thờ, lập trường học.
Ngài truyền chức Linh Mục và
Giám Mục. Với
trí thông minh, Ngài đã cố vấn
cho chính quyền Ái Nhĩ Lan soạn bộ
luật quốc gia.
Ðức Cha Patrick qua đời ngày
17 tháng 3 năm 493.
Thi hài Ngài được chôn táng
tại một ngôi làng ở County Down, Ái
nhĩ Lan. Giáo Hội tôn phong Ngài lên bậc
hiển thánh. Ngài
hiện làm Thánh bổn mạng của
toàn thể dân tộc Ái Nhĩ Lan.
Sinh trưởng tại Anh Quốc, Patrick
bị người Ái Nhĩ Lan bắt làm nô lệ năm 16 tuổi.
Từ cảnh nô lệ người đời,
Patrick đã được ơn gọi làm
Nô Lệ Thiên Chúa, làm
Tông Ðồ rao giảng Tin Mừng
cho dân tộc Ái Nhĩ Lan.
|
|