|
|
CUỘC
ĐỜI GIAXINTA MARTO CÔ BÉ CHĂN CHIÊN
Xin hân hạnh
giới thiệu cùng quý vị Cuộc đời
Giaxinta Marto, cô bé chăn chiên được
trông thấy Đức Mẹ tại Fatima,
vào năm 1917. Cùng được diễm
phúc trông thấy Đức Mẹ, có Phanxicô
(1908-1919), anh ruột của Giaxinta, và Luxia
Santos (22.3.1907), chị họ của Giaxinta.
Chị Luxia là nữ tu dòng Kín Cát-Minh, bên Bồ
Đào Nha. Trong khi đó, bé Giaxinta Marto sinh
ngày 10.3.1910 và qua đời tại Lisboa ngày
20.2.1920.
Ngày 12.9.1935, hài cốt bé Giaxinta được
di chuyển từ phần mộ gia đình
ở Baron de Alvaiazere đến Vila Nova de
Ourem, nghĩa trang Fatima. Nhân dịp này, người
ta mở nắp quan tài và trông thấy khuôn
mặt bé Giaxinta vẫn còn nguyên vẹn. Đức
cha José Alves Correia da Silva, Giám mục Fatima,
gửi cho chị Luxia đang tu trong Nhà Kín,
một tấm hình chụp khuôn mặt bé Giaxinta
vào ngày bốc mộ. Nhận được
hình, chị Luxia viết thư cám ơn đức
cha và nói với đức cha về các nhân
đức của cô em họ. Thế là đức
cha Silva liền truyền cho chị Luxia phải
viết tất cả những gì chị biết,
liên quan đến cuộc đời bé Giaxinta.
Đây là lý do xuất hiện cuốn "Hồi
Ký" thứ nhất của chị Luxia
về cuộc đời bé Giaxinta. Chị
Luxia viết:
Trọng kính Đức Cha,
Sau khi khẩn cầu sự che chở của
Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu và Mẹ Maria, cũng
như khẩn cầu ánh sáng và ân sủng
trước Nhà Tạm, - hầu chỉ viết
những gì làm vinh danh Chúa Giêsu và Đức
Mẹ - con liền bắt tay vào việc,
mặc dầu con rất lấy làm ái ngại.
Thật vậy, con không thể nói đến
Giaxinta mà không thể, hoặc trực tiếp
hoặc gián tiếp, không nói đến con
người hèn mọn của con. Tuy nhiên,
con sẵn sàng tuân phục ý muốn của
Đức cha, mà đối với con, chính
là thánh ý Thiên Chúa. Vì thế, trước khi
bắt đầu viết, con xin Rất Thánh
Trái Tim Chúa Giêsu và Mẹ Maria chúc lành cho việc
con làm và tiếp nhận cử chỉ vâng
lời của con, mà ban ơn ăn năn
trở lại cho các người tội lỗi,
những tội nhân mà khi còn sống, bé Giaxinta
đã làm không biết bao nhiêu việc hy sinh
để cầu cho họ.
Chúa nhân lành đã cho con được ơn
làm người tâm giao của bé Giaxinta và con
vẫn giữ một kỷ niệm êm đẹp
về bé, cũng như lòng ngưỡng mộ
và kính trọng sâu xa đối với bé,
xét vì con biết rõ sự thánh thiện của
bé. Con xin kể hết những gì con nhớ
về cuộc đời bé và những gì
Trái Tim Rất Thánh Chúa Giêsu và Mẹ Maria muốn
con viết về bé.
Hỡi em là người đã bay vèo qua trái
đất, Hỡi Giaxinta dấu ái, em đã
yêu mến Chúa Giêsu trong một nỗi đau
vô cùng. Xin đừng quên lời cầu ngày
xưa chị xin em: Hãy làm người bạn
của chị bên toà Đức Trinh Nữ
Maria! Ôi cánh huệ trắng tinh, hỡi hạt
ngọc sáng ngời, Trên Thiên Quốc nơi
em đang sống vinh thắng, Hỡi Thiên
Thần Séraphine tình ái, cùng với anh của
em, Xin em cầu cho chị dưới chân
Chúa.
Kính thưa Đức cha,
Trước biến cố năm 1917, ngoài
mối liên hệ họ hàng nối kết
chúng con lại với nhau, không có cảm tình
đặc biệt nào khiến con thích chơi
với hai anh em Giaxinta và Phanxicô hơn là chơi
với các trẻ khác. Trái lại, đôi khi
con không thích chơi với Giaxinta, vì cô bé có
tính dễ giận dễ hờn. Đụng
một chút là bé hờn, đứng im lầm
lì một "đống" trong xó. Để
kêu được bé ra chơi lại, thì
dầu có dỗ ngon dỗ ngọt cách nào
cũng không có kết quả. Chỉ có cách
là phải để bé tự ý chọn trò
chơi và chọn những người ở
cùng phe với bé.
Tuy nhiên, lòng bé rất tốt và Thiên Chúa nhân
lành đã ban cho bé đức tính dịu hiền
và ưu ái, khiến bé thật dễ thương,
làm ai cũng quý mến bé. Con không hiểu
tại sao hai anh em Phanxicô và Giaxinta rất
quyến luyến con và thường rủ
con chơi chung với hai em. Nhưng thường
thì con không thoả mãn được ước
nguyện của hai em, vì con phải giữ
trẻ cho các gia đình hàng xóm đi làm việc
ngoài đồng. Cứ sau bữa ăn trưa,
mẹ con thường dạy giáo lý cho anh
chị em chúng con, đặc biệt vào thời
kỳ gần Mùa Chay. Mẹ con nói: "Mẹ
không muốn bị xấu hổ, khi Cha Sở
khảo hạch giáo lý các con, vào dịp lễ
Phục Sinh".
Thế là tất cả các trẻ em có mặt
trong nhà con đều tham dự buổi dạy
giáo lý của mẹ con. Bé Giaxinta cũng tham
dự. Một hôm, một đứa trẻ
trong nhóm mách với mẹ con là một bé khác
đã nói lời "tục tĩu". Mẹ
con liền nghiêm khắc la rầy đứa
trẻ đã "nói tục" và dạy
bé không nên nói những lời xấu xa như
thế, bởi vì, khi nói tục thì bé phạm
tội và Chúa Giêsu Hài Nhi không bÄng lòng, rồi
Chúa cho xuống hoả ngục những ai
phạm tội mà không xưng tội. Bé Giaxinta
không bao giờ quên bài học này. Lần sau
đó, khi gặp lại các trẻ em quy tụ
nơi nhà con, bé Giaxinta nói với con: "Mẹ
chị có để chị đến nhà
em ngày hôm nay không?"
- "Không".
- "Vậy thì em ra sân nhà em với Phanxicô".
- "Nhưng tại sao em không ở lại
đây?"
- "Mẹ em không muốn cho chúng em ở
đây khi có các trẻ này. Mẹ bảo chúng
em ra chơi ngoài sân của nhà em. Mẹ không
muốn chúng em học biết những điều
xấu. Đó là tội lỗi và là những
điều mà Chúa Hài Nhi Giêsu không thích".
Rồi ghé sát vào tai con, bé nói thầm:
- "Nếu mẹ chị cho phép, chị
có bÄng lòng đến chơi nhà em không?"
- "Có".
- "Vậy chị đến xin phép mẹ
đi". Nói xong, bé dắt tay anh bé và cả
hai trở về nhà bé.
Một trong những trò chơi mà bé Giaxinta
ưa thích là trò chơi "cầm đồ".
Hẳn đức cha biết rõ là trẻ
nào thắng trong trò chơi này, thì có quyền
sai trẻ bị thua làm bất cứ điều
gì mà nó vừa thoáng nghĩ ra trong đầu.
Giaxinta thường thích sai trẻ bị
thua chạy đuổi theo các con bướm
và bắt mang về cho bé một con. Lần
khác thì bé sai đi hái cho bé một cánh hoa theo
ý thích của bé.
Một ngày, chúng con chơi trò "cầm
đồ" này nơi nhà con. Lần đó
con thắng và đến lượt con có
quyền sai bé Giaxinta làm một điều.
Anh con đang ngồi viết nơi bàn, con
liền ra lệnh cho Giaxinta đến ôm
hôn anh con. Nhưng bé nói với con:
- "Không! Đừng sai làm điều đó.
Chị truyền một điều khác đi.
Sao chị không truyền em đến ôm hôn
Chúa đang ở kia kìa!". Quả thật,
có tượng Chúa Chịu Nạn treo trên
tường. Con liền nói:
- "Được rồi. Em leo lên ghế,
tháo tượng Chúa Chịu Nạn, mang đến
đây, rồi quỳ gối xuống, em
hôn Chúa ba cái, một cho Phanxicô, một cho chị
và một cho em". Giaxinta sung sướng
trả lời:
- "Đối với Chúa, em sẽ hôn Chúa
bao nhiêu cái chị muốn cũng được".
Nói xong, bé chạy đi lấy tượng
Chúa Chịu Nạn rồi hôn tượng
Chúa với trọn lòng yêu mến, khiến
con không bao giờ quên được kỷ
niệm này. Xong, Giaxinta chăm chú nhìn tượng
Chúa rồi hỏi con:
- "Sao Chúa lại bị đóng đinh
như thế này trên Thánh Giá?".
- "Bởi vì Chúa chịu chết cho chúng
ta".
- "Vậy chị kể cho em nghe chuyện
Chúa chịu đóng đinh đi!"
Mẹ con có thói quen, vào các buổi tối
canh thức, thường kể chuyện
cho chúng con nghe. Cha con và các chị lớn của
con thì kể chuyện thần tiên, chuyện
các nàng công chúa mang đầy vàng và chuyện
các nàng bồ câu trong hoàng cung. Trong khi mẹ
con thì kể chuyện Khổ Nạn của
Chúa Giêsu Kitô, chuyện thánh Gioan Tẩy Giả,
v.v... Do đó con biết rõ chuyện Chúa Chịu
Nạn. Bởi vì, chỉ cần nghe kể
chuyện một lần là con có thể kể
lại chuyện đó với đầy
đủ mọi chi tiết. Thế là, con
bắt đầu kể lại tỉ mỉ
cho hai bạn tí hon của con nghe chuyện
Chúa chúng ta. Khi chị con đi ngang chỗ
chúng con đang ngồi chơi, chị thấy
là chúng con đang cầm Thánh Giá Chúa trong tay.
Chị con liền lấy lại và dặn
con là không được lấy tượng
thánh mà chơi. Giaxinta liền đứng
lên, đến bên chị con và nói:
- "Chị Maria, đừng la chị Luxia.
Chính em lấy tượng Thánh Giá đó, nhưng
em sẽ không bao giờ lấy Thánh Giá nữa
đâu!"
Khi nghe con kể các nỗi đau khổ của
Chúa, bé Giaxinta hết sức cảm động
và khóc. Sau đó, bé thường nài nỉ
con kể lại nữa cho bé nghe chuyện
Chúa Chịu Khổ Nạn và bị Đóng
Đinh trên Thánh Giá. Cứ mỗi lần nghe
con kể chuyện Chúa thì bé lại khóc và
nói:
- "Tội nghiệp Chúa chưa! Em không
muốn phạm bất cứ tội nào.
Em không muốn Chúa phải đau khổ nhiều
hơn!"
Cứ mỗi khi chiều đến, bé Giaxinta
rất thích ra sân đập lúa gần nhà
để nhìn cảnh mặt trời lặn
và chiêm ngắm bầu trời đầy
sao. Giaxinta càng thích thú hơn vào những đêm
có ánh trăng soi chiếu. Chúng con thường
ra sức đếm số các vì sao mà chúng
con gọi là các ngọn đèn của các Thiên
Thần. Mặt Trăng là ngọn đèn
của Đức Bà và mặt trời là ngọn
đèn của Chúa chúng ta. Thỉnh thoảng
bé Giaxinta nói:
- "Em thích ngọn đèn của Đức
Bà hơn vì nó không đốt nóng cũng không
làm chói mắt như ngọn đèn của
Chúa chúng ta!" Nói thế vì có nhiều ngày
mùa hè, mặt trời toả nóng như thiêu
như đốt, mà bé Giaxinta lại có thân
hình mảnh khảnh, nên chịu nóng không được.
Hồi ấy, chị con là thành viên nhiệt
thành truyền bá lòng sùng kính Trái Tim Chúa Giêsu.
Vì thế, cứ mỗi khi có cuộc Rước
Lễ Trọng Thể, chị con đều
dẫn con theo để con cũng được
tham dự cuộc Rước Lễ này. Một
lần, cô con cũng dẫn Giaxinta đi tham
dự cuộc lễ. Cô bé rất thích nhìn
cảnh các "thiên thần tí hon" tung
hoa. Từ ngày đó, thỉnh thoảng bé
rời nơi chúng con đang chơi, đi
xa xa hái hoa bỏ đầy vạt áo. Rồi
bé đến gần và tung hoa vào người
con. Con liền hỏi:
- "Giaxinta, tại sao em lại làm thế?".
- "Em làm như các 'thiên thần tí hon'. Em
tung hoa!"
Vào những dịp lễ lớn hÄng năm,
- con nghĩ là dịp lễ trọng kính Mình
Máu Thánh Chúa Kitô - chị con cũng có thói quen
mặc áo cho một vài "thiên thần tí
hon", đi hai bên lộng rước có
Mặt Nhật Mình Thánh Chúa, và tung hoa. Thường
thì con được chọn đóng vai thiên
thần tung hoa. Một hôm, khi được
chị con gọi ra để mặc thử
áo, con liền nói cho Giaxinta nghe về ngày lễ
sắp đến và chuyện con sẽ tung
hoa cho Chúa Giêsu. Bé Giaxinta liền nài nỉ
con xin với chị con cho bé cũng được
tham dự vào cuộc lễ. Cả hai chúng
con cùng đến xin và chị con nhận
lời. Chị con mặc thử áo cho Giaxinta
và cùng lúc, chị con giải thích cho hai chúng
con biết, phải tung hoa như thế nào
cho Chúa Giêsu Hài Nhi. Giaxinta thắc mắc hỏi:
- "Nhưng chúng em có trông thấy Chúa không?"
- "Có. Chính Cha sở mang Chúa!"
Bé Giaxinta nhẩy lên vì vui sướng và cứ
luôn miệng hỏi con sắp đến
ngày lễ chưa. Sau cùng, thì ngày lễ cũng
đến và bé Giaxinta vui như điên. Người
ta cho chúng con đứng hai bên bàn thờ và
khi cuộc rước bắt đầu,
mỗi đứa chúng con - có mang giỏ hoa
- đi một bên lộng rước có Mặt
Nhật Mình Thánh Chúa. Cứ mỗi lần
đến nơi phải tung hoa theo lời
chị con dặn, con liền tung hoa cho Chúa
Giêsu. Nhưng dù con có ra hiệu cách mấy
đi nữa, bé Giaxinta cũng không hề
tung một cánh hoa nào cho Chúa Giêsu cả. Cô
bé chỉ chăm chú nhìn Cha Sở thôi chứ
không làm một cử động nào khác. Sau
cuộc rước, chị con gọi cả
hai chúng con ra khỏi nhà thờ và hỏi Giaxinta:
- "Sao em không chịu tung hoa cho Chúa Giêsu?"
- "Bởi vì em đâu có thấy Chúa!"
Rồi Giaxinta quay sang hỏi con:
- "Còn chị, chị có trông thấy Chúa
Giêsu Hài Nhi không?"
- "Không. Nhưng em không biết là mình không
trông thấy được Chúa Giêsu Hài Nhi
Thánh Thể sao? Chúa ẩn mình mà! Đó là Chúa
mà chúng ta rước lấy mỗi khi chúng
ta chịu lễ".
- "Vậy thì mỗi lần rước
lễ, chị nói chuyện với Chúa phải
không?"
- "Phải, chị nói chuyện với
Chúa".
- "Thế thì tại sao chị lại
không trông thấy Chúa?"
- "Vì Chúa ẩn mình mà!"
- "Em sẽ xin mẹ em cũng để
cho em rước lễ nữa".
- "Cha sở sẽ không cho em rước
lễ, bao lâu em chưa được 10 tuổi!"
- "Chị cũng chưa được
10 tuổi, vậy sao chị đã được
rước Chúa rồi?"
- "Bởi vì chị biết rõ giáo lý, còn
em, em chưa biết gì hết!"
Thế là hai bé em họ của con - Phanxicô
và Giaxinta - liền xin con dạy giáo lý cho chúng.
Từ đó con trở thành giáo lý viên của
hai em và hai em lắng nghe lời con với
lòng nhiệt thành hiếm có. Tuy nhiên, nếu
con biết trả lời mọi câu người
ta hỏi con, thì trái lại, khi phải dạy
lại cho người khác, con lại không
nhớ gì cả, đến nỗi, một
ngày, bé Giaxinta nói với con:
- "Chị dạy cái gì khác đi, mấy
cái kia chúng em biết rồi mà!" Con đành
thú nhận là con chỉ nhớ nhiều điều
khi có người hỏi thôi, và con nói thêm:
- "Em xin mẹ em để cho em đến
nhà thờ học giáo lý đi!"
Hai bé em họ con hết lòng ao ước
rước "Chúa Giêsu ẩn mình" - như
hai em vẫn gọi - nên đã xin mẹ đi
học giáo lý. Và cô con nhận lời. Nhưng
cô con không cho hai em đi học giáo lý thường
xuyên, vì cô con nói:
- "Nhà thờ quá xa mà các con còn nhỏ. Vả
lại, chắc chắn cha sở sẽ không
cho các con rước lễ trước khi
các con được 10 tuổi đâu!"
Giaxinta liên miên đặt câu hỏi con về
"Chúa Giêsu ẩn mình", và con nhớ một
ngày Giaxinta hỏi con:
- "Làm sao mà có nhiều người, cùng
một lúc, rước 'Chúa Giêsu ẩn mình'
được? Phải chăng là mỗi
người chỉ rước một miếng
nhỏ thôi?"
- "Không. Em không thấy là có nhiều Bánh
Thánh sao? Và trong mỗi Bánh Thánh đều
có một Chúa Giêsu Hài Nhi!"
Thì ra, con đã dại dột nói cho Giaxinta
nghe bao nhiêu là điều sai lầm! Tuy nhiên,
kính thưa Đức cha, con bước vào
tuổi mà mẹ con thường giao cho con
cái, việc chăn giữ đàn chiên. Chị
Carolina của con đã tròn 13 tuổi, nên chị
phải bắt đầu làm việc. Do đó
mẹ con giao đàn chiên cho con chăn giữ.
Con liền báo tin cho hai em họ Phanxicô và Giaxinta
biết, đồng thời nói với hai
em là từ nay con không đến chơi với
hai em nữa. Nhưng hai em không muốn xa
lìa con. Cả hai liền đến xin mẹ
cho phép đi chăn chiên với con. Nhưng
cô con từ chối. Chúng con đành chấp
nhận xa nhau. Nhưng rồi, gần như
ngày nào cũng thế, cứ mỗi khi chiều
đến, hai em ra đường đợi
con dẫn chiên về. Rồi chúng con cùng nhau
chạy về sân lúa, trong khi chờ đợi
Đức Bà và các Thiên Thần thắp đèn
của các ngài lên và đặt trên cửa
sổ, để soi sáng cho chúng con. Khi trời
không có trăng thì chúng con lại nói là đèn
của Đức Bà hết dầu rồi!
Hai em họ con không chịu được
việc xa lìa con, nên cứ nài nỉ mẹ
để cho đi chăn chiên. Cô con có lẽ
điếc tai vì cứ nghe mãi hai con xin hoài,
nên đành quyết định cho Phanxicô và
Giaxinta đi chăn đàn chiên của gia
đình, mặc dầu hai em vẫn còn nhỏ
tuổi. Lòng đầy hớn hở, hai
em đến báo cho con biết tin vui. Thế
là chúng con hẹn nhau nơi gặp gỡ
của hai đàn chiên vào mỗi buổi sáng,
rồi cùng quyết định chọn cánh
đồng cỏ cho chiên ăn vào ngày hôm
đó. Xong xuôi, chúng con cùng lùa chiên lên đường,
lòng sung sướng như đi trẩy hội.
Thưa Đức cha, con vừa kể xong
chuyện bé Giaxinta bắt đầu cuộc
đời chăn chiên như thế nào. Các
con chiên thường quấn quít bên chúng con,
vì chúng con cho chúng chính phần ăn của
chúng con. Do đó, một khi đã ra đến
đồng cỏ rồi, chúng con có thể
chơi đùa thoả thích, vì các con chiên không
bao giờ đi xa chúng con cả.
Bé Giaxinta rất thích nghe tiếng của bé
vọng lại từ các thung lũng. Vì thế,
một trong những thú tiêu khiển ưng
ý nhất của chúng con là ngồi trên một
mỏm đá cao, trên đỉnh một ngọn
đồi, rồi kêu to tiếng các tên gọi.
Tên có tiếng vang nhất là tên Maria. Thỉnh
thoảng Giaxinta đọc trọn kinh Kính
Mừng Maria. Bé chỉ đọc tiếp
câu sau khi nào tiếng vang của câu trước
chấm dứt.
Chúng con cũng rất thích hát và múa. Vừa
khi nghe các mục đồng khác thổi sáo
hay chơi nhạc, là chúng con tự động
múa ngay. Mặc dầu còn nhỏ tuổi,
bé Giaxinta đã có biệt tài múa nhảy.
Người nhà bảo chúng con phải lần
hạt sau bữa ăn. Nhưng hầu như
chúng con thấy là không bao giờ có đủ
giờ để chơi cả, vì thế
chúng con liền nghĩ ra một diệu kế
để lần hạt cho nhanh. Trên mỗi
hạt, chúng con chỉ đọc vỏn
vẹn câu: "Kính Mừng Maria. Kính Mừng
Maria. Kính Mừng Maria". Xong 10 hạt, chúng
con ngừng một chút xíu, rồi đọc:
"Lạy Cha chúng con..." Chỉ đọc
thế thôi, không thêm gì cả. Do đó, trong
nháy mắt, chúng con lần xong tràng chuỗi
Mân Côi 50 hạt!
Giaxinta rất thích ngồi xuống rồi
đặt các con cừu trắng trên đầu
gối và ôm hôn chúng. Chiều đến, bé
thường ẵm các cừu trên tay để
chúng không bị mệt. Một ngày, khi lùa
chiên về nhà, Giaxinta đi giữa đàn
chiên. Con hỏi tại sao thì em trả lời:
- "Bởi vì em muốn làm giống như
Chúa, trên bức ảnh mà người ta cho
em. Chúa đi giữa đàn chiên và trên tay Chúa
có một con chiên".
Trọng kính Đức cha,
Con đã kể cho Đức cha biết về
cuộc đời bé Giaxinta khi bước
vào tuổi thứ 7 như thế nào và bước
ra sao vào ngày 13-5-1917, một ngày đẹp
đẽ tươi vui như bao ngày khác
của mùa xuân.
Để cho chiên ăn cỏ, ngày hôm đó,
chúng con đã tình cờ - nếu quả thật
có sự tình cờ trong chương trình của
Chúa Quan Phòng - chọn đám đất thuộc
về cha mẹ con, nơi gọi là "Cova
da Iria". Chúng con đi chậm rãi hầu
cho chiên có thể gặm cỏ dọc đường,
và chúng con đến "Cova da Iria" vào
giữa trưa. Con xin miễn kể lại
cuộc Đức Mẹ hiện ra vào ngày
hôm đó, vì đức cha đã biết rồi.
Con chỉ xin nói những gì liên quan đến
cuộc sống ngây thơ của bé Giaxinta,
đến tình yêu bé dành cho Chúa Giêsu, cho việc
chịu đau khổ và làm nhiều hy sinh
để xin ơn cứu rỗi cho các tội
nhân.
Hẳn Đức cha biết việc Giaxinta
vì không thể cầm giữ niềm vui quá
lớn, đã lỗi điều chúng con quyết
định là không nói gì với ai về chuyện
Đức Mẹ hiện ra. Ngay chiều
hôm đó, khi chúng con tỏ ra tư lự,
đắm chìm vào nỗi kinh ngạc, thì thỉnh
thoảng, Giaxinta reo lên vì vui sướng:
- "Ô, Bà Đẹp!"
- "Chị cầm chắc là em sẽ nói
ra với một người nào đó!"
- "Không, em sẽ không nói gì hết. Chị
an tâm".
Sáng hôm sau, khi Phanxicô chạy báo tin cho con biết
là tối hôm qua, bé Giaxinta đã kể cho cả
nhà nghe chuyện Đức Mẹ hiện
ra, thì cô bé im lặng nghe lời trách mắng.
Con nói:
- "Thấy chưa! Chị biết mà!"
Nước mắt lưng tròng, cô bé nói với
con:
- "Có cái gì bên trong thôi thúc, khiến em không
thể giữ thinh lặng được!"
- "Bây giờ thì đừng khóc nữa.
Nhưng không được kể cho ai nghe
những điều Bà Đẹp nói với
chúng mình."
- "Nhưng em đã lỡ nói rồi".
- "Em nói gì?"
- "Em nói là Bà Đẹp hứa đem chúng
ta về Trời".
- "Em nói điều đó hả!"
- "Xin chị tha lỗi cho em. Em sẽ
không nói gì với ai nữa!"
Ngày hôm đó, khi đến nơi cho chiên
ăn cỏ, Giaxinta ngồi tư lự trên
một tảng đá. Con liền bảo em:
- "Giaxinta, tới đây chơi!"
- "Hôm nay em không muốn chơi".
- "Tại sao?"
- "Bởi vì em nghĩ đến điều
Bà Đẹp nói với chúng ta là phải lần
hạt Mân Côi và làm nhiều hy sinh để
xin cho các người tội lỗi được
ơn ăn năn trở lại. Từ nay,
khi lần hạt, chúng mình đọc trọn
từng kinh 'Kính Mừng Maria' và kinh 'Lạy
Cha chúng con'. Còn việc hy sinh, thì mình phải
làm gì?" Phanxicô đề nghị ngay cho
cả ba một việc hy sinh:
- "Cho chiên phần ăn của mình, như
thế chúng ta làm việc hy sinh là không ăn
gì hết!" Thế là, trong phút chốc,
trọn phần ăn của chúng con được
phân chia cho đàn chiên, và chúng con nhịn đói
suốt ngày. Ngay cả một đan sĩ
Chartreux nhiệm nhặt nhất, có lẽ
cũng không ăn chay bÄng chúng con!
Giaxinta ngồi yên trên tảng đá, suy nghĩ.
Em hỏi con:
- "Bà Đó nói với chúng ta là có nhiều
linh hồn rơi xuống hoả ngục.
Vậy hoả ngục là gì?" Con trả
lời - theo như mẹ con giải thích:
- "Hoả ngục là một hầm đầy
súc vật và là một lò lửa rất lớn.
Những ai phạm tội mà không xưng tội
thì bị rơi vào đó. Họ bị thiêu
đốt mãi mãi ở trong đó!"
- "Họ không ra khỏi đó bao giờ
sao? Ngay cả sau nhiều năm, sau rất
nhiều năm?"
- "Không. Hoả ngục không chấm dứt
bao giờ".
- "Và Thiên Đàng cũng không bao giờ
chấm dứt?"
- "Phải, ai đã lên Thiên Đàng rồi
thì không rời Thiên Đàng nữa. Em không
thấy là hoả ngục và thiên đàng là
hai nơi vĩnh cửu và không chấm dứt
bao giờ sao!"
Thế là lần đầu tiên, chúng con đã
suy niệm về hoả ngục và về
sự vĩnh cửu. Điều làm cho Giaxinta
kinh hoàng hơn cả là một cuộc sống
không bao giờ chấm dứt. Ngay cả
lúc đang chơi, thỉnh thoảng cô bé
lại hỏi:
- "Có thật là sau nhiều năm, sau rất
nhiều năm, hoả ngục vẫn không
chấm dứt?" Lần khác thì em lại
hỏi:
- "Nhưng những người bị
thiêu đốt trong hoả ngục, họ
không chết sao? Họ không biến thành tro
sao? Rồi nếu chúng ta cầu nguyện
thật nhiều cho người tội lỗi,
Chúa có giải thoát họ ra khỏi hoả
ngục không? Rồi nếu chúng ta cũng
làm nhiều việc hy sinh nữa? Tội
nghiệp họ quá! Mình có phải cầu
nguyện và làm nhiều việc hy sinh cho họ
không? Đức Bà quả thật nhân lành,
khi Đức Bà hứa đem chúng ta về
Trời!"
Giaxinta hết sức chú tâm làm việc hy sinh
để cầu cho tội nhân ăn năn
trở lại, nên bé không bỏ qua một
dịp nào. Trong xóm Fatima có mấy đứa
trẻ nghèo thuộc hai gia đình Moita, thường
xin ăn từ nhà này sang nhà khác. Một ngày,
khi lùa chiên đi ăn cỏ, chúng con gặp
các em. Khi thấy các em, Giaxinta nói với chúng
con: "Hãy cho phần ăn của mình cho
các em nghèo này, để cầu cho người
tội lỗi ăn năn trở lại".
Nói xong, bé chạy đưa cho các trẻ
nghèo, trọn phần ăn của chúng con.
Chiều
đến, em nói với con là em đói. Ở
đấy có vài cây sồi-xanh và quả còn
xanh, nhưng có thể ăn được.
Phanxicô liền trèo lên cây và hái đầy túi.
Nhưng Giaxinta lại cho ý kiến là nên ăn
các quả nơi các cây sồi khác vì chúng đắng
hơn, như thế mới có dịp làm
việc hy sinh. Từ đó Giaxinta có thói quen
ăn trái sồi đắng để hy
sinh. Một ngày, con nói với em:
- "Giaxinta,
không được ăn vì chúng quá đắng!"
- "Chính
vì chúng quá đắng mà em mới ăn, để
cầu cho các người tội lỗi được
ơn ăn năn trở lại!"
Chúng
con cũng quyết định là cứ mỗi
lần gặp các trẻ em nghèo của hai
gia đình Moita thì sẽ cho chúng trọn phần
ăn của chúng con. Các trẻ này, thật
sung sướng vì của ăn làm phúc của
chúng con, nên tìm hết cách để gặp
chúng con. Các em thường đợi chúng
con trên đường. Cứ mỗi lần
trông thấy chúng, bé Giaxinta lại hớn
hở chạy đến, trao hết cho chúng
trọn phần ăn của chúng con. Bé vui
vẻ cho đi, y như thể cô bé chẳng
cần ăn uống gì cả!
Giaxinta
không tỏ ra chán ngán trong việc hy sinh bao
giờ. Một ngày, người hàng xóm đề
nghị với mẹ con một cánh đồng
đầy cỏ cho chiên ăn, nhưng khá
xa. Mẹ con nhận lời. Trên đường
đi, chúng con lại gặp các trẻ em
nghèo thường lệ và Giaxinta lại vui
vẻ cho các em trọn phần ăn của
chúng con như vẫn làm. Trời thật
đẹp, nhưng mặt trời nóng như
lửa, và trong cánh đồng đó, xem ra
như mọi vật bị thiêu cháy. Cơn
khát dâng lên mà chúng con lại không có một
giọt nước để uống. Ban
đầu, chúng con vui vẻ dâng hy sinh này
cho Chúa để cầu cho các người
tội lỗi ăn năn trở lại.
Nhưng càng về trưa, cơn khát lại
càng dữ dội hơn. Con liền đề
nghị với Giaxinta và Phanxicô là con đi
vào xóm gần đó để xin nước
uống. Hai em đồng ý. Con liền đến
gõ cửa nhà một bà cụ già. Bà cụ
sau khi cho nước còn cho thêm một mẩu
bánh mì. Con nhận và hết lòng cám ơn bà.
Con liền đem ra chia cho hai em cùng ăn.
Ăn xong, con đưa gáo nước cho
Phanxicô uống trước. Nhưng em từ
chối không uống. Con hỏi tại sao
thì Phanxicô trả lời: "Em muốn
chịu đau khổ để các người
tội lỗi được ơn ăn
năn trở lại". Quay sang Giaxinta
con nói: "Thôi, em uống đi!"
Nhưng cô bé nói: "Em cũng thế, em
muốn dâng hy sinh này cho các người tội
lỗi". Con liền đổ nước
vào máng cho cừu uống rồi mang gáo trả
lại cho bà cụ già.
Nhưng
trời mỗi lúc một nóng gay gắt. Ve
hát, dế và nhái thi nhau kêu inh ỏi, tạo
thành những tiếng động dinh tai nhức
óc. Giaxinta bị yếu nhược vì đói
và vì khát, liền nói với con bằng một
giọng hết sức tự nhiên: "Chị
nói với lũ nhái và bọn dế im đi!
Em đau đầu quá". Nghe vậy,
Phanxicô liền nói: "Bộ em không
muốn chịu khổ vì những người
tội lỗi sao?" Tội nghiệp
cô bé! Giaxinta bèn lấy hai tay ôm chặt đầu
và thưa: "Có, có, em muốn lắm.
Thôi, cứ để yên cho ve hát và dế
kêu!"
Một
thời gian ngắn sau ngày 13-5-1917, tin đồn
Đức Mẹ hiện ra lan nhanh khắp
vùng. Mẹ con bắt đầu buồn sầu
lo lắng và muốn bằng mọi giá, con
phải đính chính lại. Một ngày, trước
khi để con ra đi với đàn chiên,
mẹ con buộc con phải thú nhận là
con đã nói dối. Thấy con không chịu
thú lỗi, mẹ con gia hạn cho con một
ngày để suy nghĩ, rồi chiều
đến, con phải đi gặp những
người con đã đánh lừa, để
xin họ tha thứ. Sáng hôm ấy, con lùa chiên
khỏi chuồng, rồi vừa đi vừa
khóc. Giaxinta và Phanxicô đã đợi sẵn
trên đường. Thấy con khóc, hai em
vội chạy đến hỏi lý do. Con
kể cho hai em nghe đầu đuôi câu chuyện
và thêm:
- "Bây
giờ, hai em nói cho chị biết chị
phải làm gì? Mẹ chị muốn bằng
mọi giá, chị phải thú nhận là mình
đã nói dối! Nhưng phải thú nhận
làm sao đây?"
Nghe
thế, Phanxicô liền quay sang bảo Giaxinta:
"Em thấy chưa! Tại lỗi
em đó! Sao em lại kể ra?" Thật
tội nghiệp cô bé. Vừa khóc, cô bé vừa
quỳ xuống, hai tay chắp lại để
xin lỗi chúng con. Em nói: "Em đã làm
điều sai trái. Nhưng từ nay, em sẽ
không nói gì cho ai nữa!"
Hẳn
Đức Cha tự hỏi, ai đã dạy
cho Giaxinta biết làm một cử chỉ
khiêm tốn như thế? Con không biết.
Có lẽ Giaxinta trông thấy các anh bé xin lỗi
cha mẹ vào trước ngày rước lễ
lần đầu. Hoặc chính Đức
Mẹ đã ban cho Giaxinta được nhiều
ơn lành, cũng như sự hiểu biết
về Thiên Chúa và về nhân đức. Một
thời gian ngắn sau đó, khi cha sở
gọi cả ba chúng con đến để
tra hỏi, thì Giaxinta cúi mặt xuống và
chỉ thưa vỏn vẹn vài câu thôi. Lúc
ra về, con hỏi bé tại sao không chịu
trả lời khi cha sở hỏi thì bé nói:
"Bởi vì em đã hứa với chị
là em không kể gì với ai cả".
Một
ngày, Giaxinta hỏi con tại sao mình không được
nói là Bà Đó bảo mình làm nhiều hy sinh
cho người tội lỗi, con trả
lời: "Để người ta khỏi
hỏi là mình làm những việc hy sinh nào?"
Mẹ
con mỗi lúc một âu sầu vì tin đồn
Đức Mẹ hiện ra lan quá rộng.
Một ngày, mẹ con nghĩ ra phương
cách cuối cùng, để ép buộc con phải
thú nhận là mình đã nói dối. Một
buổi sáng, mẹ con gọi con đến
và cho biết là mẹ con dẫn con đến
gặp cha sở. Rồi mẹ con nói thêm:
"Khi đến nơi, con quỳ gối
xuống và xưng thú với cha sở là con
đã nói dối và con xin cha sở tha lỗi
cho con".
Lúc
đi ngang qua nhà cô con, mẹ con ghé vào một
chút. Lợi dụng dịp này, con kể cho
Giaxinta nghe chuyện gì đã xảy ra. Thấy
con buồn bã, Giaxinta để rơi vài giọt
nước mắt và nói: "Em sẽ dậy
và gọi Phanxicô. Cả hai chúng em sẽ ra
giếng để cầu nguyện. Khi chị
về, chị ghé qua đó gặp chúng em".
Lúc
từ nhà cha sở trở về, con liền
chạy ngay ra giếng, nơi hai em đang
quỳ gối cầu nguyện. Vừa trông
thấy con, bé Giaxinta chạy đến gieo
vào vòng tay con và hỏi con đã làm gì. Con liền
kể lại cho em nghe. Nghe xong, em nói: "Chị
thấy chưa! Chúng mình không phải sợ
hãi gì cả! Đức Bà luôn luôn giúp đỡ
chúng ta. Đức Mẹ yêu thương chúng
ta lắm mà!"
Kể
từ lúc Đức Bà dạy chúng con dâng
cho Chúa Giêsu các hy sinh của chúng con, thì mỗi
khi chúng con quyết định làm một
hy sinh hay phải chịu một thử thách
nào đó, Giaxinta đều hỏi con: "Chị
có thưa với Chúa Giêsu là mình chịu như
thế vì yêu mến Chúa không?" Nếu
con trả lời không thì em nói: "Vậy
thì em sẽ nói!" Và em chắp hai tay
lại, ngước mắt lên trời và
nói: "Ôi Chúa Giêsu, đó là vì tình yêu Chúa
và để xin ơn trở lại cho các
người tội lỗi!"
Có hai
linh mục đến chất vấn chúng
con và xin chúng con cầu nguyện cho Đức
Thánh Cha. Giaxinta liền hỏi Đức
Thánh Cha là ai. Hai vị linh mục giải
thích cho chúng con rõ và nói thêm là Đức Thánh
Cha rất cần nhiều lời cầu
nguyện. Từ đó, Giaxinta cảm thấy
lòng dạt dào yêu mến Đức Thánh Cha,
nên mỗi khi dâng các hy sinh cho Chúa Giêsu, cô bé
đều thêm: "và để cầu
cho Đức Thánh Cha".
Cứ
sau mỗi tràng chuỗi Mân Côi, Giaxinta luôn luôn
đọc thêm ba kinh "Kính Mừng Maria"
để cầu cho Đức Thánh Cha.
Thỉnh thoảng em tỏ lộ niềm
ao ước: "Ai cho em được
thấy Đức Thánh Cha? Có nhiều người
đến đây, nhưng sao Đức Thánh
Cha không đến đây bao giờ!"
Một
ngày, cha con và dượng con được
lệnh chính quyền thành phố, truyền
dẫn ba chúng con đến trình diện.
Dượng con bảo: "Tôi không mang
ra toà hai đứa trẻ chưa chịu
trách nhiệm về hành động của
chúng. Chính tôi sẽ đi, để xem mấy
ông đó muốn gì". Ba con lại nghĩ
khác. Ba con nói: "Tôi, tôi sẽ dẫn con
tôi đi để tự nó thu xếp với
họ, chứ đối với tôi, tôi chả
tin gì mấy chuyện hiện ra đó!"
Người
ta lợi dụng dịp này để ngăm
đe chúng con đủ thứ, làm chúng con
phải khiếp sợ. Ngày hôm sau, khi đi
ngang nhà dượng con, ba con ghé vào một
chút. Con liền chạy vào phòng Giaxinta để
từ giã em. Vì tự nhủ không biết
chúng con còn được trông thấy mặt
nhau nữa không, nên con ôm chặt em vào lòng.
Tội nghiệp Giaxinta, em vừa khóc vừa
nói: "Nếu người ta giết chị
thì xin chị nói là em và Phanxicô cũng giống
như chị và chúng em cũng muốn chết
nữa. Em sẽ cùng Phanxicô đi ra giếng
và ở đó, chúng em cầu nguyện thật
nhiều cho chị!"
Buổi
chiều hôm ấy, khi con từ tỉnh trở
về, trời đã tối. Con liền chạy
thẳng ra giếng. Hai em vẫn còn ở
đó, quỳ gối sấp mặt xuống
đất, hai tay ôm lấy đầu và khóc.
Vừa trông thấy con, hai em ngạc nhiên
kêu lên: "Chị về rồi sao! Vậy
mà chị của chị khi ra giếng múc
nước, nói với chúng em là người
ta đã giết chị rồi. Chúng em đã
cầu nguyện thật nhiều cho chị
và khóc thương chị!"
Sau
này, lúc người ta giam tù chúng con, điều
làm cho Giaxinta đau khổ nhất, chính là
cảm thấy mình bị cha mẹ bỏ
rơi. Nước mắt dàn dụa, em nói
với con: "Cả cha mẹ chị,
cả cha mẹ em, không ai thèm đến thăm
chúng ta cả. Các ngài không còn chăm sóc chúng
ta nữa!" Phanxicô liền an ủi
em: "Đừng khóc. Chúng ta hãy dâng đau
khổ đó cho Chúa Giêsu để cầu
cho các người tội lỗi được
ơn ăn năn trở lại".
Rồi giơ hai tay và ngước mắt
lên trời, Phanxicô đọc lời dâng hiến:
"Ôi lạy Chúa Giêsu của con! Chúng con
xin chịu vì lòng yêu mến Chúa và vì ơn
thống hối cho các người tội
lỗi!" Giaxinta đọc thêm: "Cũng
để cầu cho Đức Thánh Cha và
đền bù các tội xúc phạm đến
Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ Maria
nữa".
Các
tù nhân khác, có mặt ở đó, tìm cách an
ủi chúng con. Họ nói: "Thì cứ
nói đại bí mật đó ra cho ông Thị
trưởng nghe, mặc cho Bà Kia có muốn
hay không!" Giaxinta cương quyết
nói: "Điều đó không. Cháu thà chết
chứ không thà tiết lộ bí mật!"
Chúng
con liền quyết định lần hạt
Mân Côi. Giaxinta có ảnh đeo trên cổ. Cô
bé liền cởi ra và nhờ một tù nhân
treo trên tường. Quỳ gối trước
ảnh đeo này, chúng con bắt đầu
đọc kinh. Các tù nhân cũng cầu nguyện
với chúng con. Điều này chứng tỏ
họ vẫn còn biết cầu nguyện.
Hay ít ra là họ cũng quỳ gối xuống
như chúng con. Lần hạt xong, Giaxinta lại
ra đứng bên cửa sổ và khóc. Con nói:
"Giaxinta, bộ em không muốn dâng hy sinh
cho Chúa chúng ta sao?" Bé trả lời:
"Có, em muốn. Nhưng em nhớ mẹ
và không hiểu sao nước mắt em cứ
tự nhiên chảy ra!"
Nhớ
lời Đức Mẹ dặn là phải
dâng các kinh nguyện và hy sinh của chúng con
để đền bù các tội xúc phạm
đến Khiết Tâm Đức Mẹ,
chúng con liền bàn nhau là mỗi đứa
chọn một ý chỉ: đứa thì cầu
cho người tội lỗi; đứa
khác cầu cho Đức Thánh Cha; đứa
khác nữa thì đền bù phạt tạ
các xúc phạm đến Trái Tim Vô Nhiễm
Đức Mẹ. Sau khi bàn xong, con bảo
Giaxinta chọn một ý chỉ mà em thích. Bé
liền trả lời: "Em chọn cả
ba ý chỉ này vì em thích cả ba!"
|
|
|