|
Chúa
làm người
để
người làm Chúa
Lời
tòa soạn: Đây
là bài của linh mục Thiện Cẩm, OP,
tác giả Mong Manh
soạn lại và ban biên tập xin phép được rút gọn vì bài khá dài.
Irénée đã nói về Đức
Kitô rằng: "Người đã trở nên giống
chúng ta, để chúng ta trở thành như Người". Đó
không phải là một sự thần hóa thật sự và trọn vẹn trong Con Thiên
Chúa nhập thể sao? Về sau, Clémẹnt (Alexandrie) và Grégoire (Naziance)
đã làm biến đổi suy tư ấy một cách sâu xa khi quả quyết:
"Thiên Chúa đã làm người để con người làm Chúa".
Trong bài giảng về người anh mình là Césaire, Grégoire đã nói:
"Tôi phải được chôn cùng với Đức
Kitô, tôi phải trở thành con Thiên Chúa, tôi phải trở thành Thiên
Chúa" (Oratio 7,23). Một vài tác giả tu đức đã
nối gót theo khi bảo rằng người tín hữu nào sống đạo đều phải
"đánh mất bản thân mình trong Chúa
như giọt nước tan trong biển". Nhà thần học Karl
Rahner, trong bộ sách thần học của ông, "Mysterium
Salutis", đã viết:
"Thiên
Chúa làm người để con người được trở nên Thiên Chúa",
để con người trở thành con Thiên Chúa trong ý nghĩa chúng ta vừa
nói.
"Ta
hãy dựng con người giống hình ảnh Ta, giống như Ta, để con người
làm bá chủ cá biển, chim trời, gia sú , dã thú, tất cả mặt đất
và mọi giống vật bò dưới đất"
(Gn 1, 26).
"Thiên
Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Ngài,
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh của Thiên Chúa,
Thiên Chúa sáng tạo người nam và người nữ"
( Gn 1, 27).
Quan
trọng nhất là “Thiên Chúa đã ban tặng
cho chúng ta những gì rất qúy báu và trong đại Người đã hứa, để
nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa..."
( 2 Pt 1, 4).
CHÚA
LÀM NGƯỜI
Trong
nhiều bài viết trước đây, tôi thường nói đến mầu nhiệm Ngôi Lời
Nhập thể, và nhấn mạnh đến yêu cầu thể hiện mầu nhiệm ấy trong
đời sống mỗi Kitô hữu nói riêng và Giáo hội nói chung, hơn là
chỉ giải thích và rao giảng. Tôi cũng thường nói tới chuyện người
ta xưa nay kẻ thì muốn nên thánh, kẻ muốn làm quân tử, kẻ muốn
trở nên bồ tát, hay đạo sĩ vv... nhưng lại chẳng làm người. Có
lẽ người ta cho rằng làm người là chuyện tự nhiên, khỏi phải làm.
Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, làm người không dễ! Và điều không thể
chối cãi, đó là trong mầu nhiệm Nhập thể, Lời đã làm người, và
trong suốt ba mươi năm trước khi công khai loan báo Tin Mừng,
Đức Giêsu đã chỉ làm người, giống như mọi người trong mọi sự,
ngoai trừ tội lỗi, và sống như mọi người. Trong khi người Do thái
chờ đợi một Đấng Kitô, mà họ nghĩ rằng phải là Đấng bí mật, khác
người, “chẳng ai biết Người xuất thân
từ đâu cả” (Ga 7,27), thì Đức Kitô lại đến như một
người bình thường, ai cũng biết cả ( x.Mc 6,3), và vì thế mà họ
không tin tựởng vào Người. Mà đó cũng là thói thường của con người!
Người ta thường chỉ mong mỏi, chờ đợi, tin tựởng một người có
địa vị, quyền thế, có tài, có khả năng đem lại cho kẻ khác một
điều gì đó: công chúng chỉ hoan nghênh một ca sĩ hát hay, chỉ
vỗ tay khen thưởng một anh hề biết làm cho người ta cười; dân
chúng chỉ đi xem một trận bóng đá khi có những siêu sao. Người
Do thái chờ đợi một Đấng Kitô nếu không phải là Đấng siêu việt
từ trời mà xuống, nếu không phải như kiểu ông Elia trở lại trần
thế, thì ít ra cũng phải là một vị quân vương, một đấng anh hùng.
Nhưng đây họ chỉ thấy một “bác thợ,
con bà Maria, anh em của các ông Giacôbê, Gioxê, Giuđa và Simon”
(Mc 6,3). Vì thế Máccô nói: “Và họ vấp
ngã vì Người”. Vấp ngã theo nghĩa là họ lấy làm chướng,
không thể chấp nhận một con người tầm thường như thế mà lại có
thể là Đấng Kitô.
Nhưng
Đức Giêsu thì chỉ làm người như mọi người, không tìm cách sống
khác ai. Chính Người đã nói về mình:
“Ông Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các
ông bảo : ‘Ông ta bị quỉ ám’. Con
người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo: ‘Đây
là tay ăn nhậu, ban bè với quân thu thuế và phường tội lỗi'”
(Lc 7,33-34). Hơn thế nữa, Đức Giêsu còn là một người thích đi
hết làng này đến làng khác, thành này đến thành nọ (x.Lc 4,43;
8,1), lang thang không có chỗ tựa đầu (x.Lc 9,58).
Chính
bằng cách sống đơn sơ, giản dị, với “lòng
hiền hậu và khiêm nhường” như vậy (Mt 11,29), mà Đức
Giêsu mặc khải, nghĩa là vén mở cho chúng ta thấy khuôn mặt đích
thực của Thiên Chúa, chứ không đóng vai một ông vua, một ông thượng
tế, kinh sư hay luật sĩ. Đêm Giáng sinh, mặc dù theo Luca trình
thuật, thì “vinh quang của Chúa chiếu
toả chung quanh” các mục đồng, và “có
muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên
Chúa” (Lc 2,9.13), nhưng dấu chỉ để họ nhận ra Đấng
Cứu Độ, hay là Đấng Kitô Đức Chúa, vẫn chỉ là “một
trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12).
Trong suốt cuộc đời tại thế, Đức Giêsu chỉ tỏ cho ba môn đệ Phêrô,
Giacôbê và Gioan, thấy dung nhan vinh hiển của Người có một lần,
và chỉ trong chốc lát (x.Mc 9,2-8; Mt 17,1-8; Lc 9,28-36).
ĐỂ
NGƯỜI LÀM CHÚA
Chúa
làm người để người làm Chúa. Đây không phải là chuyện phạm thượng
hay chuyện kiêu ngao nhưng chuyện thật của những người đã một
lần hoán cải biến đổi làm đảo lộn cuộc sống để có thể nói được
“Không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”.
Đây là chuyện của những con người bị chiếm đoat, bị nắm bắt (Pl
3,12); chuyện của những con người có lòng tin sâu xa, của các
nhà thần bí, của những con người chiêm niệm thật sự. Đặc biệt
khi ta rước Mình và Máu Đức Kitô thì Mình Máu Người tan chảy và
luân lưu trong máu thịt của ta. Đến nỗi ta có thể nói được là
Chúa trở nên ta, ta trở nên Chúa (hai
trong một), nhưng còn ta có sống như Chúa không? Đấy
mới là vấn đề? Khi các đệ tử của Mẹ Têrêsa Calcutta đi làm việc
từ thiện bác ái thì trong nhà các người Ấn Độ chỉ trỏ và nói với
nhau là “Đức Kitô đang đi ngoài đường
kìa!”
“Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin
vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người
đó còn làm những việc lớn hơn nữa...” (Ga 14,12).
Những dấu lạ đi theo những ai có lòng tin, đã nên một trong Chúa.
Tuy
nhiên, lời Ngài nói cần phải hiểu theo nghĩa tâm linh, chứ không
nên hiểu theo nghĩa đen: tôi không tin rằng bất kỳ người mạnh
tin nào cũng đều có thể uống thuốc độc mà không chết, hay bị rắn
cắn mà không sao! Vì thế, những dấu lạ nói trên cần được hiểu
như sau:
- “Trừ
được quỷ”: Quỉ tựợng trưng cho thế
lực của sự ác. Người thật sự tin vào Thiên Chúa - là nguồn sức
mạnh của mình - có thể thắng được những thế lực của sự ác hay
của tội lỗi ngay trong bản thân mình. Cụ thể là thắng được những
cám dỗ, những tư tưởng xấu, những khuynh hướng xấu, v.v… Nếu
đức tin của họ mạnh hơn nữa, họ có thể giúp những người yếu
tin cũng thắng được thế lực ác giống như họ.
- “Nói
được những tiếng mới lạ”: Người
có đức tin đích thực và sống nhuần nhuyễn đức tin ấy sẽ cảm
nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa và Đức Giêsu, tức chứng
ngộ được chân lý nơi bản thân mình. Nhờ đó họ có thể tự diễn
đạt đức tin của mình theo đủ mọi phương thức khác nhau, chứ
không dùng những kiểu nói sáo mòn, trống rỗng, thiếu chất sống.
Họ luôn luôn dùng những cách diễn tả mới lạ, phù hợp với thời
đại, với trình độ của người nghe, giúp người nghe cũng cảm nghiệm
được thực tế đức tin như họ. Họ như một y sĩ đã nắm thật vững
cốt yếu của y lý nên biết tùy bệnh mà tự mình cho thuốc thật
hữu hiệu, phù hợp với từng căn bệnh. Họ không sao y những bài
thuốc có sẵn của người khác để áp dụng chữa bệnh một cách máy
móc giống như những y sĩ chưa nắm vững y lý. Hay như một thầy
giáo đã tiêu hóa thật kỹ môn mình dạy nên chỉ cần nói tất cả
những gì đang có sẵn trong bụng không phải lệ thuộc một bài
bản nào cả. Họ có thể nói một cách sáng tạo theo đủ kiểu đủ
cách mới lạ để học sinh dễ hiểu mà vẫn luôn luôn chính xác,
chứ không nô lệ vào những giáo trình mẫu do người khác soan
sẵn.
- “Cầm
được rắn trong tay”: Người có đức tin đích
thực ắt nhiên có tâm hồn an bình và đầy tràn tình yêu. Họ coi
mọi người - dù xấu ác hay ghét họ, muốn làm hại họ - như anh
em ruột thịt và sẵn sàng hy sinh cho những người ấy. Vì thế,
họ có thể tiếp cận và sống chung cả với những người xấu ác mà
không hề bị hại, vì những người nguy hiểm này vẫn luôn cảm nghiệm
được tình thương của họ dành cho mình: không ai lại muốn hại
người đang yêu thương mình.
- “Dù
có uống nhằm thốc độc cũng chẳng sao”:
Tất cả những nghịch cảnh, những đau khổ trong cuộc đời không
thể làm mất được sự bình an và hạnh phúc của những người có
đức tin thật sự. Với đức tin, họ biết rằng tất cả những đau
khổ hay nghịch cảnh xảy tới đều chìm trong sự thinh lặng để
lắng nghe Thánh Ý tình thương của Ngài. Họ tin rằng: “Thiên
Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người”
(Rm 8,28) và “những đau khổ chúng
ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ
mặc khải nơi chúng ta” (8,18). Vì thế, họ rất vui
khi đau khổ hay nghịch cảnh xảy tới, nên đau khổ hay nghịch
cảnh cỡ nào cũng không hề làm hại được họ.
- “Nếu
họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được
mạnh khoẻ”:
Ngoài ra người có đức tin đích thực còn có sức cảm hóa và giúp
những người xấu ác - là người bị bệnh về tâm linh - trở về đường
ngay nẻo chính. Họ có khả năng nâng đỡ và thêm sức mạnh cho
những người yếu đuối tinh thần. Ai gần họ cũng cảm thấy mình
bình an hạnh phúc hơn, tin vững mạnh vào Thiên Chúa, vào chính
bản thân và tương lai mình hơn.
NHƯ
CHÚA ĐÃ LÀM NGƯỜI
“Anh
em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’,
điều đó phải lắm, vì quả thật Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu
Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em
cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13,13-14). Đó là
những lời rõ ràng và đầy đủ nhất cho thấy lập trường và thái độ
của Đức Giêsu: Người ý thức rõ rệt mình là Chúa, là Thầy, nhưng
không xử sự như một vị Chúa hay một bậc thầy, mà lại như một người
tôi tớ
Thực
vậy, Đức Giêsu Kitô “vốn dĩ là Thiên
Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với
Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân
nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”
(Pl 2,6-7). Điều này, thánh Phaolô đã khẳng định gần 2000 năm
rồi, không cần phải nhấn mạnh thêm. Ngày nay, trong thời đại dân
chủ, có lẽ Chúa cũng chẳng đòi hỏi chúng ta phải làm nô lệ để
hầu hạ ai, nhưng điều chắc chắn, là Người không thể chấp nhận
thái độ quan liêu phong kiến, cung cách thống trị như vua chúa
của những đấng bậc trong Giáo hội. Nói thế không có nghĩa là Người
muốn dep bỏ quyền bính, và muốn cho Giáo hội của Người thành một
nhóm người sống vô tổ chức. Trái lại, chính Người đã lập ra Hội
Thánh, và trao quyền lãnh đạo Hội Thánh của Người cho ông Phêrô
(x.Mt 16.18-19), chỉ khác có một điều, là Người xác định rõ cách
thức mà các môn đệ phải thi hành quyền bính, đó là phải hầu hạ
mọi người: kẻ làm đầu phải hầu thiên hạ (x. Mc 9, 235; Lc 22,25-27).
KẾT
LUẬN
Khi
làm người, Chúa trở nên đồng hàng với nhân loai, và như vậy là
cho con người được nên ngang hàng với mình. Nói cách khác, Chúa
làm người để người làm Chúa. Làm Chúa có nghĩa là làm chủ chính
bản thân mình, không phải làm nô lệ cho bất cứ ai, cho dù là nô
lệ của Thiên Chúa, bởi vì Đức Giêsu đến trần gian chính là để
giải phóng và đem lại tự do cho con người (x.Ga 8,32-36). Vì thế,
con người, trong cái nhìn Kitô giáo, không phải là kẻ vong thân,
đánh mất chính mình, hoàn toàn nô lệ cho thần thánh, cho Thượng
Đế. Con người Kitô hữu, trước hết, là một con người tự do, bởi
vì được trở nên con cái Thiên Chúa, đồng dạng đồng hình với Chúa
Kitô, Con Thiên Chúa làm người.
Một
khi người Kitô hữu nhận ra bản tánh đích thực của mình, cuộc sống
của họ tự do, bình an, hạnh phúc thực sự. Lúc đó, họ sẽ hiểu một
cách rất rõ ràng và cảm nghiệm một cách sống động châm ngôn: Chúa
làm người để người làm Chúa.
Mong Manh
|
|