|
NGÀY 17 THÁNG 3
THÁNH PATRICK
Lễ Nhớ tùy ý
19-A.1
Thánh Patrick đặt nền tảng công cuộc tông đồ trên việc cầu nguyện
và hãm mình.
Câu truyện cuộc đời thánh Patrick từ khởi đầu đến kết thúc là
một cuộc mạo hiểm thánh thiện. Sinh trong một gia đình Công Giáo
tại nước Anh vào cuối thế kỷ IV, bấy giờ là thuộc địa của Roma,
khi còn là một thiếu niên, Patrick đã bị bọn hải tặc bắt đem về
Ái nhĩ lan, một miền đất từng có thời rất văn minh, nhưng khi
ấy đã suy tàn. Tại Ái nhĩ lan, Patrick bị bán cho một tộc trưởng,
và ông này bắt ngài đi chăn heo. Theo truyền tụng, nơi ngài bị
bắt là Slemish, hiện nay là Antrim.
Patrick luôn coi thảm họa này như một hình phạt Thiên Chúa giáng
xuống vì tội lỗi của ngài. Ngài đã kể lại, Khi ấy tôi mười sáu
tuổi. Tôi không biết Thiên Chúa thật; và tôi bị bắt sang Ái nhĩ
lan với nhiều ngàn người khác, đáng với tội lỗi chúng tôi, vì
chúng tôi đã xa lìa Chúa, không giữ các giới răn của Người, không
tùng phục các linh mục, những vị thường nhắc nhở cho chúng tôi
về phần rỗi của chúng tôi.1
Tuy nhiên, giữa cảnh lầm than, ngài đã hồi tưởng lại những bài
học thời thơ ấu và trở về với Chúa. Giờ đây, sau khi tôi đã đến
Ái nhĩ lan, công việc hằng ngày của tôi là chăn dắt đoàn vật;
và tôi thường cầu nguyện vào ban ngày. Lòng yêu mến và kính sợ
Chúa ngày càng gia tăng, đức tin tăng triển, tinh thần được đánh
động, thành ra trong một ngày tôi thường đọc nhiều trăm kinh,
và ban đêm cũng gần được chừng ấy; tôi thường ở lại trong rừng
và trên núi vì mục đích ấy. Trước lúc tảng sáng, tôi thường thức
dậy để cầu nguyện, trên tuyết, trong băng giá, trong mưa. Tôi
không cảm thấy đau đớn, cũng không biếng trễ như giờ đây, bởi
vì khi ấy tinh thần trong tôi rất sốt sắng.2
Sau sáu năm trong hoàn cảnh ấy, Patrick đã tìm cách trốn thoát.
Trước tiên, nhờ một số nhà buôn tốt bụng, ngài đã trốn sang Pháp,
và sau cùng, ngài đã về đến quê hương và được hân hoan chào đón.
Vào thời điểm ấy, Patrick không có ý định trở lại nơi bị bắt trước
kia, nhưng Thiên Chúa đã có những chương trình khác. Và quả thật,
trong những thị kiến ban đêm, tôi đã nhìn thấy một người tên là
Victoricus từ Ái nhĩ lan đến, mang theo vô số thư từ. Ông trao
cho tôi một bức, và tôi đọc phía trên bức thư có hàng chữ ‘tiếng
kêu từ Ái nhĩ lan’; và trong khi đang đọc lớn phần đầu bức thư
ấy, tôi nghĩ rằng ngay lúc ấy tôi nghe thấy tiếng kêu của những
người đang sống gần khu rừng Foclut, sát với biển Tây. Họ đồng
thanh kêu lớn: ‘Chúng tôi năn nỉ, ôi bạn trẻ, hãy đến, và một
lần nữa hãy đi lại giữa chúng tôi.’ Tôi tan nát trong lòng, không
đọc thêm nữa. Và thế là tôi thức giấc. Cám tạ Thiên Chúa, vì sau
nhiều năm, Chúa đã ban cho họ điều họ kêu xin.3
Sau đó, Patrick sang Auxerre, Pháp một vài năm để chuẩn bị cho
sứ mạng bằng việc học tập dưới quyền thánh Germanus, người được
Đức Celestine I giao phó việc chuẩn bị cho công cuộc truyền giảng
xứ Ái nhĩ lan. Tuy nhiên, Patrick vô cùng thất vọng vì không được
tuyển chọn; sứ vụ được giao phó cho một người khác tên là Palladius.4
Nhưng Palladius đã qua đời ngay khi vừa đặt chân đến Ái nhĩ lan,
và thế là đoàn người đành quay về Auxerre. Lúc ấy, Patrick được
chọn để thay thế và được thánh Germanus tấn phong giám mục.
19-A
2. Hướng đến mọi tầng lớp xã hội.
Khi đặt chân lên đất Ái nhĩ lan vào năm 432 để truyền giáo cho
một dân tộc ngoại giáo hiếu chiến, thánh Patrick đã có một đức
tin sắt đá kiên vững trong mọi thử thách, một sự khôn ngoan thực
tế, và một kiến thức về đất nước, ngôn ngữ và phong tục địa phương.
Trong công việc, thánh Patrick đã giữ một tập quán. Mỗi khi đến
một miền nào, trước tiên thánh nhân đến trình diện và giảng Phúc
Âm cho vị tộc trưởng địa phương, và trao tặng một ít quà cáp theo
tập tục thời ấy. Các tài liệu cổ xưa kể lại, mặc dù có một số
tộc trưởng qui thuận đức tin, nhưng một số kẻ khôn ngoan thế gian
vẫn giữ lại một số tập tục dễ dãi của tổ tiên họ. Tuy nhiên, thánh
Patrick luôn yêu cầu hai điều mà lúc nào ngài cũng thành công:
xin một miếng đất để xây nhà thờ; và xin phép tộc trưởng để rao
giảng cho dân chúng.
Kế đó, thánh Patrick hướng về phía các con trai con gái của vị
tộc trưởng. Lúc này, thành công của ngài hầu như rất khả quan.
Lúc trước tại Ái nhĩ lan, khi chưa nghe biết về Thiên Chúa, người
ta thờ lạy bụt thần và các sự quái gở. Gần đây, họ đã trở thành
một dân tộc của Chúa, và được gọi là con cái Chúa. Các con trai
con gái của các tộc trưởng Ái nhĩ lan trở thành các đan sĩ và
trinh nữ của Chúa Kitô.
Đặc biệt, một nữ lưu Ái nhĩ lan dòng dõi quí phái vị vọng, rất
xinh đẹp, khôn lớn, và đã được rửa tội; sau một vài ngày, bà đã
đến gặp chúng tôi vì một lý do gì đó. Bà tỏ cho chúng tôi biết
bà đã được một thiên thần của Thiên Chúa cảnh báo, và khuyên bà
hãy trở thành một trinh nữ của Chúa Kitô, và sống thân mật với
Thiên Chúa. Cám tạ Chúa, sáu ngày sau, rất đáng khen và hăm hở,
bà ấy đã giúp tất cả các trinh nữ của Thiên Chúa làm theo như
bà; nhưng vì không được sự đồng ý của cha mẹ họ; nên họ bị thân
nhân bắt bớ và quở mắng; tuy nhiên, con số họ ngày càng gia tăng.5
Điều này đã đặt nền tảng cho công cuộc hoán cải về sau của rất
đông dân thường mà thánh Patrick đã đề cập đến. Chính ngài đã
đích thân rửa tội cho ‘nhiều ngàn người”: Điều hết sức cần thiết
là chúng ta phải giăng những chiếc lưới của chúng ta để đem vô
số đám đông về cho Chúa. Mọi nơi nên có linh mục được phong chức
để rửa tội và nâng đỡ những người nghèo khó và túng quẫn.6
Tuy nhiên, ta không nên nghĩ rằng mọi việc đều xuôi thuận. Nhiều
lúc thánh Patrick đã gặp nguy hiểm từ mọi nơi, nhất là bọn Druids,
những kẻ đối nghịch không đội trời chung. Nhờ khôn ngoan, thánh
nhân đã thoát được; và hơn một lần, Chúa quan phòng đã phải can
thiệp để cứu ngài. Tuy nhiên, thử thách gian truân nhất đối với
thánh Patrick là sự chống đối từ phía các anh em Kitô giáo tại
Anh và Pháp. Họ truyền cho nhau nhiều câu truyện bịa đặt về ngài,
đến độ ngài đã phải dùng ngòi bút để tự vệ. Nhờ đó, chúng ta ngày
nay mới may mắn có được quyển Tự Thuật của thánh nhân, tài liệu
chủ yếu về những chi tiết trong cuộc đời của ngài.
19-A.3
Đức tin và văn hóa.
Giáo đoàn do thánh Patrick thành lập mang một số đặc trưng rất
rõ nét. Sứ điệp Phúc Âm ăn rễ sâu và biến đổi từ bên trong mà
không hủy diệt nền văn hóa Celtic. Chúng ta giờ đây khó mà tưởng
tượng được dân tộc và văn hóa của họ sẽ như thế nào, nếu không
được thấm nhuần tinh thần Kitô Giáo sâu xa, ngay cả nhiều thế
kỷ về sau. Vì thế, nền văn hóa ấy luôn phù hợp với đức tin. Về
giáo lý cũng như về việc truyền bá Phúc Âm nói chung, chúng ta
được mời gọi đem sức mạnh Phúc Âm vào trái tim của từng nền văn
hóa và mọi nền văn hóa. Vì mục đích này, người làm công tác giáo
lý phải tìm hiểu các nền văn hóa và những yếu tố chính của chúng;
phải biết các biểu hiện ý nghĩa nhất của chúng; phải tôn trọng
các giá trị và sự phong phú riêng của chúng… Họ phải ghi nhớ hai
điều sau đây.
Thứ nhất, không được tách rời sứ điệp Phúc Âm khỏi nền văn hóa
nguyên thủy của nó (tức là thế giới Thánh Kinh, chính xác là địa
phương văn hóa mà Chúa Giêsu thành Nazareth đã sống), cũng đừng
tách biệt khỏi những nền văn hóa mà sứ điệp Phúc Âm đã được diễn
tả theo dòng các thế kỷ.
Thứ hai, sức mạnh của Phúc Âm biến đổi và chấn hưng mọi sự. Khi
hội nhập vào một nền văn hóa, chắc chắn sức mạnh ấy sẽ chỉnh đốn
nhiều yếu tố của nền văn hóa này. Nếu như Phúc Âm đã bị biến dạng
khi tiếp xúc với các nền văn hóa, thì có lẽ đã chẳng còn giáo
lý. Quên điều này tức là vấp vào điều thánh Phaolô đã mạnh mẽ
tố cáo là ‘làm trống rỗng sức mạnh thập giá của Chúa Kitô’ (1
Cr 1:17).7
Điểm đặc trưng thứ hai của giáo đoàn mới mẻ này là bản chất tông
đồ sâu xa. Những người đầu tiên được hưởng nhờ lợi ích từ động
lực tông đồ là những người Picts xứ Scotland, sau đó là các bộ
tộc man di định cư tại những miền hoang tàn của đế quốc Roma tại
Bắc Âu: Pháp, Đức, và xa nữa là Lombardy. Kể từ giai đoạn ấy,
quê hương Ái nhĩ lan của các nhà truyền giáo thánh thiện và học
thức đã nổi danh khắp thế giới Kitô Giáo là ‘đảo các thánh và
các học giả.’ Mặc dù giai đoạn hoàng kim ấy đã chấm dứt vào thế
kỷ IX, khi Ái nhĩ lan rơi vào tay những người Vikings xâm lược,
nhưng các di sản của thánh Patrick không suy suyễn và vẫn trường
tồn qua các thăng trầm của lịch sử.
Điểm đặc trưng thứ ba mà đức tin của thánh Patrick đã nung đốt
cho giáo đoàn ở đây là sự hợp nhất với Tòa Thánh, suốt từ khi
có ủy nhiệm thư đầu tiên của Đức Celestine. Thánh Patrick đã mô
tả những người tín hữu yêu quí của ngài là Giáo Hội người Ái nhĩ
lan, tức là Giáo Hội Roma.8 Sau khi thánh Patrick qua đời, thánh
Columbanus đã thưa với Đức Boniface IV: Chúng con những người
Ái nhĩ lan… là môn đệ của thánh Phêrô và Phaolô… Chúng con nắm
giữ vững vàng đức tin Công Giáo mà chúng con trước tiên đã được
lãnh nhận từ cha.9 Lời tuyên xưng này đã được Đức Gioan Phaolô
II nhắc lại vào năm 1979: Ái nhĩ lan luôn luôn trung thành – ‘semper
fidelis.’10
Ngày nay, khi cám tạ Thiên Chúa về đặc ân đức tin thánh Patrick
đã truyền lại, chúng ta hãy quyết tâm noi theo gương sáng của
ngài. Chúng ta hãy sống những lời được truyền tụng là của chính
ngài:
|
|