GIA ĐÌNH SỐNG ĐẠO
là
thể hiện những giá trị
và truyền thống về văn hoá
và tôn giáo của gia đình Á châu
VÀO
ĐỀ
Trong
sứ điệp gửi toàn thể Dân Chúa tại Châu Á, các Giám Mục
thuộc Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu họp tại Daejon, Hàn
Quốc, từ ngày 17 đến 23 tháng 8 năm 2004, với chủ đề "Gia
đình Á Châu hướng đến nền văn hóa sự sống",
đã lấy lại lời của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
để kêu gọi các gia đình Kitô hữu:
"HỠI
CÁC GIA ĐÌNH, HÃY TRỞ NÊN CHÍNH MÌNH!"
"Hãy
trở nên chính mình!" có nghĩa là các gia
đình Kitô hữu thể hiện hoặc sống căn tính (identity) và
ơn gọi (vocation) của gia đình công giáo. Cũng có nghĩa
là các gia đình sống đạo như được mời gọi và có trách
nhiệm. Nhưng xưa rày hễ nói đến sống đạo, chúng ta thường
nghĩ ngay đến việc sống giáo lý đức tin, mà quên đi một
yếu tố rất quan trọng là thể hiện những giá trị nhân văn
thuộc truyền thống văn hóa và tôn giáo của gia đình Á
châu. Trong bài này chúng ta sẽ đề cập đến việc thể hiện
những giá trị này trong đời sống gia đình.
TRÌNH
BÀY
1.
Những giá trị và truyền thống về văn hóa và tôn giáo của
gia đình Á châu
Trong
sứ điệp của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu họp lần thứ
8 nói trên, sau khi khẳng định xác tín của mình về "gia
đình là quà tặng quý giá và ân phúc Chúa ban cho vùng
Á châu", các Giám Mục Á Châu đã đưa ra nhận
định sau đây:
"Chúng
tôi hân hoan đọc được các tín hiệu của niềm hy vọng tràn
ngập trong các gia đình Á Châu. Được thôi thúc bởi các
giá trị và truyền thống về tôn giáo và văn hóa, nhiều
gia đình đang nỗ lực kiên trì dấn thân cho những lý tưởng
của đời sống gia đình. Họ múc lấy sức mạnh từ những
giá trị mang tính Á Châu, như lòng tôn kính sâu xa đối
với sự sống, sự gần gũi và tôn trọng thiên nhiên, siết
chặt tình thâm gia tộc, tình nhân ái giữa người với người,
củng cố lòng hiếu khách, tôn trọng người già, đề cao
lòng hiếu thảo, chăm sóc cho người trẻ. Duy trì được đời
sống tâm linh và niềm tin tôn giáo trong gia đình, cảm nhận
được sự thánh thiêng của hôn nhân, gia đình và con cái,
là những yếu tố mang lại niềm vui và biến nhiều gia đình
thành những vườn ươm cho ơn thiên triệu. Trước các gian
truân trăm bề, họ luôn kiên cường chịu đựng. Gia đình Á
Châu không ngừng được nâng đỡ bởi các giá trị đó và cũng
không ngừng chuyển tải các giá trị đó. Chúng tôi không
khỏi ngạc nhiên khi thấy những gía trị của dân bản xứ
và của các tôn giáo khác đã làm phong phú các gia đình
Á Châu biết chừng nào. Những cuộc hôn nhân khác đạo và
khác văn hóa cũng tạo những cơ hội thuận lợi cho sự phong
phú thiêng liêng, và đã trở thành các biểu tượng về một
tình yêu vô điều kiện vươn lên từ những vấn đề phức tạp
về văn hóa và tôn giáo mà các cuộc hôn nhân này phải
đối mặt. Hỡi các gia đình chúng tôi cám ơn các bạn vì
các bạn đã bảo vệ được các giá trị đích thực, và chúng
tôi khuyến khích các bạn can đảm, kiên trì"
2.
Sống Đạo là duy trì và phát huy những giá trị và truyền thống
thuộc văn hóa và tôn giáo của gia đình Á Châu.
Chúng
ta biết Châu Á là nơi sản sinh những nền văn hóa lâu đời (như
Ấn độ, Trung Hoa..) và các tôn giáo lớn của nhân loại (Ấn Giáo,
Phật Giáo, Lão Giáo, Khổng Giáo...). Việt Nam ta cũng là mảnh
đất có bốn ngàn năm văn hiến bên cạnh những nền văn hóa lớn Ấn-Trung.
Vì thế mà gia đình Á Châu nói chung và gia đình Việt Nam nói riêng
đã thấm nhuần những giá trị cao đẹp và truyền thống ngàn đời của
văn hóa và tôn giáo Á Châu, trước khi tiếp nhận Tin Mừng Kitô
giáo. Chúng ta cũng biết rằng Phúc Âm không những không tiêu diệt
các giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống của các dân tộc mà
còn thăng hoa và kiện toàn những giá trị tốt đẹp ấy. Những giá
trị này thường rất gần với các giá trị của Phúc Âm. Vì thế mà
trong cách sống đạo của mình, các gia đình Á Châu nói chung và
gia đình Việt Nam nói riêng, thường làm nổi bật những giá trị
nhân văn xuất phát từ truyền thống văn hóa và tôn giáo của gia
đình Á Châu. Sau đây chúng ta sẽ đi sâu vào từng giá trị và truyền
thống tốt đẹp ấy:
2.1
Lòng tôn kính sâu xa đối với sự sống:
Sự
sống luôn là điều thánh thiêng đối với người Á Châu. Một trong
những nét đặc trưng trong Giáo lý Phật Giáo là “không sát sinh”.
Giáo lý này xuất phát từ quan niệm coi mọi dạng sự sống (thực
vật, động vật) trên đời này đều có giá trị cao quý. Quan điểm
của Kitô giáo có khác, cũng tôn kính sự sống của mọi sinh vật
nhưng lại được dậy cho biết là con người được Thiên Chúa giao
quyền bá chủ vũ trụ và vạn vật, nên con người có quyền sử dụng
thực vật, động vật để phục vụ cho sự sống của mình. Kitô giáo
cũng cấm giết người, vì quan niệm rằng sự sống là quà tặng của
Thiên Chúa, là bất khả xâm phạm và thuộc về Thiên Chúa. Con người
chỉ có quyền đón nhận chứ không có quyền hủy diệt sự sống.
Nhưng
ngày nay con người tự ban cho mình quyền “sinh sát” trên sự sống
là vi phạm nặng nề điều răn của Chúa. Giết người luôn là tội trọng,
nhất là giết những người bé mọn, yếu ớt, không có khả năng tự
vệ (như các bào thai hay trẻ sơ sinh). Kitô hữu phải là các chiến
sĩ bảo vệ (phò) sự sống. Gia đình Kitô hữu phải là cung thánh
của sự sống như giáo huấn của Giáo hội về Gia đình.
2.2
Sự gần gũi và tôn trọng thiên nhiên:
Con
người là sinh vật có xã hội tính nghĩa là có nhiều mối tương quan:
tương quan với Thiên Chúa, tương quan với chính mình, tương quan
với tha nhân, tương quan với xã hội và tương quan với cả thiên
nhiên nữa. Các bậc hiền triết từ Đông sang Tây đều là những người
sống gần gũi và hòa hợp với thiên nhiên. Theo triết lý của Đông
phương “thiên thời / địa lợi / nhân
hòa” là ba yếu tố thiết yếu cho sự thành công của
mọi công trình.
Ngày
nay con người tự gây hại cho mình và cho tha nhân và xã hội khi
- vì vô tình hay vì lòng tham - mà phá vỡ sự hài hòa của thiên
nhiên. Thiên tai do nạn phá rừng, tình trạng ô nhiễm môi sinh
và khí thải nhà kính là những tai họa đang và sẽ giáng xuống trái
đất với hậu quả khôn lường. Người Kitô hữu phải là các chiến sĩ
bảo vệ môi trường. Gia đình Kitô hữu phải là trường dạy sự tôn
trọng và bảo vệ thiên nhiên.
2.3
Tình thâm gia tộc:
Một
nét đặc thù khác của gia đình Á Châu là tính gia đình trong quan
hệ xã hội. Gia đình không chỉ giới hạn ở cha mẹ và con cái, vợ
và chồng mà còn mở rộng đến ông bà / cha mẹ / chú bác / cô dì
/ anh chị em họ (bà con). Sợi dây ràng buộc giữa các phần tử của
gia đình Á Châu còn khá bền chặt mặc dầu bối cảnh xã hội Á Châu
đã thay đổi rất nhiều. Những nước tiên tiến về mặt kinh tế, kỹ
thuật như Nhật Bản, Trung Hoa, Hàn Quốc, Thái Lan….cũng vẫn tôn
trọng và đề cao những cách ứng xử lễ phép, hiếu thảo là nét đặc
trưng của gia đình Á Châu..
Thế
mà một số người, một số gia đình Việt Nam đã đánh mất truyền thống
tốt đẹp của gia đình Á Châu. Đúng hơn là những người và những
gia đình này đã không hiểu ý nghĩa cao đẹp của tình thâm gia đình
mà ngộ nhận đó chỉ là những tập quán cổ hủ hoặc chẳng đem lại
lợi ích gì cho con người thời nay nên loại bỏ. Xã hội Á Châu bền
vững là do gia đình Á Châu bền vững, nhờ tình thâm gia tộc, nhờ
mối liên kết dòng tộc. Gia đình Kitô hữu phải là nơi tình thâm
gia tộc được gìn giữ và hoàn thiện hơn lên để trở thành nét đặc
trưng của gia đình Kitô hữu.
2.4
Tình nhân ái giữa người với người:
Giữa
người với người thì chẳng có gì cao quý hơn là tình nhân ái. Nhân
là người. Ái là lòng yêu thương. Người mà không có lòng nhân ái
thì không còn là người nữa. Người với người mà chẳng khác gì sói
(homo homini lupus) như châm ngôn của người La Mã xưa thì còn
gì là sự an bình, ấm êm của xã hội nữa. Bao lâu con người chưa
có lòng nhân ái thì bấy lâu chiến tranh vẫn tồn tại. Nơi nào con
người thiếu lòng nhân ái thì nơi ấy con người sống trong hận thù.
Dân tộc nào thiếu lòng nhân ái thì những người nghèo khổ, túng
thiếu sẽ không có được chăm sóc và nâng đỡ là điều cần thiết để
vượt qua khó khăn, nghèo đói. Lòng nhân ái là tiền đề của đức
ái Kitô giáo. Gia đình Kitô hữu là trường đào tạo những tấm lòng
nhân ái cũng như những tâm hồn bác ái yêu thương là dấu riêng
của người môn đệ Chúa Giêsu.
2.5
Lòng hiếu khách:
Tôn
giáo nào cũng trân trọng lòng hiếu khách, nhất là Kitô giáo. Thế
nhưng lối sống đề cao chủ nghĩa cá nhân đã làm sói mòn lòng hiếu
khách. Còn một yếu tố khác làm phai nhạt và hạn chế việc thực
hành lòng hiếu khách trong đời sống những con người văn minh:
đó là những tai hại do chính những người được đón tiếp gây ra
cho người đón tiếp. Ví dụ người được đón tiếp ăn cắp ăn trộm tài
sản của chủ nhà, thậm chí giết hại chủ nhà tiếp đón mình, thì
làm sao người ta dám mở cửa đón tiếp nữa. Có lẽ chúng ta phải
tìm một hình thái mới để duy trì sự đón tiếp, nhất là trong một
cộng đồng tôn giáo. Chẳng hạn giáo xứ có nhà đón tiếp những người
lỡ đường thay cho các gia đình. Điều cần nghi nhận là ở các dân
tộc thiểu số lòng hiếu khách còn khá sống động.
2.6
Lòng hiếu thảo (tôn trọng người già, chăm sóc người trẻ)
Một
nét đặc trưng khác của gia đình Á Châu là lòng hiếu thảo. Người
Việt có câu: “Trẻ cậy cha, già cậy con”
để nói lên mối tương quan ruột thịt và tình hỗ tương
giữa các thế hệ khác nhau. Đạo lý uống nước nhớ nguồn đã ăn sâu
vào máu thịt của người Á Châu nói chung và người Việt Nam nói
riêng. Vì thế theo quan điểm Đông Phương thì tội lớn nhất của
một con người là tội bất hiếu đối với tổ tiên ông bà cha mẹ.
Ngày
này do ảnh hưởng của nền văn hóa thực dụng và duy vật, nhiều người
trẻ Việt Nam không còn coi trọng lòng hiếu thảo đối với các bậc
sinh thành và học đòi cách sống của người Âu Mỹ, coi cha mẹ già
là gánh nặng, là của nợ muốn chối bỏ. Thật đáng tiếc thay!
2.7
Đời sống tâm linh và niềm tin tôn giáo:
Một
đặc trưng quan trọng khác của các dân tộc Á Châu nói chung và
Việt Nam nói riêng là lòng sùng đạo và đời sống tâm linh của người
dân. Dù cách thể hiện khác nhau nhưng hầu hết người Việt Nam là
người có tín ngưỡng. Có thể quả quyết dân tộc Việt Nam là dân
tộc có tâm hồn đạo và có tôn giáo. Vì thế mà ở Việt Nam sẽ khó
mà có hiện tượng nhà thờ hay chùa chiền vắng bóng tín đồ hay thiện
nam tín nữ! Cũng vì thế mà vô thần, duy vật là đi ngược với truyền
thống văn hóa và tôn giáo của cha ông chúng ta và cũng đi ngược
với bản tính con người là sinh vật có đời sống tâm linh, có tôn
giáo.
Dĩ
nhiên người và gia đình Kitô hữu được mời gọi đi sâu vào đời sống
tâm linh và tăng cường niềm tin tôn giáo. Giáo hội Việt Nam đã
có 117 Thánh Tử Đạo, nhưng chưa có một vị Thánh Hiển Tu hay Thần
Bí (mystic) nào. Không thể nói là đời sống chiêm niệm không phù
hợp với tâm hồn Việt. Bằng chứng là các Dòng chiêm niệm có rất
nhiều ơn gọi. Nhưng chiều kích chiêm niệm trong đời sống đức tin
nơi người giáo dân cần được đầy mạnh và cổ võ nhiều hơn nữa.
2.8
Sự thánh thiêng của hôn nhân, gia đình và con cái:
Như
trên đã nêu sự bền vững của gia đình là một đặc trưng của các
nước Á Châu nói chung và của Việt Nam nói riêng. Dù ly hôn đã
được pháp luật nhìn nhận nhưng trong suy nghĩ của đại đa số người
Việt Nam, ly hôn vẫn là một tai họa, một điều đáng tiếc xẩy ra
chứ không phải là một điều gì tốt đẹp đáng hãnh diện và khoe khoang.
Sở dĩ gia đình được bền vững như vậy là nhờ ở quan niệm về hôn
nhân, gia đình và con cái là thánh thiêng, là báu vật.
Hy
vọng rằng, dù xã hội đang thay đổi sâu rộng và nhanh chóng, thì
những truyền thống tốt đẹp này vẫn luôn được duy trì và đề cao.
2.9
Đức chịu đựng:
Nét
đặc trưng cuối cùng của người Á châu nói chung và của người Việt
Nam nói riêng và nhất là của người phụ nữ Việt Nam, là đức chịu
đựng. Phần lớn các gia đình tan vỡ là vì con người thời nay không
còn biết chịu đựng nhau nữa. Do đó trong gia đình có chuyện gì
xảy ra là người ta nghĩ ngay đến biện pháp “chia tay”. Đã đành
có nhiều trường hợp chỉ có chia tay mới giải quyết được vấn đề,
nhưng chia tay cũng chẳng phải là cây đũa thần giải quyết được
mọi khó khăn, mọi vấn đề.
KẾT
LUẬN
Những
giá trị và truyền thống về văn hóa và tôn giáo là kho tàng vô
giá của các dân tộc Á Châu nói chung và Việt Nam nói riêng. Gia
đình sống đạo là thể hiện những giá trị và truyền thống đặc thù
hay có tính Á Châu ấy cùng lúc với việc thể hiện những giá trị
Kitô giáo. Vì thế gia đình Kitô hữu Việt Nam, dù sống ở phương
trời nào, càng phải biết trân trọng, duy trì và phát triển những
giá trị và truyền thống tốt đẹp về văn hóa và tôn giáo ấy. Đó
chính ta một chứng tá mà nhân loại nói chung và các dân tộc tiên
tiến nói riêng đang chờ đợi ở chúng ta.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Ngày 24 tháng 01 năm 2006
nhằm ngày 25 Tháng Chạp Năm Ất Dậu
|