GIA ĐÌNH SỐNG ĐẠO
là
sống Bí tích Thánh tẩy hay thể hiện
tư cách là Kitô hữu của mình
VÀO
ĐỀ
Trong
phần trình bày về Bảy Bí tích của Hội thánh,
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo viết: “Trong
Giao Ước Mới, có bảy bí tích do Đức Ki-tô thiết lập là Thánh Tẩy,
Thêm Sức, Thánh Thể, Giải Tội, Xức Dầu Bệnh Nhân, Truyền Chức
Thánh và Hôn Phối. Bảy bí tích liên quan đến tất cả các giai đoạn
trong đời sống Ki-tô hữu: người tín hữu được sinh ra và lớn lên,
được chữa lành và sai đi. Giữa những giai đoạn của đời sống tự
nhiên và đời sống thiêng liêng, có nhiều điểm tương đồng”
(1).
Bài
này sẽ trình bày về Bí Tích Thánh Tẩy và cách gia đình Công giáo
sống Bí Tích ấy.
TRÌNH
BÀY
1.
Giáo lý Hội Thánh dạy gì về Bí Tích Thánh Tẩy?
1.1
Bí tích Thánh tẩy là một trong ba Bí tích Khai tâm Ki-tô giáo:
Ba
Bí Tích Thánh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể là những Bí Tích khai
tâm đặt nền tảng cho đời sống Ki-tô hữu. “Nhờ
ân sủng của Đức Ki-tô, con người được tham dự vào bản tính Thiên
Chúa. Tương tự như việc sinh ra, lớn lên và bảo tồn trong đời
sống tự nhiên, người tín hữu được tái sinh trong đời sống mới
nhờ Bí Tích Thánh Tẩy, được củng cố nhờ nhờ Bí Tích Thêm Sức và
nhận lấy bánh ban sự sống đời đời trong Bí Tích Thánh Thể. Như
vậy, nhờ các Bí Tích Khai Tâm Ki-tô giáo, họ được hiệp thông sâu
xa hơn vào đời sống thần linh và càng tiến tới Đức Mến hoàn hảo”
(2).
1.2
Sự cần thiết của Bí Tích Thánh Tẩy:
Chính
Chúa Ki-tô khẳng định Bí Tích Thánh Tẩy là cần thiết để được cứu
độ: “Ai
tin và chịu Phép Rửa sẽ được cứu độ” (Mc 16,16). Vì thế mà Người
sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng và rửa tội cho mọi dân tộc:
“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép
rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dậy
bảo họ tuân giữ mọi điều Thày đã truy ền cho anh em” (Mt
28,19-20) (3).
1.3
Hiệu quả hay ân sủng của Bí Tích Thánh Tẩy:
Bí
Tích Thánh Tẩy là nền tảng của toàn bộ đời sống Ki-tô hữu, là
cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi Bí Tích khác. Nhờ Bí
Tích Thánh Tẩy, chúng ta:
(a)
được giải thoát khỏi tội lỗi:
Nhờ Bí Tích Thánh Tẩy, mọi tội đều được tha: nguyên tội, mọi tội
riêng cũng như hình phạt do tội.
(b)
được tái sinh làm con cái Thiên Chúa, trở thành chi thể của Đức
Ki-tô:
Bí Tích Thánh Tẩy còn làm cho người tân tòng trở nên “một
thụ tạo mới” (2 Cr 5,17), thành nghĩa tử của Thiên
Chúa (x. Gl 4,5-7), được thông phần bản tính Thiên Chúa (2 Pr
1,4), thành chi thể Đức Ki-tô (x. 1 Cr 6,15; 12,27), thành đền
thờ Chúa Thánh Thần (x. 1 Cr 6,19).
Chúa
Ba Ngôi Chí Thánh ban cho người được rửa tội ơn thánh hóa, ơn
công chính hóa để người đó:
- Có
khả năng tin tưởng, trông cậy và yêu mến Người nhờ các nhân
đức đối thần;
- Có
thể sống và hành động dưới tác động của Chúa Thánh Thần nhờ
các hồng ân;
- Ngày
càng hoàn thiện hơn nhờ các nhân đức luân lý.
(c)
được tháp nhập vào Hội Thánh và tham dự vào sứ mạng của Hội Thánh:
Bí Tích Thánh Tẩy làm cho chúng ta thành chi thể trong Thân Thể
Chúa Ki-tô, tháp nhập chúng ta vào Hội Thánh. Những người đã được
rửa tội trở nên “những viên đá sống
động.... để xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần, xây dựng hàng
tư tế thánh. Nhờ Bí Tích Thánh Tẩy" (4).
2.
Gia đình Công giáo sống Bí Tích Phép Rửa và thể hiện tư cách là
Kitô hữu
2.1
Bằng cách sống mật thiết với Thiên Chúa và xa lánh tội lỗi:
Trong
nghi lễ Thánh Tẩy, trước khi người sắp được rửa tội được linh
mục hoặc phó tế hay giáo dân dội nước thì chính người ấy (trong
trường là người lớn) hay cha/mẹ đỡ đầu của người ấy (trong trường
hợp là trẻ nhỏ) long trọng và công khai tuyên bố từ bỏ ma quỉ
và những mưu chước, quyến rũ của Xa-tan! Việc từ bỏ Xa-tan không
chỉ làm một lần là đủ mà là việc phải được lặp lại mỗi ngày trong
đời sống cá nhân cũng như gia đình Công giáo. Nói cách tích cực
thì một khi đã được “rửa sạch” bằng Nước và Thánh Thần rồi, thì
người và gia đình Ki-tô hữu phải sống mật thiết với Thiên Chúa
và xa lánh tội lỗi kể cả các dịp tội. Có nghĩa là phải luôn vươn
tới đời sống thánh thiện, trọn lành. Quả là một cuộc chiến gian
khổ và trường kỳ. Nhưng có thể, chúng ta mới có thể giữ trắng
được tấm áo trắng chúng ta mặc ngày rửa tội.
Tôi
hy vọng rằng mình không quá bi quan mà nói rằng: nhìn
vào cách sống của rất nhiều người và gia đình Công giáo Việt Nam
ngày nay, người ta phải tự hỏi: phải chăng điều mà những người
và gia đình Công giáo này đang nỗ lực hết sức mình để có được
là sự trọn lành thánh thiện hay chỉ công danh sự nghiệp và giầu
sang vật chất của đời này?
2.2
Bằng sống đời con thảo với Thiên Chúa:
Giữ
mình sạch tội dù khó khăn vất vả đến đâu chăng nữa cũng mới chỉ
là một mặt của đời sống Ki-tô hữu mà thôi. Còn một mặt khác, tích
cực hơn nhiều là sau khi được “rửa sạch” chúng ta có điều kiện
để được tự do sống tình con thảo với Thiên Chúa. Và để sống tình
con thảo với Thiên Chúa chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận bất cứ
điều gì, thậm chí cả mạng sống mình vì Thiên Chúa là Đấng rất
đòi hỏi và Tình Yêu chúng ta dành cho Người phải là tình yêu quyết
liệt và triệt để.
Thú
thật khi xem lại phim Cuộc Khổ
Nạn của Chúa Kitô của đạo diễn Mel Gibson
vào tối hôm kia trong buổi Tĩnh Tâm Mùa Chay của Học Viện Mục
Vụ Sài gòn tôi cảm nhận sâu sắc thêm một lần nữa, Đức Giê-su Ki-tô
Chúa chúng ta đã trả giá đắt như thế nào khi Người thực hiện lời:
“Lạy Cha, dạ con đây, on xin đến để
thực thi Ý Cha!”
Thế
nhưng nhìn vào đời sống các gia đình Ki-tô hữu Việt Nam, chúng
ta có thấy nổi bật sự hy sinh, từ bỏ, tinh thần siêu thoát của
cải vật chất, địa vị, danh vọng chóng qua không? Chúng ta cần
học với Chúa Giê-su để biết thế nào là sống “thân phận” và cũng
là “vinh dự” của những người được làm con cái Thiên Chúa.
2.3
Bằng cách tích cực hội nhập vào đời sống và sứ mệnh của Giáo hội
địa phương:
Nếu
nhờ Phép Rửa mà mọi người Ki-tô hữu trở thành chi thể của Thân
Mình mầu nhiệm Chúa Ki-tô là Giáo hội thì có nghĩa là mọi người
Công giáo phải tích cực hội nhập vào đời sống và sứ mệnh của Giáo
hội địa phương. Đời sống của Giáo hội là đời sống Tin Cậy Mến;
là đời sống cầu nguyện phụng thờ đối với Thiên Chúa và yêu thương
bác ái đối với tha nhân; là cung cách sống Tám Mối Phúc Thật.
Còn sứ mệnh của Giáo hội là loan báo Tin Mừng; là làm chứng cho
Tình Yêu Cứu độ của Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục
Sinh qua con đường Thập Giá; là thánh hóa và biến đổi các thực
tại trần thế thành Vương Quốc của Thiên Chúa.
Thế
nhưng người ta vẫn có cảm tưởng rằng số người thụ động, thờ ơ
với đời sống Giáo hội địa phương vẫn là đại đa số tín hữu trong
khi chỉ có một số rất ít chủ động và tích cực! Cũng thế chỉ có
một nhúm người tham gia vào công việc truyền giáo của Giáo hội
trong khi đại đa số giáo dân vẫn coi việc tông đồ là việc của
ông cha bà phước. Mà phần đông các ông cha bà phước lại sống đóng
kín trong nhà xứ, nhà Dòng! Cứ nhìn vào con số những người Việt
Nam gia nhập Giáo hội mỗi năm thì đủ thấy công cuộc Truyền Giáo
của Giáo hội Việt Nam ta còn yếu kém như thế nào.
KẾT
LUẬN
Không
hiểu do đâu mà người Công giáo Việt Nam mắc phải hai sai lầm nghiêm
trọng trong cách sống và giáo dục đức tin của mình.
Sai
lầm thứ nhất là người/ gia đình Công giáo Việt Nam chỉ học giáo
lý để lãnh nhận các Bí Tích:
Sắp xưng tội rước lễ lần đầu thì học giáo lý xưng tội rước lễ
lần đầu; sắp lãnh nhận Bí tích Thêm Sức thì học giáo lý Thêm Sức;
sắp làm Phép Cưới thì học giáo lý Hôn Nhân. Còn
ngoài mục đích chuẩn bị lãnh nhận Bí Tích, người giáo dân Việt
Nam không coi trọng việc học giáo lý để hiểu biết tường tận và
sâu sắc hơn và để sống ý thức và trưởng thành hơn đời sống đức
tin của mình.
Sai
lầm thứ hai là người / gia đình Công giáo Việt Nam không quan
tâm đến những Bí Tích đã “chịu” từ lâu, trong quá
khứ, thậm chí trong một quá khứ khá xa, như Bí Tích Thánh Tẩy,
Thêm Sức và cả Bí tích Hôn Phối nữa. Hai Bí Tích trước thường
là chúng ta chịu khi còn bé, thậm chí còn rất bé, mới chỉ là đứa
trẻ sơ sinh…. Và trong cuộc sống hiện
tại của người trưởng thành, chúng ta không thấy những Bí Tích
ấy có vai trò vị trí nào cả…. Ơn Thánh như hạt mầm
vẫn nằm yên đó mà không bao giờ có cơ hội phát triển thành cây,
thành trái! Buồn thay! Tiếc thay!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Chúa nhật I Mùa Chay Năm B 05.03.2006
Chú
thích:
(1)
GLHTCG số 1210.
(2)
x. ĐGH Phao-lô VI, Tông hiến “Tham dự
đời sống thần linh”; x. OICA tiền chú 1-2; GLHT CG
số 1212.
(3)
x. GLHTCG số 1257.
(4)
x. CĐ Flo-ren-ti-nô, DS 1314; CIC khoản 204,1; 849; CCEO khoản
675,1; GLHTCG số 1213, 1263, 1265,1267,1268.
|