GIA ĐÌNH SỐNG ĐẠO
là
quý trọng Bí tích Truyền chức và cổ võ
ơn gọi linh mục trong cộng đoàn giáo hội
VÀO
ĐỀ
Lần
lượt trong các bài trước, chúng ta đã tìm hiểu về Giáo Lý của
Hội Thánh Công giáo về các Bí Tích Thánh Tẩy, Thêm Sức, Thánh
Thể, Hôn Phối, Thông Hối và Giao Hòa, Xức Dầu Bệnh Nhân và về
cách gia đình công giáo sống các Bí Tích ấy. Đó là 6 trong 7 Bí
Tích mà Chúa Giê-su đã lập để ban ơn cho người tín hữu và giúp
chúng ta có đời sống thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa và bảo đảm
hạnh phúc trường sinh bất tử ở đời sau. Còn một Bí Tích nữa -Bí
Tích thứ 7- mà chúng ta chưa đề cập đến. Đó là Bí Tích Truyền
Chức hay Truyền Chức Thánh. Thông thường một người giáo dân đã
lãnh nhận Bí Tích Hôn Phối thì không thể lãnh nhận Bí Tích Truyền
Chức và ngược lại một người giáo dân đã lãnh nhận Bí Tích Truyền
Chức thì cũng không thể lãnh nhận Bí Tích Hôn Phối, tuy hai Bí
Tích này đều là Bí Tích Phục Vụ Cộng đoàn.
Trong
bài này, chúng ta sẽ tìm hiểu về Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo
về Bí Tích Truyền Chức và về thái độ người / gia đình công giáo
phải có đối với Bí Tích Truyền Chức cũng như đối với những người
đã lãnh nhận Bí Tích này.
TRÌNH
BÀY
1.
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo về Bí Tích Truyền Chức
1.1
Bí Tích Truyền Chức là một trong hai Bí Tích Xây Dựng Cộng Đoàn
Ki-tô giáo:
Hai
Bí Tích Truyền Chức và Hôn Phối được lập ra nhằm phần rỗi tha
nhân Tuy nhiên, khi phục vụ tha nhân, hai Bí Tích này cũng góp
phần cứu rỗi bản thân. Hai Bí Tích này vừa trao ban một sứ mệnh
đặc biệt trong Hội Thánh, vừa xây dựng Cộng Đoàn Dân Thiên Chúa
(1).
Những
người lãnh nhận Bí Tích Truyền Chức được thánh hiến để nhân danh
Đức Ki-tô chăn đắt đàn chiên của Chúa là Hội Thánh bằng “Lời và
ân sủng của Người” (2).
1.2
Ý nghĩa của chức Tư Tế:
Bí
Tích Truyền Chức là Bí Tích làm nên các tư tế. Chức tư tế được
thiết lập để phục vụ. Nhiệm vụ Chúa trao cho các mục tử của dân
Chúa thực hiện là một việc phục vụ. Nói cách khác chức tư tế được
thiết lập để mưu ích cho con người và cộng đoàn Hội Thánh… Và
những người có chức thánh và được giao quyền lãnh đạo cộng đoàn
Giáo hội phải thi hành quyền bính theo gương Đức Ki-tô, Đầng vì
yêu thương đã trở nên rốt hết và đầy tớ của mọi người (3).
1.3
Tư Tế thừa tác và tư tế cộng đồng:
Toàn
thể Hội Thánh là một dân tư tế. Nhờ Bí Tích Thánh Tẩy mọi Ki-tô
hữu tham dự vào chức tư tế của Chúa Ki-tô. Sự tham dự này được
gọi là chức “tư tế cộng đồng”. Trên nền tảng của chức tư tế cộng
đồng và để phục vụ chức tư tế này, còn có sự tham dự khác vào
sứ mạng của Chúa Ki-tô, đó là chức tư tế thừa tác được trao ban
qua Bí Tích Truyền Chức (4).
Tự
bản chất, chức tư tế thừa tác khác với chức tư tế cộng đồng, vì
ban cho người lãnh nhận quyền thánh chức để phục vụ các tín hữu.
Các thừa tác viên có chức thánh phục vụ Dân Chúa qua việc giảng
dạy, cử hành Phụng Vụ và hướng dẫn mục vụ (5).
1.4
Hiệu quả hay ơn riêng của Bí Tích Truyền Chức:
a)
Ấn tín thiêng liêng và vĩnh viễn:
Cũng
như Bí Tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, Bí Tích Truyền Chức cũng in
một ấn tín thiêng liêng vĩnh viễn nơi người lãnh nhận (thụ nhân).
Nhờ ân sủng đặc biệt của Chúa Thánh Thần, Bí Tích này làm cho
người lãnh nhận nên giống Chúa Ki-tô để trở thành khí cụ phục
vụ Hội Thánh Người. Nhưng việc nên giống Chúa Ki-tô không phải
“au-tô-ma-tích” mà thành; trái lại đó là một quá trình cam go
và lâu dài của các đương sự để được nên giống Người. Nhờ chức
thánh, những người này có thể thi hành chức vụ của Đức Ki-tô là
Đầu Hội Thánh trong ba nhiệm vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế (6).
b)
Ơn Chúa Thánh Thần:
Ơn
riêng Chúa Thánh Thần được ban trong Bí Tích Truyền Chức làm cho
những người lãnh nhận vừa nên giống, vừa nên thừa tác viên của
Chúa Ki-tô là Thuợng Tế, Thầy Dậy và Mục Tử (7).
1.5
Ba cấp bậc của Bí Tích Truyền Chức:
“Thừa
tác vụ do Thiên Chúa thiết lập trong Hội Thánh được thi hành bởi
những người có chức vụ khác nhau mà từ xưa được gọi là giám mục,
linh mục và phó tế”
(8). Giám mục và linh mục là hai cấp bậc tham dự như thừa tác
viên vào chức tư tế của Chúa Ki-tô và được gọi chung là tư tế.
Các phó tế không được gọi là tư tế và ở cấp bậc thấp nhất của
Bí Tích Truyền Chức. Các phó tế có nhiệm vụ giúp đỡ và phục vụ
các giám mục và linh mục trong công việc phục vụ cộng đoàn Dân
Chúa (9).
2.
Gia đình Công giáo quý trọng Bí Tích Truyền Chức và cổ võ Ơn gọi
Linh Mục trong Cộng đoàn Giáo hội
Vì
ý nghĩa cao quý và sự cần thiết của Bí Tích Truyền Chức nói chung
và của những người có chức thánh nói riêng, trong đời sống đức
tin của cộng đoàn Giáo Hội, nên nguời / gia đình công giáo phải
có thái độ phù hợp. Cụ thể là có sự hiểu biết chính xác về Bí
Tích Truyền Chức cũng như về vai trò và chức năng của những người
có chức thánh và có thái độ và hành động phù hợp với Giáo Lý của
Giáo Hội.
2.1
Hiểu đúng ý nghĩa của Bí Tích Truyền Chức và vai trò, chức năng
của những người có chức thánh trong Cộng đoàn Dân Chúa:
Có
nhiều người lầm tưởng rằng Bí Tích Truyền Chức không có liên quan
gì với mình mà chỉ có liên quan với những người có chức thánh
hay những người muốn lãnh nhận chức thánh, nên thờ ơ không quan
tâm tìm hiểu. Thật ra Bí Tích Truyền Chức có liên quan rất mật
thiết đến đời sống đức tin của mỗi người và của cộng đoàn đức
tin của chúng ta. Nói cách cụ thể: Những người có chức thành là
một phần không thể thiếu trong sự hiện hữu và hoạt động của cộng
đoàn Dân Chúa. Vì thế mà sự học hỏi và tìm hiểu ý nghĩa của Bí
Tích Truyền Chức cũng như về vai trò, chức năng của những người
có chức thành trong Cộng đoàn Dân Chúa là hết sức cần thiết.
2.2
Xây dựng mối tương quan trưởng thành với nhũng người có chúc thánh:
Hiểu
là một chuyện và thể hiện sự hiểu biết ấy lại là một chuyện khác.
Trong đời sống Giáo hội thường có hai thái độ cực đoan hoàn toàn
trái nghịch nhau: một là “thần thánh hóa” những người có chức
thánh tức đề cao những người ấy một cách thái quá; hai là coi
thường những người ấy. Thái độ trước thường có trong các Giáo
hội truyền thống, thủ cựu và giáo dân ít học. Thái độ sau thường
xuất hiện trong các Giáo hội cấp tiến hoặc khô đạo. Cả hai thái
độ ấy đều không đúng. Tốt nhất chúng ta hãy xây dựng mối tương
quan trưởng thành với hàng giáo phẩm và giáo sĩ như Công đồng
Vatican đã dậy ở số 37 của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Ánh Sáng
muôn Dân). Văn kiện trên của Công Đồng xác định rõ tương quan
của cả hai chiều: giáo dân với giáo phẩm và giáo phẩm với giáo
dân.
*
Với hàng giáo phẩm, giáo dân có:
- Quyền
được lãnh nhận một cách dồi dào những ơn trợ lực từ kho tàng
thiêng liêng của Giáo hội, nhất là từ Lời Chúa và Bí Tích;
- Quyền
bày tỏ những nhu cầu và ước vọng của mình, trong tinh thần tự
do, tin tưởng phù hợp với tư cách của những con cái Thiên Chúa
và anh em Đức Ki-tô;
- Khả
năng và nghĩa vụ
(đôi khi) nói lên cảm nghĩ của mình về những những việc liên
quan tới lợi ích của Giáo hội trong tich thần chân thành, can
đảm, khôn ngoan, kính trọng và bác ái;
- Bổn
phận
tuân theo những chỉ thị mà hàng Giáo phẩm quyết định với tư
cách là Thày Dạy và Lãnh Đạo Giáo hội.
*
Với giáo dân, hàng giáo phẩm:
- Phải
nhìn
nhận và nâng cao
phẩm giá và trách nhiệm của giáo dân trong Giáo hội;
- Nên chấp
nhận những ý kiến khôn ngoan của giáo dân, tin
cẩn giao cho họ những công tác để họ phục vụ Giáo hội;
- Nên khuyến
khích giáo dân lãnh lấy phần trách nhiệm của
họ và tôn trọng sự tự do chính đáng của mọi người trong lãnh
vực trần thế (10).
2.3
Cầu nguyện cho các giám mục, linh mục và phó tế:
Có
thể nói đời sống Đạo và sự phát triển của Giáo hội tùy thuộc rất
nhiều vào tinh thần hăng say, lòng nhiệt thành và sự chịu khó
làm việc cũng như đời sống đạo đức, thánh thiện và hiểu biết của
giám mục giáo phận, của các linh mục giáo xứ. Nên ngoài những
biện pháp mà Công đồng Vatican II đã đưa ra và được nêu ở trên,
thì người và gia đình Công giáo còn có thể thể hiện tấm lòng của
mình với Giáo hội nói chung, với những người có chức thánh có
liên hệ với mình nói riêng, là cầu nguyện liên lỉ cho những người
ấy, để với ơn Chúa trợ giúp, họ có thể chu toàn trọng trách mà
Thiên Chúa đã giao phó cho họ.
Nhiều
khi giáo dân dễ quên rằng những người có chức thánh cũng là những
con người bình thường với những xu hướng tự nhiên dễ hướng chiều
về giầu sang, chức quyền và lạc thú. Hơn nữa những người ấy thường
bị cám dỗ nhiều, dữ dội và tinh vi hơn, nên rất cần ơn Chúa trợ
giúp để chống lại cám dỗ và chiến thắng ma quỷ, thế gian và xác
thịt là ba kẻ thủ truyền kiếp của đời sống tâm linh. Do đó việc
cầu nguyện cho những người có chức thánh ấy là hết sức cần thiết.
2.4
Tích cực cổ võ và hỗ trợ cách cụ thể ơn gọi linh mục trong Giáo
hội:
Yêu
mến Chúa Giê-su và Giáo hội của Người, người giáo dân và gia đình
Công giáo không thể không tích cực cổ võ và hỗ trợ cách cụ thể
ơn gọi linh mục trong Giáo hội. Ngày nay nhiều Giáo hội Công giáo
trên thế giới đang phải đối phó với tình trạng số người tình nguyện
đi tu làm linh mục giảm bớt một cách trầm trọng hoặc không còn
nữa. Chắc chắn có nhiều lý do mà cho đến nay các Giáo hội ấy vẫn
phải tìm hiểu, nghiên cứu và đề ra biện pháp thích hợp. Chị họ
tôi có hai thằng con trai rất sốt sáng và tích cực trong Phong
Trào Thiều Nhi Thánh Thể ở Garden Grove (thuộc tiểu bang California,
Hoa kỳ). Nhưng khi chị ấy gợi ý với hai đứa con là hãy chọn con
đường linh mục, thì thằng con út trả lời liền: “Con
không thích làm linh mục, vì linh mục có thu nhập thấp lắm!"
Tại
Việt Nam thì ơn gọi linh mục còn nhiều. Nhưng không phải là không
có vấn đề. Ví dụ: ứng sinh chủng viện có thật tình muốn dâng mình
phục vụ hay chỉ là một cách để thoát khỏi hoàn cảnh hiện tại và
thăng tiến bản thân về mặt kiến thức, địa vị xã hội? Các linh
mục trẻ ra trường ngày hôm nay từ 6 Đại Chủng Viện Hà Nội, Vinh,
Huế, Nha Trang, Sài Gòn, Cần Thơ… đáp ứng như thế nào các nhu
cầu mục vụ của giáo dân sống trong một xã hội đang thay đổi rất
nhanh và rất sâu sắc? Đó có thể là hai vấn đề quan trọng nhất
liên quan tới ơn gọi linh mục trong Giáo hội Việt Nam hiện nay.
Vì thế để cổ võ và hỗ trợ có hiệu quả ơn gọi linh mục, người /
gia đình Công giáo cũng phải suy nghĩ tìm tòi và chọn lựa cho
chính xác, để bảo toàn tính trong sáng và thánh thiện của công
việc đáng khích lệ này (11).
KẾT
LUẬN
Cuối
tháng 4 vừa qua, tại Bangalore (Ân Độ) Hội nghị Thường Niên của
Hiệp Hội các nhà thần học Ấn Độ đã lên tiếng kêu gọi Giáo Hội
(Ấn Độ) hãy thực hiện những đường hướng canh tân và trở về nguồn
của Công đồng Vatican II, nhất là trong lãnh vực liên quan tới
giáo dân. Cụ thể Hội nghị các nhà thần học Ấn Độ trên mong muốn:
- Người
giáo dân có vai trò lớn hơn trong Giáo hội;
- Các
linh mục nên nhường lại cho giáo dân những lãnh vực và công
việc không thuộc chức thánh của mình .
Sở
dĩ các nhà thần học Ấn Độ có đề nghị như thế là vì các linh mục
và giáo dân Ấn Độ chưa hiểu và làm đúng Giáo lý của Giáo hội về
Bí Tích Truyền Chức. Còn các linh mục và giáo dân Việt Nam ở hải
ngoại cũng như ở trong nước có hiểu và làm đúng Giáo lý của Giáo
hội về Bí Tích Truyền Chức không?
Giêrônimô
Nguyễn Văn Nội
Sàigòn ngày 09.05.2006
Chú
thích:
(1)
Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 1534.
(2)
nt, số 1535, x. Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 11.
(3)
GLHTCG, số 1591.
(4)
nt, số 1592.
(5)
nt, số 1551, x. Mc 10,43-45; 1 Pr 5,3.
(6)
x. GLHTCG, số 1582 và 1581.
(7)
x. GLHTCG, số 1585.
(8)
x. Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 28.
(9)
x. GLHTCG, số 1554.
(10)
‘Ánh sáng muôn dân’, số 37; Đề nghị đọc thêm ‘Sắc lệnh về Chức
vụ và Đời sống các linh mục’, số 9.
(11)
Phải chăng cần phải cảnh giác với xu hướng tìm ông cố, bà cố,
bác cố, chú cố, cô cố, thậm chí chị cố của một số đại chủng sinh?
Tương tự như thế, chúng ta có thể đặt câu hỏi: phải chăng một
ít giáo dân nhận giúp đỡ tiền bạc cho các ứng viên linh mục cũng
chỉ nhắm tiếng tăm, danh vọng phần đời?
|