|
TẠI
VIỆT NAM CÓ BAO NHIÊU ĐẠO?
(Cầu
nguyện: Cùng nhau Làm dấu Thánh gía, đọc
Kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng)
Đề
nghị: Mở Video tape 30 phút về Nghi lễ
Giỗ Tổ Hùng Vương hay nghi lễ Tôn
kính Ông Bà, Tổ tiên).
Câu
chuyện mở đầu:
Hành trình về với Cha
(Bài
viết của Hồng Phượng, trong Cảm
Nghiệm Ơn Sủng tập I, do Lm. Nguyễn
Trọng Tước S.J. xuất bản năm
1992).
Ba
má tôi chỉ thờ cúng Ông Bà chứ không vào đạo
nào cả, còn dòng họ tôi theo đạo Phật,
năng đi chùa. Riêng tôi, suốt 16 năm tôi
chẳng biết Phật cũng chẳng biết
Chúa là ai.
Tôi
vượt biên chỉ mong cho cuộc sống
được sung sướng hơn, chứ
chẳng để ý gì vấn đề tôn giáo.
Không ngờ cuộc ra đi lại là cuộc
gặp gỡ đức tin.
Thuyền
tôi lênh đênh trên biển 5 ngày, dập vùi như
cát bụi. Lúc đó tôi chỉ biết khóc, chứ
biết gì mà cầu nguyện. Sau lưng tôi
là 2 mẹ con dì Ái. Tôi hỏi: "Sao dì không cầu
xin Ông Bà giúp cho ghe mình qua khỏi mà dì cứ đọc
cái gì vậy?" Tôi rất lấy làm lạ,
vì chưa nghe ai cầu nguyện như dì tôi. Tôi
chú ý mãi rồi thuộc cả kinh Kính Mừng,
Lạy Cha và Sáng Danh.
Tới
Palawan vài tuần là tôi đi học giáo lý. Tôi đi
học là do sự ép buộc chứ tôi không tin
về đạo. Tôi học 4 tháng mà không có gì
làm tôi hứng thú. Tôi đi nhà thờ cũng là
vì ép buộc.. Một hôm tôi cảm thấy mình
không còn niềm tin nữa, tôi nghỉ học 2
tuần, cũng không tới nhà thờ. Mẹ
nuôi tôi rất buồn. Thời gian ấy tôi quá
sầu muộn, muốn vào chùa để xuống
tóc. Về sau nhìn lại những ngày này, tôi thấy
khi mới tới đảo, tinh thần tôi chưa
được ổn định, nhất là chuyện
sứt mẻ giữa tôi và mẹ nuôi, cũng
như những người trong nhà. Nhưng những
ngày tôi không đến nhà thờ, lòng tôi thấy
cái gì buồn bã, bứt rứt trong lương
tâm. Dần dần tôi lại muốn đi học
giáo lý và đi nhà thờ. Khi muốn học trở
lại, tôi lại sợ thầy không cho tôi vào
lớp. Mẹ nuôi tôi phải gọi lên nhờ
cha can thiệp. Tôi nhận được giấy
cha gọi nhưng tôi không lên. Hai giờ chiều
hôm ấy, nghe loa gọi tên tôi, tôi mới chịu
đi. Khi tôi bước vào phòng, cha chạy lại
ôm tôi. Cha chỉ dẫn cho tôi nhiều điều.
Bấy giờ tôi mới thấy mình có lỗi.
Trong
7 tháng rưỡi học giáo lý, tôi không thấy
Chúa ban cho tôi ơn gì đặc biệt. Khi rửa
tội xong, tôi mới cảm thấy ơn Chúa
xuống với tôi. Từ ngày được
rửa tội, nhà thờ trở nên hình ảnh
ấm cúng của lòng tôi. Lời kinh không còn bỡ
ngỡ, xa lạ. Tôi thương gia đình và
thích cầu nguyện cho gia đình nhiều. Cũng
những ngày này, tôi nghe tin hai mẹ con dì tôi đã
chết giữa biển, tôi thương cho dì
tôi và em tôi vô cùng, vì chưa biết Chúa. Đêm
ấy tôi nằm mơ, thấy tôi đến
nhà thờ cầu nguyện cho dì. Khi tỉnh dậy,
thấy mình đang khóc ở nhà. Lúc ấy tôi càng
tin vào Chúa hơn. Tôi biết là tôi có thể cầu
nguyện cho dì, mặc dầu dì không có đạo
Chúa. Chiều hôm ấy, tôi đi lễ, tôi thấy
lòng mình vui hơn khi trước. Lúc rước
lễ xuống, tôi muốn cầu nguyện mà
tôi chẳng biết cầu nguyện làm sao, tự
nhiên tôi nghĩ ra cách cầu nguyện là: Lạy
Chúa, xin Chúa dạy con cách cầu nguyện. Sau
đó tôi cầu xin Chúa cứu thoát những linh
hồn cô đơn, không có ai cầu cho. Tự
nhiên tôi nghẹn ngào rồi ứa nước
mắt. Tôi cảm nhận là những lời tôi
cầu đã thấu đến Chúa. Từ ngày
đó tôi không còn lạc lõng lẻ loi, vì tôi đã
có người để tâm sự khi tôi buồn..."
Tìm
hiểu:
1.
Nhân loại luôn thao thức tìm kiếm điều
gì?
-
Đọc lịch sử, ta thấy nhân loại
luôn thao thức kiếm tìm ý nghĩa cuộc sống,
và cái chết của mình. Người ta tự
hỏi: Tại sao tôi sinh ra trên trần gian? Tại
sao phải đau khổ? bệnh tật? Tại
sao phải chết? Chết rồi sẽ đi
đâu? Có Thiên đàng (Paradise) Địa ngục
(Hell) như người ta nói không? Có Thượng
đế (God) không? Tại sao người ác nhiều
khi được sung sướng, còn người
lành lại gặp khổ đau? Phải chăng
"Trời xanh" không có mắt?
Các
triết gia (philosopher) đã cố công tìm ra những
câu trả lời cho nỗi băn khoăn của
con người, đã lý luận tìm ra đâu là
Nguyên nhân Tối cao, đâu là Yếu tố Vô hình
điều khiển vũ trụ, nhưng vẫn
chưa giúp con người hoàn toàn thoả mãn.
Người ta cần đến tôn giáo.
Ý
niệm về tôn giáo là ý niệm phổ quát nơi
mọi dân tộc, dù man di mọi rợ hay văn
minh tân tiến: Người Do thái (Jews) được
Thiên Chúa tuyển chọn tỏ mình ra cho biết
Danh Ngài là Đấng Tự hữu (Tự mình
mà có không ai có trước Ngài). Các dân tộc khác,
tùy văn hoá mỗi nơi, tôn thờ nhiều
thần minh (gods) khác nhau với nhiều nghi lễ
khác nhau: Người Rôma thờ thần Jupiter,
người Phenicia thờ thần Baal, người
Ba tư (Persian) thờ thần Ánh sáng (Ormuz), người
Ấn độ thờ Đấng Chí linh (Bhram),
người Tàu thờ Đấng Thượng
Đế (God).
Tại
Việt Nam xưa kia, người Kinh cũng như
người Thượng đều thờ cúng
nhiều vị thần khác nhau tùy làng, tùy miền,
nhưng trên hết các thần, người Việt
vẫn kêu cầu Ông Trời cao Cả mọi
nơi mọi lúc.
2.
Người Việt nam theo những đạo
nào?
-
Tại Việt nam có tới 11 đạo khác nhau:
1. Đạo thờ Thần (Idolatry)
2. Đạo thờ Ông bà (Ancestor
Worship)
3. Đạo Lão (Taoism)
4. Đạo Khổng (Nho giáo) (Confucianism)
5. Đạo Phật (Buddhism)
6. Đạo Công Giáo (Catholicism)
7. Đạo Thệ phản (Tin
Lành: Protestantism)
8. Đạo Cao Đài (Caodaism)
9. Đạo Phật giáo Hoà Hảo
(Hoa Hao Buddhism)
10. Đạo Baha'i (Baha'ism)
11. Đạo Hồi (Hồi giáo)
(-
Đạo Thờ Thần: Thật ra, khó có thể
kể hết tên các vị thần linh của
người Việt. Trên trời có thần mưa,
thần gió, thần sấm, thần sét, thần
mặt trời, mặt trăng; dưới đất
có thần tử, thần sinh, thần cây đa
cây đề; dưới sông có thần Hà bá; trong
nhà có Thổ công (Thần đất được
thờ trong miếu nhỏ), thần Táo (thờ
trong bếp), thần Tài; trong làng có Thành hoàng, Phúc
thần... Mỗi nghề nghiệp, mỗi địa
phương đều có thần riêng.
Thờ
Thần chỉ là những lối tỏ bày niềm
tin nơi các Sức mạnh linh thiêng mà người
ta tin rằng có quyền che chở và chúc phúc, có
ảnh hưởng đến con người
từ lúc còn là bào thai trong lòng mẹ tới khi
nhắm mắt đi vào lòng đất.
Qua
việc tôn thờ này, có những điều mê
tín, nhưng cũng có những điều hay.
Dù không có quan niệm rõ ràng về sự Sống
đời sau, nhưng "Việc thờ thần
linh cũng nói lên việc nhớ ơn người
trước, nhắc nhớ những gương
sáng tiền nhân để lại, và bảo nhau
làm điều lành lánh điều dữ".
(Toan Ánh, Tín Ngưỡng Việt nam, quyển thượng
trang 192).
-
Đạo Thờ Ông bà: Đây không hẳn là một
tôn giáo, nhưng chỉ là chuyện gia đình:
Con cháu tỏ lòng hiếu thảo biết ơn
đối với ông bà tổ tiên khi còn sống
cũng như lúc đã qua đời. Xác ông bà
được chôn táng ngay trong vườn cạnh
nhà. Vong linh (spirit) ông bà coi như đang sống
nơi giường thờ. Từ việc tết
nhất, cưới hỏi, từng bữa cơm,
lúc vui buồn, khi con cháu ốm đau..., ông bà
đều được nhớ đến,
được khấn vái. Tùy gia đình giầu
nghèo, tùy lúc bình thường hay cấp bách. Mâm
cúng thường là một mâm cơm, hoặc ít
là trầu cau hoa quả. Giữa đêm khuya, cúng
một chén nước lã với nén hương.
Thời gian cúng là chờ cho tàn một tuần
hương, tức là chờ bó nhang cháy lụn,
lúc đó kể như ông bà đã dùng của lễ
dâng. Sau đó dọn xuống để con cháu
cùng nhau hưởng. Con cháu phải lo ăn ở
sao cho khỏi mang chữ bất hiếu. Lời
cha mẹ dặn văng vẳng bên tai. Dòng máu
tổ tiên sôi trong huyết mạch, người
con cảm thấy tủi hổ về cách ăn
ở của mình nếu đã làm điều bất
xứng.
Việc
thờ cúng Ông bà nhắc nhớ cho con cháu quí trọng
hồn thiêng sống mãi, và gắng sao cho chính mình
sau này cũng được mát mẻ dưới
"suối vàng" với Tổ tiên.
Tại
Việt nam, số người thờ cúng ông bà
tổ tiên chiếm số đông nhất trong
toàn thể dân số.
Đạo
Ông bà có nhắc cho ta sau này sống dưới
"Suối vàng" với Ông Bà, nhưng điều
đó không có gì là chắc chắn, chỉ là những
điều ước ao từ tâm thức con
người mong một cõi linh thiêng giải thoát
khổ cực đời này.
-
Đạo Lão: Vị Sáng lập Đạo Lão
là Lão Tử bên Tàu. Đạo có từ 7 thế
kỷ trước Chúa Kitô ra đời. Theo tác
giả Phan Kế Bính trong Việt Nam Phong tục:
"Lão tử soạn ra bộ Đạo Đức
kinh gồm năm nghìn câu nói, chủ ý dạy con
người giữ "Cách tự nhiên thanh tĩnh,
không cần phải làm gì". Muôn việc cứ
phó mặc tự nhiên, không cần phải lo lắng
nghĩ ngợi, mới hưởng được
khoái lạc tiêu dao". Trong nhân loại, người
gần Đạo nhất là đứa trẻ
hồn nhiên sống vui tươi.
Về
phương diện triết lý, Lão Tử cho rằng
Đạo là nguyên lý huyền diệu, vô hình, vô
sắc, đã sinh ra âm dương trời đất
và muôn vật. Muôn vật sinh ra khắp cả
thế gian rồi lại quay trở về đạo,
để lại hóa ra muôn vật muôn loài, theo
cuộc tuần hoàn biến cải thiên nhiên. Đạo
Lão không đề cao Thượng đế và
không nói tới sự Sống đời sau.
Đạo
Lão được truyền vào Việt Nam cùng
với việc cai trị của người
Trung Hoa. Đã có thời toàn thịnh, ảnh hưởng
giới trí thức chán công danh, ưa nhàn du, tiêu
dao phóng khoáng; ảnh hưởng giới bình dân
ưa chuyện đồng bóng thần tiên huyền
ảo.
-
Đạo Khổng: Theo một truyền thuyết,
Đức Khổng Tử đã lập đạo
này vào cuối thế kỷ 6 trước Chúa
Kitô.
Tôn
chỉ đạo Khổng là xây dựng con người
và xã hội qua việc: Tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ. Để đạt
đích trên, con người cần giữ luân
lý tam cương (vua-tôi, cha-con, vợ-chồng);
nam giới cần có ngũ thường (nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín); nữ giới cần
có tam tòng (ở nhà theo cha, lấy chồng theo
chồng, chồng chết theo con) và tứ đức
(công, dung, ngôn, hạnh).
Học
thuyết căn bản trong đạo Khổng,
hay đạo Nho, là tuân theo mệnh Trời (Thiên
mệnh). Thiên mệnh hướng dẫn hoạt
động của mọi người, không ai
thoát khỏi.
Khổng
giáo truyền vào Việt nam cùng với việc
cai trị của người Trung Hoa và đã
gây ảnh hưởng rất lớn trong đời
sống và văn chương người Việt
từ Vua Chúa tới dân thường, đã có
thời trở thành quốc giáo.
Đạo
Khổng tuy đề cao Trời, nhưng không
nói tới Sự Sống đời sau. Đức
Khổng chỉ nói:"Khi chết, phách con người
trở về với đất, khí con người
bay lên không trung".
-
Đạo Phật: Phật tổ tên là Gautama
Shidata, con vua nước Ấn độ, sinh
năm 563 trước Chúa Kitô. Năm 29 tuổi,
Người đi thăm dân chúng ở kinh thành,
gặp nhiều cảnh khổ của dân, Người
quyết định rời cung điện đi
tìm đường giải thoát. Sau thời gian
tu luyện, năm 35 tuổi, Người đã
tự giác ngộ, tìm được đường
giải thoát khi đang suy niệm cạnh cây bồ
đề trong một đêm trăng tròn tháng Năm
dương lịch. Do đó, Người được
gọi là Buddha (Bụt, Phật).
Đạo
Phật chủ trương "giải thoát con
người". Theo Đức Phật: Đời
là bể khổ, sinh khổ, bệnh khổ, già
khổ, chết khổ. Mà nguồn gốc của
khổ là lòng tham muốn. Vậy muốn khỏi
khổ phải diệt lòng tham muốn. Khi đã
diệt được lòng tham muốn rồi,
con người sẽ được giải
thoát.
Về
niềm tin: Mỗi người có nhiều Kiếp
(đời). Từ kiếp này Đầu thai
(reincarnate) qua kiếp khác gọi là Luân hồi
(xoay vần như bánh xe không ngừng). Tin Nhân-Quả:
Cái Nghiệp (Karma: phận việc) ta chịu
ở kiếp này sinh từ cái Quả ta đã
làm ở kiếp trước, và Nghiệp ta làm
ở kiếp này là cái Nhân của ta ở kiếp
sau. Nghiệp báo cứ luân hồi mãi cho tới
khi giải thoát xong mà được về Niết
bàn (nơi hư không). (Lê Văn Đức, Lê
Ngọc Trụ, Việt Nam Tự Điển
trang 199 Phần III).
Về
luân lý: Dạy giữ ngũ giới: Cấm
sát sinh, cấm trộm cướp, cấm gian
dâm, cấm nói dối, cấm rượu thịt.
Đạo
Phật không dạy tin có Thượng đế.
Trên con đường giải thoát, người
ta tùy sức mình, không cần ai hay thần thánh
nào cả. Sau khi qua các vòng luân hồi, con người
được lên cõi Niết bàn. Trong kiếp
người, con người có thể tự hủy
mạng mình, tức tự thiêu.
Đạo
Phật vào Việt Nam khi người Trung Hoa sang
đô hộ từ thế kỷ II. Đã có những
thời kỳ rất thịnh đến trở
thành quốc giáo và ảnh hưởng rất
nhiều trong dân gian cũng như trong văn học
(theo Phan Phát Huồn, Việt Nam Giáo sử, quyển
II, trang 126).
Phải
chăng Đức Phật thấy trước
Đức Kitô sẽ ra đời khi Người
nói với Ananda: "Ta không phải là Đức
Phật đầu tiên giáng thế, mà cũng không
phải là Đức Phật cuối cùng. Lúc cần
đến, sẽ có một Đức Phật
khác xuất hiện trên thế giới, một
vị chí tôn, chí tuệ, hành vi đạo đức,
đem lại điềm lành, biết rõ vũ
trụ, một vị lãnh đạo vô song của
loài người, một vị chúa tể của
thiên thần và thế nhân, Đức Phật
ấy sẽ dạy những chân lý bất diệt"
(Trịnh Văn Thanh, Thành Ngữ Điển Tích
Danh Nhân Từ Điển, Xuân Thu xuất bản,
trang 334).
Đạo
Phật có nói tới Niết bàn, nhưng Niết
bàn chỉ là cõi hư không, không còn đau khổ.
Niết bàn Phật giáo không có gì là tích cực,
không phải là sự Sống đời đời
như con người ước mơ, bù vào những
hy sinh đời này.
-
Đạo Tin lành: Gọi đúng ra là đạo
Thệ phản (Protest). Đạo Tin lành phát xuất
từ Đạo Công giáo.
Theo
lịch sử, Ông Lutherô, một linh mục Công
giáo người nước Đức (Germany),
năm 1517 đã phản đối giáo huấn
của Giáo hội Công giáo về các vấn đề
Ân xá, Bí tích, lời khấn hứa..., phủ nhận
quyền lãnh đạo tối cao của Đức
Giáo hoàng Rôma.
Mười
hai năm sau khi tuyên thệ phản đối,
ông và đồng bạn đã tuyên bố tách rời
Giáo hội Công giáo Rôma, lập giáo phái mới.
Lấy Tin Lành Phúc âm làm sách kinh hướng dẫn
đời sống đạo. Do đó gọi
là đạo Tin lành.
Ông
chủ trương người ta nên công chính
(justification) bằng đức tin của mình,
công nghiệp của cá nhân không ích gì cho phần
rỗi linh hồn. (Lm. Bùi Đức Sinh, OP, Lịch
sử Giáo hội Công giáo, Sài gòn 1972, II trang 9).
Vì
không có thủ lãnh tối cao, đạo Tin lành
sau đã lan ra thành nhiều phái khác nhau.
Đạo
Tin lành vào Việt Nam thời người Pháp qua
đặt nền đô hộ tại Nam Kỳ.
Năm 1911 người Tin lành Mỹ tới mở
trường dạy Thánh Kinh và huấn luyện
nhà truyền giáo. (Lm. Phan Phát Huồn, Việt nam
Giáo sử, II, Sài gòn 1962, trang 195).
Ông
Lutherô chủ trương thuyết Tiền định
(Predestination), theo đó, sự sống đời
đời của mỗi người đã được
Thiên Chúa định sẵn, cho dù con người
có cố gắng cũng vô ích. Thật ra trong Kinh
Thánh, Chúa nói rõ trong sách Khải huyền chương
22, câu 12 như sau:"Họ sẽ được
trả công tùy theo việc họ làm (22, 12).
-
Đạo Cao Đài: Người thành lập
đạo Cao đài là ông Ngô văn Chiêu quê tại
Bình Tây Chợ lớn, cùng với nhóm trí thức
hay cầu cơ ở Sàigòn.
Mục
đích đạo Cao đài (đài đấng
Tối cao) là nhắc cho mọi người bổn
phận với mình, với gia đình, với
xã hội và với thế giới. Đạo
khuyên con người từ bỏ danh vọng,
xa hoa trần thế để tìm an bình cho tâm
hồn.
Đạo
Cao đài xuất hiện vào năm 1926. Trụ
sở trung ương, tức Toà thánh đặt
tại Tỉnh Tây Ninh, Nam Việt.
Đạo
Cao đài là tổng hợp các đạo Khổng,
Lão, Phật và Công giáo. Đạo này nhận có
linh hồn bất diệt và luân hồi. Đạo
lấy Con Mắt (Thiên nhãn) là biểu hiệu
sự sáng suốt của Đấng Chí Tôn. Cầu
Cơ là lối duy nhất để hỏi ý
Người và các Tiên thánh trong việc hành đạo.
Tín
đồ phải giữ chay từ 2 tới 10
ngày một tháng, tùy là thượng thừa hay
hạ thừa. Cầu nguyện hằng ngày lúc
sáng, trưa, chiều và 12 giờ khuya.
Đạo
Cao đài cũng không chủ trương rõ rệt
về sự Sống đời đời, là
nơi hạnh phúc trường kỳ.
-
Đạo Phật giáo Hoà hảo: Do Đức
Huỳnh phú Sổ người làng Hoà Hảo tỉnh
Long Xuyên, Nam Việt sáng lập năm 1939. Phật
giáo Hoà hảo chọn màu dà (màu nâu nhạt)
là màu tổng hợp các mầu, tượng trưng
sự hợp nhất các chủng tộc.
Đạo
Phật giáo Hòa hảo khuyên người đời
thực hiện Tứ đại ân: Đền
ơn cha mẹ, đất nước, Phật
Pháp Tăng, đồng bào nhân loại.
Đạo
dạy tránh sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Giữ
bát chánh (kiến, tư duy, nghiệp, tín, tấn,
mạng, niệm, định) (theo Trịnh văn
Thanh, Thành ngữ điển tích Danh nhân Từ
điển).
Vì
ảnh hưởng của Phật giáo, nên chủ
trương về sự Sống đời sau
cũng giống như Phật giáo, tức là cõi
Niết bàn.
-
Đạo Baha'i: Phát sinh từ Islam (Hồi giáo),
nước Ba tư năm 1844, là năm ông Ali
Muhammad xưng mình là Bab (cửa ngõ). Ông chủ
trương thống nhất các tôn giáo trên thế
giới, chờ Chúa giáng lâm (lại xuống vào
thời tận thế). Thống nhất để
chỉ có một Thượng đế, một
giáo chủ, một thứ tiếng, một tòa
án quốc tế.
Hiện
có tới 6 triệu tín đồ trong 200 quốc
gia. Ông tổ và nhiều người đạo
này bị người đạo Hồi giết
hại, vì họ không muốn Bahai bành trướng.
Đạo
Bahai tin Thượng đế siêu việt, không
thể hiểu. Nhưng Thượng đế
đã sai xuống trần nhiều tiên tri từ
Abraham Phật, Giêsu, tới Bab. Không có giáo sĩ,
Bí tích hoặc nghi lễ. Cầu nguyện
hằng ngày, giữ 9 ngày lễ, chay 19 ngày
trong năm, không uống rượu, hoặc hút
xách, coi công việc như hành vi thờ phượng,
nếu có thể viếng Thủ đô đặt
tại Haifa, Israel một lần trong đời.
Đạo
Baha'i vào Việt nam năm 1934.
Đạo
Bahai không chủ trương rõ rệt về sự
Sống đời sau.
(Tài
liệu trong Internet 97).
-
Đạo Hồi (Hồi giáo - Islamism): Do ông Mahômet
thành lập khoảng năm 622. Ông là dòng dòi Ismael,
con tổ phụ Abraham. Năm 40 tuổi, ông tự
xưng là tông đồ và ngôn sứ (prophet) của
Thiên Chúa, được ơn mạc khải
(revelation) và được sai đến để
cải cách tôn giáo, xã hội. Nhờ đọc
Kinh Thánh của Công giáo, ông đã viết sách Quran
coi như Kinh thánh của đạo ông và truyền
lại cho dân Ả rập.
Bổn
phận của người Hồi, coi như
5 cột tru:
1.
Đọc kinh Tin kính (Không có Thiên Chúa nào khác, trừ
ra Thiên Chúa và Mahomet là tiên tri của Người),
nhiều người đọc hằng ngày.
2.
Cầu nguyện mỗi ngày 5 lần (sáng, trưa,
sau trưa, sau mặt trời lặn, trước
đi ngủ), quay mặt về Thủ đô
Mecca mà đọc.
3.
Đóng thuế 2,5% cho quĩ bác ái.
4.
Ăn chay trong tháng Mahomet nhận kinh Quran từ
Allah.
5.
Nếu có thể, hành hương Mecca một lần
trong đời.
-
Hồi giáo tin vào một Thiên Chúa quyền phép,
và thương xót, công bằng, Mahomet là đại
tiên tri cuối cùng của Thượng đế..
Tin có Satan, có thiên đàng, hỏa ngục, nhưng
thiên đàng có thỏa mãn xác và hồn.. Kiêng rượu,
xì ke, cờ bạc, cấm thịt heo, cấm
kỳ thị màu da. Về hôn phối, đàn ông
được lấy 4 vợ chính và một số
nàng hầu vô định. Trong gia đình, người
đàn ông có toàn quyền sinh sát.
Về
sự sống đời sau, Hồi giáo chủ
trương: Ai không có đức tin sẽ phải
sa hỏa ngục, ai có đức tin sẽ được
lên thiên đàng. Thiên đàng của Hồi giáo
nặng về thú vui thể xác như được
hưởng rượu ngon, thịt béo, mỹ
nhân...
Hồi
giáo Việt Nam thuộc khối Á châu phần lớn
do người Việt gốc Chàm tin theo.
Câu
hỏi ôn:
1.
Người Việt theo những đạo nào?
(coi số 2 trên).
2.
Việc thờ cúng Ông Bà nhắc nhớ con cháu
điều gì? (coi đạo Ông Bà).
3.
Tôn chỉ của đạo Khổng là gì? (coi
đạo Khổng).
Đề
nghị:
-
Tập bài hát cầu cho Tổ tiên, Ông bà cha mẹ:
"Lạy
Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ
yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu
soi trên các linh hồn ấy. Lạy Chúa, Chúa đáng
được chúc tụng trên Sion, và từ Giêrusalem
những lời tán tụng hướng về
Chúa. Xin Chúa nhận lời con khẩn cầu.
Chúa là cùng đích mọi người sẽ phải
tới".
Bài
đọc thêm
NGƯỜI
CÔNG GIÁO TÔN KÍNH ÔNG BÀ TỔ TIÊN
Theo
Thông cáo của 7 Giám mục chủ tọa khoá
Hội thảo 7 về Truyền bá Phúc âm toàn quốc
tại Nha trang, ký ngày 14.11.1974 thì:
"Để
đồng bào lương dân dễ dàng chấp
nhận Tin Mừng, hội nghị nhận định
những cử chỉ, thái độ lễ nghi
sau đây có tính cách thế tục, lịch sự
xã giao để tỏ lòng hiếu thảo, tôn
kính và tưởng niệm các Tổ tiên và các bậc
anh hùng liệt sĩ, nên được thi hành
và tham dự cách chủ động (Thông cáo Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam ngày 14.06.1965)
1.
BÀN THỜ GIA TIÊN: Để kính nhớ ông bà tổ
tiên, được đặt dưới bàn
thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ
không bày biện điều gì mê tín dị đoan
như hồn bạch...
2.
VIỆC ĐỐT NHANG: Hương đèn nến
trên bàn thờ gia tiên, và vái lậy trước
bàn thờ, giường thờ Tổ tiên là những
cử chỉ, thái độ hiếu thảo,
tôn kính, được phép làm.
3.
NGÀY GIỖ: Cũng là ngày Kỵ nhật, được
"cúng giỗ" trong gia đình theo phong tục
địa phương, miễn là loại bỏ
những gì dị đoan mê tín, như đốt
vàng mã, và giảm thiểu, canh cải những
lễ vật biểu dương đúng ý nghĩa
thành kính, biết ơn ông bà như dâng hoa trái hương
đèn.
4.
TRONG HÔN LỄ: Dâu rể được làm lễ
tổ, lễ gia tiên trước bàn thờ, giường
thờ tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ
lòng biết ơn hiếu kính, trình diện với
ông bà.
5.
TRONG TANG LỄ: Được vái lậy trước
thi hài người quá cố, đốt hương
vái theo phong tục địa phương để
tỏ lòng tôn kính người đã khuất, cũng
như Giáo hội cho đốt nến xông hương,
nghiêng mình trước thi hài người quá cố.
6.
TẠI ĐÌNH LÀNG: Được tham dự nghi
lễ tôn kính vị Thành hoàng quen gọi là Phúc
thần tại đình làng để tỏ lòng
cung kính biết ơn những vị mà theo lịch
sử đã có công với dân tộc hoặc là
ân nhân của làng, chứ không phải vì mê tín như
đối với các "yêu thần, tà ma".
Lưu
ý: Trong trường hợp thi hành các việc trên
đây, sợ có sự hiểu lầm, nên khéo
léo giải thích qua những lời phân ưu, khích
lệ, thông cảm...
Đối
với giáo dân, cần phải giải thích cho
hiểu việc Tôn kính Tổ tiên và các Vị anh
hùng liệt sĩ theo phong tục địa phương,
là một nghĩa vụ hiếu thảo của
đạo làm con cháu, chứ không phải là những
việc tôn kính liên quan đến tín ngưỡng,
vì chính Chúa cũng truyền phải thảo kính
cha mẹ, đó là giới răn sau việc thờ
phượng Chúa".
Nha
Trang, ngày 14.11.1974
Nguyễn
Kim Điền, Tổng GM Huế; Nguyễn Văn
Thiện, GM Mỹ tho; Nguyễn Văn Mầu,
GM Vĩnh Long; Nguyễn Ngọc Quang, GM Cần
thơ; Nguyễn Văn Thuận, GM Nha Trang; Nguyễn
Huy Mai, GM Ban mê thuột; Huỳnh Đông Các, GM
Qui nhơn.
***
Đối với người Công giáo Việt
Nam, việc tôn kính tổ tiên qua những hình thức
bên ngoài, ngày nay đã thịnh hành hơn trước.
Người ta có thể đặt hình ảnh,
bài vị ông bà cha mẹ nơi tôn nghiêm, hoặc
bên dưới toà Chúa, Đức Mẹ. Người
ta có thể cầm hương vái lậy Chúa,
Đức Mẹ và ông bà tổ tiên mà không còn phải
áy náy, vì người ta đã phân biệt những
hành vi tôn thờ Thiên Chúa, đặc biệt tôn
kính Đức Mẹ, tôn kính các thánh nhân, tôn kính
Tổ tiên, Ông bà cha mẹ mình.
|
|