I.
TRÊN ĐƯỜNG TÌM CHÚA:
NGUỒN SỐNG Bài một NHỮNG THẮC MẮC
BUỔI ĐẦU
(Khai
mạc: Giảng viên cầu nguyện thay cho mọi
người, phó dâng lớp Dự tòng cho Thánh gia
(Thánh Giuse, Đức Mẹ, Chúa Giêsu), cầu
cho học viên ơn hiểu biết và yêu mến
đạo Chúa là con đường cứu rỗi,
xin ơn cải thiện đời sống cũ
để tập sống theo tinh thần Chúa Kitô).
(Đề
nghị: Giải nghĩa và tập làm Dấu Thánh
giá đơn và kép, tập cầu nguyện trước
và sau giờ học.
Bài
về nhà: Học bài theo các Câu hỏi ôn. Lần
tới khảo bằng miệng hoặc bằng
giấy.
Tìm
hiểu:
1.
Lời chào làm quen...
(Lần
lượt hỏi mỗi người đã có
ý định theo đạo Chúa từ bao lâu?)
Vào
tuổi đã lớn mà còn phải học đạo
mới, đổi niềm tin, kinh nguyện, cuộc
sống...là cả một hy sinh lớn lao, nhưng
xin quả quyết: Hy sinh của quí vị có ý
nghĩa và sẽ được đền đáp
xứng đáng đời này và đời sau.
Chúng
ta đang đi trên con đường "một
chiều". Chắc chắn sẽ có ngày cuộc
sống mỗi người chúng ta phải chấm
dứt như bao nhiêu người đã chấm
dứt. Đời người chỉ có MỘT
LẦN.
Sau
khi chết ta sẽ ra sao? Người Việt
nam ta tin rằng hồn thiêng không chết, sẽ
chịu "hành hình" nơi địa ngục,
hay được "mát mẻ" nơi cực
lạc, tùy mỗi người có biết sống
trọn vai trò hiện tại của mình hay không,
có biết sống niềm tin của mình hay không.
Quí
vị theo đạo vì nhiều lý do: Để
tìm cho mình một Đấng tôn thờ, tìm cho
mình một hướng đi, tìm cho mình sự
bình an hạnh phúc...Có những anh chị học
đạo Chúa để thành hôn trong cùng một
tôn giáo, đó là điều tốt, vì theo tư
tưởng của tác giả St- Exupery "Yêu
nhau không phải là ngồi nhìn nhau, nhưng là cùng
nhìn về một hướng". Kinh nghiệm
các gia đình cho thấy, để đời
sống vợ chồng dễ hoà hợp, để
việc dạy dỗ con em khỏi cảnh "trống
đánh xuôi, kèn thổi ngược", để
an ủi nhau lúc tuổi già...rất cần đôi
bạn cùng sống một tôn giáo. Bên trên mục
đích thành hôn, các anh chị cần thêm một
đích nữa: Học đạo Chúa để
hiểu biết, yêu mến và phụng sự Chúa
để được sống hạnh phúc
đời này và đời sau.
Rồi
đây, qua các buổi học, quí vị sẽ
tự thấy Thiên Chúa đáng kính mến, đáng
tôn thờ, phụng sự thế nào.
2.
Đầu tiên, nói tới theo đạo Công giáo,
tự nhiên thấy rất ngại, vì nghe nói, theo
đạo phải bỏ Ông Bà Tổ Tiên, không
được tôn thờ các đấng sinh thành,
điều đó có đúng không?
-
Câu nói này có chỗ đúng mà cũng có chỗ không
đúng. Đúng ở chỗ người theo đạo
Chúa không được "tôn thờ"các đấng
sinh thành" nếu hiểu chữ thờ như
Tục ngữ Việt nam: Thờ cha kính mẹ,
theo nghĩa chặt như thờ Thiên Chúa.
Vì đạo dạy rằng chỉ có một
Thiên Chúa , Đấng dựng nên trời đất
mới đáng tôn thờ (worship), còn Ông bà cha mẹ
chỉ đáng "tôn kính" (respect) thôi. Trong
đạo Công giáo, việc tôn kính này trở thành
một bổn phận bó buộc trong điều
Răn thứ 4 trong 10 điều Răn. Điều
răn thứ 4 buộc con cái phải yêu mến,
tôn kính, vâng lời cha mẹ trong những điều
phải lẽ, và giúp đỡ cha mẹ khi còn
sống cũng như khi cha mẹ đã qua đời.
Làm ngược lại là mắc tội bất
hiếu.
-
Không đúng ở chỗ "Theo đạo Chúa
phải bỏ Ông Bà Tổ Tiên". Người
theo đạo Chúa không bỏ, mà còn gắn bó chặt
chẽ với ông bà cha mẹ; cha mẹ vẫn
được "Sống tết, chết giỗ".
Người Công giáo còn tin rằng sau khi chết
sẽ được sẽ được gặp
lại và đoàn tụ, sống hạnh phúc
mãi với ông bà cha mẹ ở đời sau,
nếu cùng được vào nơi Cực lạc
là Nước Thiên đàng (Paradise).
3.
Tại sao người theo đạo Chúa không
cúng giỗ (make offerings) để cha mẹ khỏi
đói?
Câu
hỏi này nhắc người ta nhớ lại
những bát cơm, những nén hương, những
bánh trái trong mâm cơm cúng cha mẹ của những
quí vị theo đạo Ông bà trong những ngày
sóc (ngày 1 tháng âm lịch), ngày vọng ( ngày rằm,
15 tháng âm lịch), ngày kỵ (ngày giỗ), ngày
Tết. Ngày đó, con cái cầm nén hương
(incense) thành kính cúi đầu lễ bái trước
vong linh (hồn thiêng) hay bài vị Tổ tiên (Tấm
bảng bằng gỗ hoặc giấy viết
tên tuổi chức tước), ông bà cha mẹ.
Người
theo đạo Chúa không đặt mâm cơm cúng
Ông Bà, vì họ nghĩ rằng hồn linh thiêng,
không còn ăn được thực phẩm nuôi
thể xác của người còn sống; nhưng
bù lại, họ cầu nguyện, làm việc
thiện, dâng lễ đền tội, cầu
cho linh hồn Ông Bà cha mẹ sớm được
giải thoát, về Thiên đàng hưởng hạnh
phúc cùng Thiên Chúa.
4.
Có người nói, "Đạo nào cũng tốt,
cũng dạy ăn ngay ở lành" cần
gì phải theo đạo Chúa; Người
theo đạo Chúa, nhiều khi còn bê bối hơn!
-
Đúng. Đạo nào cũng tốt, nếu xét
về phía đạo nào cũng dạy tín đồ
"ăn ngay ở lành", "tu thân, tích đức"
thuộc phương diện luân lý (morality) như:
Cấm bất hiếu, cấm giết người,
cấm tà dâm, cấm trộm cắp...
Ở
lành thì lại gặp lành,
Ở ác gặp dữ tan tành như
mưa.
Hiện
thời, quí vị đang có những điều
tốt lành như lòng trọng kính Ông Trời,
lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ, không
sát nhân, không tà dâm, không trộm cắp, không
làm chứng dối...xin cứ tiếp tục
nắm giữ, vì những điều đó cũng
chính là những điều bên đạo Công giáo
dạy trong Mười Giới răn của
Chúa.
a/
Nhưng khi nói về cái tốt, cũng có cái tốt
hơn. Đạo cũng có đạo tốt
hơn. Đạo do loài người (như đức
Phật, đức Khổng) dạy cũng tốt,
nhưng đạo do Ông Trời (Đấng dựng
nên vũ trụ và con người) dạy, chắc
phải tốt hơn. Người mình vẫn
nói: "Gẫm hay muôn sự tại Trời".
b/
Ngoài những điều "ăn ở ngay lành",
đạo Chúa còn dạy những điều
chân thật của niềm tin, những Bí tích
của tình thương Chúa Kitô đã lập để
cứu rỗi con người...như sẽ học
sau.
c/
Đạo Chúa sẽ giúp giải quyết các thắc
mắc như: Thế giới này từ đâu
mà có? Ai là Tổ tông loài người? Tại sao
con người phải khổ đau? Chết
rồi con người đi đâu? Đâu là ý
nghĩa của cuộc đời? Đâu là ý
nghĩa của tôn giáo? Đạo Chúa sẽ giúp
ta thăng tiến cuộc sống, lợi dụng
đau khổ để lập công phúc cho cuộc
sống đời sau.
Từ
xa xưa, tại Á Đông có những bậc thánh
hiền như Khổng tử , Lão tử , Phật
Thích Ca; tại Hy lạp (Greek) có những triết
gia Platon, Socrate mở đường đi tới
chân thiện mỹ; tại Do thái cũng có Maisen
và các tiên tri (prophet), các vị ấy không phải
là Trời, nhưng là những vị được
Trời sai đi như những ngôn sứ (prophet)
mở đường cứu độ. Kinh Thánh
(The Bible) Công giáo đã viết về điều
này:
"Xưa
Thiên Chúa Cha đã dùng các ngôn sứ nói với Tổ
phụ (The Fathers) chúng ta nhiều lần nhiều
cách. Nhưng đến thời kỳ sau hết
là những ngày này, Thiên Chúa đã nói với chúng
ta qua Con của Người là Giêsu Kitô, Cứu
Chúa" (thư thánh Phaolô gửi dân Do thái Dt 1,1-4).
-
Đúng: Người theo đạo Chúa, nhiều
khi cũng bê bối, không hơn gì ai. Nhưng không
đúng, vì không phải mọi người Công
giáo theo đạo Chúa đều bê bối như
vậy, có nhiều người tốt, nhiều
thánh nhân. Đạo Chúa luôn dạy điều
tốt, nhưng người ta có bỏ tính xấu
của mình để nên tốt như đạo
dạy không? Do đó, "Theo đạo là
cần, sống đạo lại cần hơn".
5.
Theo đạo Chúa có khó lắm không?
-
Đạo Chúa khó với những ai không biết
chịu khó, nhưng không khó với những ai
biết cố gắng.
Cụ
Nguyễn Bá Học, một danh nhân nước
ta cũng đã từng nói: "Đường
đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà chỉ
khó vì lòng người ngại núi e sông".
Cha
ông chúng ta cũng dạy:
Yêu
nhau chẳng quản gần xa,
Một ngày chẳng đến
thì ba bốn ngày.
Chúa
Kitô (Ông Tổ đạo) đã lưu ý các môn
đồ như sau:
"Ai
muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập
giá mình hằng ngày mà theo Ta. Ai muốn cứu mạng
sống mình thì sẽ mất, ai bỏ mạng
sống mình vì Ta, sẽ tìm lại được
(Mt 16, 24).
Chúa
còn nói thêm một câu có tính cách tuyệt đối
về số phận đời đời như
sau:
"Được
lời lãi cả trần gian mà thiệt mạng
sống (linh hồn) mình, nào có lợi gì, lấy
gì mà đổi mạng sống mình được?"
(Mt 16,26).
Nhưng
đối với Chúa, lao lực luôn luôn đi
với phần thưởng, "Phần
thưởng lớn lao là Sự Sống muôn đời
(1 Tm 6, 11-19).
Chúa
Giêsu Kitô là Con của Chúa Trời, Người
giáng sinh làm người như ta để mở
đường đưa ta về "Nguồn
Sống". Người xưng mình là "Ta
là Đường đi, là Sự Thật, và là
Sự Sống" (Ga 14,6). Ai theo Người
sẽ được sống đời đời".
Các
bạn sẽ học hỏi về Thiên Chúa Tình
yêu, Ngài đã dựng nên ta vì yêu, đã cứu
chuộc ta vì yêu ta, ta cũng phải vì yêu mà theo
Ngài để sau này được về Nước
Ngài là Nước Thiên đàng, nơi chỉ có
sướng mà không có khổ, chỉ có hạnh
phúc mà không có bất hạnh, và kéo dài muôn đời
muôn kiếp, với những người ta yêu
mến, nhất là được sống trong
Tình yêu Chúa, Đức Mẹ và các Thần thánh.
Hạnh phúc chừng nào!
6.
Nghe cha nói thấy ham quá, vậy muốn theo đạo
Chúa phải làm những gì?
-
Cám ơn chị, xin Chúa ban nghị lực cho chị
để theo trót khóa học này và theo Chúa suốt
đời. Chúng ta sẽ học sau những điều
phải tin (kinh Tin kính), cầu xin (kinh Lạy
Cha), tuân giữ (kinh Mười Điều răn,
và nhận lãnh (kinh Bảy Bí tích). Nhớ lời
cha ông dạy:
Mặc
ai chác lợi mua danh,
Miễn
sao học được đạo lành thì thôi.
7.
Có người nói "Chỉ cần giữ đạo
tại tâm", cần gì những nghi lễ bên
ngoài. Tư tưởng đó có chấp nhận
được không?
-
Người đời thường nói:
Khôn
ngoan tâm tính tại lòng,
Lọ là uống nước
giữa dòng mới khôn!
Từ
đó người ta nói:
Đạo
tại tâm, câu nệ gì hình thức!
Đúng,
cần phải thờ Chúa tại tâm, hay nói đúng
hơn là bắt đầu từ trong tâm ra tới
bên ngoài, vì con người có cả hồn lẫn
xác. Sự tôn kính, tình yêu mến, sự giúp đỡ...
đều phải bắt nguồn từ trong
tâm rồi tỏ lộ ra bên ngoài. Thiên Chúa sẽ
căn cứ vào các ước muốn và việc
làm của bạn mà thưởng công cho bạn:
"Ta có phần thưởng để trả
cho mỗi người tùy việc chúng đã làm"
(Kh 22,12).
Không
đúng, vì con người có hồn có xác, nên cần
các nghi lễ bên ngoài để tỏ lòng tôn kính
bên trong.
Bạn
có bằng lòng khi con của bạn nghĩ trong
tâm: "Tôi kính yêu cha mẹ tôi hết lòng",
nhưng khi gặp bạn nó không chào hỏi; bạn
cậy nhờ; nó không giúp đỡ, ở xa mà
không hề gọi phôn thăm bạn. Bạn có
thích cái "tâm" ấy của con bạn không?
Người nói "đạo tại tâm"
chứ không cần nghi lễ bên ngoài chính là người
nói mà không ý thức sâu xa điều mình nói. Người
này không chú tâm thực hành những điều
đạo dạy, không muốn cố gắng.
Câu
hỏi ôn:
1.
Theo đạo Chúa phải bỏ Ông Bà Tổ Tiên,
không được tôn thờ các đấng sinh
thành sao? (để trả lời, coi câu 2, những
chữ in đậm)
2.
Có người nói "Đạo nào cũng tốt"câu
ấy đúng hay sai? (coi câu 4).
3.
Nói rằng" Chỉ cần giữ đạo
tại tâm" có đúng không? (coi câu 7).
Bài
đọc thêm
DÂN
VIỆT HIỀN HÒA ĐÓN NHẬN TIN MỪNG
CỨU RỖI
Vào
năm 1527, Mạc Đăng Dung chiếm ngôi
nhà Hậu Lê lên làm vua. Tuy vẫn theo đường
lối trị nước của nhà Lê, nhưng
các cựu thần vẫn không chịu phục.
Nhiều người tìm cách đi ẩn trên rừng
hoặc ra nước ngoài, người khác nổi
lên chống phá. Trong số những cựu thần
ra nước ngoài có Nguyễn Kim sang nước
Lào, tìm cách chiêu tập con cháu nhà Lê khôi phục
nghiệp cũ.
Năm
1533, Nguyễn Kim tôn Lê Trang Tôn lên ngôi vua và gả
con gái cho Trịnh Kiểm để cùng nhau diệt
nhà Mạc.
Công
cuộc truyền bá Đạo Thiên Chúa tại
Việt nam được chính thức bắt
đầu từ thời kỳ này. Theo sách Khâm
Định Việt Sử thì "Năm Nguyên
Hoà Nguyên niên (1533), đời Lê Trang Tôn có một
dương nhân tên là Inikhu đi đường
biển lén vào giảng đạo Giatô tại
lành Ninh cường, Quần anh thuộc huyện
Nam chân, và làng Trà lũ thuộc huyện Giao thủy".
Nhà vua đã ra lệnh cấm truyền bá đạo
mới này (Khâm Định Việt Sử Thông
Giám Cương Mục 33, 6B).
Sau
giáo sĩ Inikhu này, có hai giáo sĩ khác là Alfonso da
Costa và Juan Gonsalves người Bồ đào nha
(Portugal) được Đức Giám mục
ở Macao cử sang khu vực nhà Lê, do lời
mời của công chúa Chiêm, chị vua Lê Thế
Tôn, làm Nhiếp chính cai trị nước thay
em còn nhỏ tuổi.
Ít
lâu sau linh mục Ordonez người Tây Ban nha (Spain)
đã tới Việt nam, được vua Lê
tiếp và cho giảng đạo. Linh mục này
đã dạy đạo và rửa tội cho công
chúa Chiêm kể trên, đặt tên thánh là Maria, tức
Công Chúa Mai Hoa.
Công
chúa Mai Hoa khuyên được nhiều người
khác theo đạo, bà tổ chức công cuộc
từ thiện và lập nữ tu viện Đức
Mẹ Vô nhiễm đầu tiên tại Việt
nam. Bà đã làm Bề trên Tu viện này cho đến
khi từ trần.
Năm
1578, một phái đoàn Việt nam đến Macao
xin các thừa sai (missioners) Công giáo đến giảng
đạo trong khu vực Nhà Mạc. Chính Mạc
Mậu Hợp đã viết thư qua Macao nhờ
Đức Giám mục can thiệp. Làm như vậy
là để kéo người Bồ về phe mình,
chống lại phe nhà Lê ngày càng hùng mạnh. Nhưng
công cuộc truyền giáo khu vực này chưa
có kết quả. Dân chúng rất có thiện cảm
với nhà truyền giáo là cha Ruiz, nhưng họ
không dám xin rửa tội, nếu họ không thấy
nhà vua rửa tội trước.
Năm
1580, các linh mục Dòng Đaminh cũng đến
giảng đạo ở khu vực Chúa Nguyễn
gồm ba tỉnh Quảng bình, Thuận hoá, Quảng
nam.
Năm
1615, các linh mục Dòng Tên bắt đầu truyền
giáo tại Việt nam trong khu vực Chúa Nguyễn.
Ngay năm đầu, các Người đã rửa
tội được 300 người tại
tỉnh Quảng nam.
Năm
1627, cha Đắc Lộ và cha Marquez Dòng Tên đã
đến giảng đạo tại Thanh hoá.
Việc giảng đạo của các Người
đã thu được rất nhiều thành quả.
Các Người khuyên được cả bà mẹ
và bà chị chúa Trịnh cùng nhiều người
quí tộc nhập đạo. Tới cuối
năm 1627, hai cha đã rửa tội được
1200 người. Hai năm sau đã có 3 ngàn 5 trăm
người nhập đạo.
Năm
1648, số giáo dân tại Việt nam đã lên tới
gần 2 trăm ngàn người, sinh hoạt trong
hơn 5 trăm thánh đường.
Việc
truyền giáo tại Việt nam rất khích lệ
so với việc truyền giáo tại Nhật,
Tàu, Cao miên và Chiêm thành thời đó.
Theo
các nhà truyền giáo lúc ấy còn ghi lại thì tính
tình người Việt nam "thuần hậu,
tốt lành". Cha Buzomi Dòng Tên cho rằng người
Việt nam có những đức tính dung hoà giữa
người Trung Hoa và người Nhật. Họ
không quá thiên về văn chương, tính tình
không thâm hiểm tự kiêu, tự tôn như người
Trung Hoa, không độc ác như người Nhật;
tuy dễ nghe, dễ tin và nhiều mê tín, nhưng
biết nhận ra lẽ phải... Cha Christopher
Borri khen người Việt nam nhã nhặn lịch
sự rằng: "Dân chúng nhiều nước
ở vùng Đông Nam Á thường coi những
người Tây phương là tục tằn,
nên khinh bỉ và tìm cách tránh mặt. Trái lại
ở xứ Nam, dân chúng kéo đến gặp chúng
tôi, hỏi han chuyện vãn, mời chúng tôi dùng
bữa với họ. Nói chung, họ cư xử
với chúng tôi cách lịch sự thân mật của
một dân tộc có một văn hoá cao". (Nguyễn
Hồng, Lịch sử Truyền giáo Việt nam
trang 58). (Nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ
tháng 11/ 1987).
|