CHÚA
KITÔ LẬP CÁC BÍ TÍCH BAN LẠI VÀ NUÔI DƯỠNG
SỰ SỐNG MỚI
(3.
Những điều phải NHẬN LÃNH trong đạo
Công giáo được tóm lại trong kinh Bảy
Bí tích)
(Đề
nghị: Mở video phim Jesus of Nazareth phần Chúa
lập Bí tích Thánh Thể., hoặc đọc
đoạn Kinh Thánh sau nói lên việc Chúa Kitô lập
Bí tích Rửa tội:
Bài trích
Tin mừng theo thánh Mathêu (Mt 28,18-20)
"Khi
ấy Chúa Giêsu tiến lại nói với các môn
đệ Người rằng: Thầy đã
được ban toàn quyền trên trời dưới
đất.
Anh em hãy
đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,
làm phép Rửa cho họ Nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con,
và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ
những điều Thầy đã truyền cho
anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi
ngày cho đến tận thế".
1. Đạo
Đức Chúa Trời có 7 Phép Bí tích:
Thứ nhất là
phép Rửa tội,
Thứ hai là phép Thêm sức,
Thứ ba là phép Mình Thánh Chúa,
Thứ bốn là phép Giải tội,
Thứ năm là phép Xức dầu thánh,
Thứ sáu là phép Truyền chức thánh,
Thứ bảy là phép Hôn phối.
2. Bí tích
(Sacrament) chữ tắt của dấu tích và bí
nhiệm. Khi linh mục rửa tội, người
ta thấy được dấu tích (đổ
Nước rửa tội), nhưng không thấy
được bí nhiệm (Ơn Chúa ban trong tâm
hồn để tha tội Tổ tông).
3. Chúa Giêsu
đã lập 7 Bí tích trong các hoàn cảnh khác nhau.
Những Bí tích này có mục đích Ban lại sự
sống linh hồn (Rửa tội), Nuôi dưỡng
sự Sống linh hồn (Thánh Thể)...
4. Ơn
thánh hay ơn Chúa (grace) là sự trợ giúp của
Chúa để con cái Chúa sống đạo cho
được cứu rỗi. Chúa Kitô phán: "
Không có Ta, các con không thể làm được
việc gì" (Ga 15,5).
Có 2 thứ
ơn thánh:
a) Ơn
Thánh hoá (Sanctifying grace) (Glcg92 2000).
Ơn Thánh
hoá là ơn Chúa ban làm ta nên con Chúa và con Giáo hội,
nhờ công nghiệp Chúa Kitô ta đáng hưởng
ơn cứu rỗi đời đời trên
Thiên đàng.
Ơn Thánh
hoá được Chúa ban lần đầu tiên
khi người ta lãnh Bí tích Rửa tội (sẽ
học sau).
Ơn Thánh
hoá có thể mất khi ta phạm tội trọng
(sẽ học sau). Nhưng có thể lấy lại
bằng cách lãnh Bí tích Giải tội (sẽ học
sau), hoặc ăn năn tội cách trọn (vì
đã phạm đến tình yêu Chúa), khi không thể
lãnh Bí tích Giải tội.
b) Ơn
Hiện trợ (Actual grace) là sức mạnh
Chúa ban tùy lúc, nhất là khi lãnh Bí tích, khi cầu
nguyện giúp ta làm lành lánh dữ trong cuộc sống
đạo.
* Để
dễ hiểu mỗi Bí tích, ta so sánh từ tự
nhiên (con người) tới siêu nhiên (con Chúa):
Con người-----------------------------Con
Chúa
1. Chào đời----------------------------Rửa tội
2. Đi lính bảo vệ quốc gia--------------Thêm
sức làm chứng nhân bảo vệ Giáo Hội
3. Ăn uống để xác sống ---------------Mình
Thánh Chúa của ăn linh hồn
4. Chữa vết thương xác----------------Hòa
giải chữa vết thương hồn
5. Bổ sức thân thể già yếu---- ---------Xức
dầu bổ sức linh hồn
6. Viên chức phục vụ xã hội-----------Chức
thánh phục vụ GH.
7. Hôn phối đời đào tạo con người-----Hôn
phối đạo đào tạo con Chúa
Giải
nghĩa từng Bí tích:
1. Bí tích
Rửa tội (Sacrament of Baptism):
(Như
trẻ em được sinh vào đời để
làm "con người"; người lãnh Bí
tích Rửa tội được sinh vào Giáo hội
để làm "CON CHÚA")
Chúa Giêsu
lập Bí tích Rửa tội (Mt 28,18-20) trước
khi Người về trời để ban lại
Sự Sống linh hồn cho những người
tin theo Chúa.
Họ được
tha mọi tội (tội Tổ tông và tội
riêng nếu có), tha mọi hình phạt bởi tội,
ban ơn Thánh hoá cho nên CON CHÚA, CON Giáo Hội Công
Giáo (Glcg92 1250).
Bí tích Rửa
tội rất cần để được
vào Nước Trời. Chúa phán: "Ai không sinh
lại bởi nước và Thánh thần thì không
được vào Nước Đức Chúa Trời"
(Ga 3,5) (Glcg92 số 1257)
Có 3 cách
rửa tội: - Nước - Máu (chết vì tin
Chúa, và Lửa (ước muốn tin theo Chúa) (Glcg92
số 1258,1260).
a) Lúc bình
thường thì linh mục hoặc phó tế sẽ
rửa tội trong thánh đường (church),
ghi sổ lưu trữ cẩn thận,
b) Khi khẩn
cấp (danger of death) thì ai rửa cũng được
(kể cả người ngoài Công giáo, nhưng
nếu ở đó có người Công giáo thì người
Công giáo được ưu tiên) (Glcg92 số
1256).
Cách thức
rửa tội theo Giáo hội Công giáo dậy: Lấy
nước lã đổ trên đầu kẻ
lãnh đồng thời đọc lời này:
"Tôi rửa...nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần".
* Rửa
tội trẻ con:
Giáo hội
dạy "Cha mẹ liệu cho con được
rửa tội trong những tuần lễ đầu
tiên", và "Nếu hài nhi gặp cơn nguy
tử, phải rửa tội cho nó ngay, không chút
trì hỗn" (GL 867). Đừng theo vài người
nói: Để nó lớn nếu muốn, nó sẽ
xin rửa tội. Cha mẹ cần làm điều
tốt cho con.
Cần
một người Công giáo có đời sống
tốt lành để đỡ đầu (sponsor)
cho người được rửa tội.
Người đỡ đầu có trách nhiệm
cầu nguyện và giúp con thiêng liêng mình sống
đạo tử tế theo các giới răn
của Chúa (GL 872).
* Rửa
tội người lớn sắp chết:
Trước
khi rửa tội, nếu có thể, cần hỏi
họ những điều sau: - Có tin Thiên
Chúa dựng nên trời đất không?, - Có tin
Thiên Chúa thưởng phạt công bằng không?,
- Có tin một Chúa Ba ngôi, ngôi Hai ra đời chuộc
tội không?, - Có tin Thiên đàng thưởng kẻ
lành, Hoả ngục phạt kẻ dữ đời
đời không?, - Nếu bệnh nhân khỏe
mạnh có bằng lòng đi học giáo lý không?
Khi họ
được khỏe lại, trình bày với
linh mục trách nhiệm giúp giáo lý cho họ.
* Rửa
tội khi sẩy thai: người mẹ nên
bình tĩnh lấy nước rửa tội cho
con, ngay cả khi nghi ngờ bào thai còn sống
hay đã chết, cũng nên lấy nước
lã vừa đổ vừa đọc: "Nếu
con còn sống thì mẹ rửa con Nhân Danh Chúa Cha
và Chúa Con và Chúa Thánh Thần".
2. Bí tích
Thêm sức (Sacrament of Confirmation):
(Như
người dân khi tới tuổi trưởng
thành được nhập ngũ, luyện tập
chiến đấu bảo vệ tổ quốc;
con Chúa khi "tới tuổi biết phán đoán"
(Gl 891) cũng được học hỏi để
làm chứng nhân (witness) bênh vực đạo Chúa)
Chúa lập
Bí tích Thêm sức, sau khi sống lại và hiện
ra với các môn đệ, Người nói: Anh
em hãy nhận lấy Thánh Thần (Ga 20,22).
Mục
đích Bí tích Thêm sức là lãnh nhận 7 ơn
Chúa Thánh Thần để trở nên "chứng
nhân" (witness) tích cực xây đắp Nước
Chúa trong Giáo hội Người (Glcg92 số 1302).
3. Bí tích
Thánh Thể (Sacrament of The Eucharist)
(Như
thể xác con người cần ăn uống
để sống; linh hồn con Chúa cũng cần
ăn uống Mình Máu Thánh Chúa để được
sống trong ơn nghĩa Chúa và bảo đảm
sống đời đời)
Chúa Kitô
lập Bí tích Thánh Thể để nuôi sống
linh hồn ta bằng chính thịt máu Chúa: "Ai
ăn Bánh này sẽ sống đời đời"
(Ga 6,51).
Trong Thánh
lễ Misa, khi linh mục đọc lời truyền:
"Này là Mình Ta, này là Máu Ta", bánh và rượu
trở nên Mình và Máu Chúa. Đó là Mầu nhiệm
đức tin, ta không thể hiểu qua cảm
giác của thân xác này, nhưng tin vào lời Chúa
chân thật.
Rước
Mình Thánh Chúa (Dự Tiệc Thánh Thể, Hiệp
lễ) được bốn ơn này: (Glcg92
số 1391-1395)
1) Kết
hợp với Chúa,
2) Xóa bỏ
các tội nhẹ,
3) Thêm sức
chống cám dỗ,
4) Bảo
đảm được sống đời
đời.
Mỗi
ngày được rước Mình Chúa một
lần, nếu dự thêm thánh lễ nữa trong
cùng ngày, sẽ được hiệp lễ lần
nữa, miễn là giữ đủ các điều
kiện.
Ba
điều kiện để được
rước lễ:
1) Sạch
tội trọng (sẽ học sau),
2) Có ý ngay
lành (rước lễ vì mến Chúa,
để linh hồn được sống)
3) Giữ
chay một giờ trước khi rước
lễ (trong giờ đó chỉ được
uống nước lã, uống thuốc khi cần,
ngoài ra không ăn uống thứ gì khác, trừ
các bệnh nhân đang điều trị tại
bệnh viện).
Ngoài ra,
để tỏ lòng tôn kính Thánh Thể Chúa, ta
phải năng kính viếng và tôn thờ Chúa trong
Nhà Chầu (Tabernacle), Rước lễ thiêng liêng.
4. Bí tích
Hòa giải: (Sacrament of Reconciliation)
(Như
con người khi bị thương tích cần
thầy thuốc chữa trị; con Chúa khi bị
tội lỗi trong tâm hồn, cần thầy
thuốc linh hồn (linh mục) nhân Danh Chúa tha
tội qua Bí tích Hòa giả)
Chúa Giêsu
lập Bí tích Hòa giải sau khi Người sống
lại, Người hiện ra với các Tông đồ
và nói: "Anh em tha tội cho ai thì người
ấy được tha" (Ga 20,23).
Mục
đích Bí tích Hòa giải là để "tha
tội, và ban lại ơn thánh hóa (sự Sống
linh hồn) và sự hiệp thông với Giáo hội"
cho những ai thành thực ăn năn muốn
trở về (Glcg92 số 1440, 1446).
Có
2 thứ tội: Tội trọng và tội nhẹ
1. Tội
trọng: Là cố tình sai lỗi trong điều
trọng.
Khi đã
Biết rõ, mà Cố tình phạm điều buộc
hoặc cấm nặng, ví dụ: Cố ý giết
người vô tội. (Nếu phạm điều
nặng mà không biết rõ, không muốn hẳn
cũng không phải là tội nặng).
2. Tội
nhẹ: Là khi cố tình sai lỗi trong điều
nhẹ.
Khi đã
Biết rõ, mà Cố tình phạm điều buộc
hoặc cấm nhẹ, ví dụ: Cố ý nói dối
điều nhẹ. (Glcg92 số 1862).
Muốn
được tha Tội trọng có hai cách:
a) Thông thường,
phải ăn năn và xưng tội cùng linh mục
có quyền tha tội.
b) Khi hòng
chết nếu không gặp linh mục để
xưng tội, phải thật lòng ăn năn
vì đã phạm đến tình thương của
Chúa, và dốc lòng chừa cải.
Nếu
chết khi mắc tội trọng mà cố tình
không ăn năn sám hối, sẽ không được
ơn cứu rỗi.
Muốn
được tha Tội nhẹ, phải ăn
năn sám hối, giục lòng yêu mến Chúa.
Muốn
lãnh Bí tích Hòa giải để được
tha tội, phải làm bốn việc này:
1. Xét mình
2. Ăn
năn dốc lòng chừa tội,
3. Xưng
tội,
4. Đền
tội.
1. XÉT MÌNH
là nhớ ra các tội, mỗi Điều răn
đã lỗi mấy lần. (Theo 10 Điều
răn Chúa, 6 Điều răn Hội thánh)
2. ĂN
NĂN là đau buồn ghét tội, dốc lòng
chừa chẳng lỗi về sau.
Kinh Ăn
năn tội:
Lạy
Chúa con, Chúa là Đấng trọn tốt trọn
lành vô cùng. Chúa đã dựng nên con, và cho Con Chúa
ra đời, chịu nạn chịu chết
vì con, mà con đã cả lòng phản nghịch lỗi
nghĩa cùng Chúa, thì con lo buồn đau đớn,
cùng chê ghét mọi tội con trên hết mọi
sự.
Con dốc
lòng chừa cải, và nhờ ơn Chúa, thì con
sẽ lánh xa dịp tội, cùng làm việc đền
tội cho xứng. Amen.
3. XƯNG
TỘI là bày tỏ tội mình, cùng linh mục
của Chúa uy linh.
Cách xưng
tội:
Khi vào toà
giải tội làm dấu Thánh giá rồi thưa:
"Thưa
cha, con xưng tội (mấy tuần, mấy
tháng) sau đây là các tội con đã phạm:
(Kể
tội đã phạm theo điều răn, mỗi
tội phạm mấy lần)
Khi xưng
xong thì thưa:
"Thưa
cha con đã xưng xong, con muốn xưng cả
những tội quên sót".
Sau đó
im lặng nghe lời khuyên. Linh mục sẽ đọc
lời tha tội:
(Khi nghe
tới câu: Vậy cha tha tội cho con, nhân Danh
Cha và Con và Thánh Thần", hối nhân làm
dấu Thánh giá và thưa Amen.
Cám ơn
cha rồi ra ngoài cám ơn Chúa, làm việc đền
tội ngay, nếu có thể).
4. ĐỀN
TỘI mình là làm việc tốt, và đền
bù thiệt hại cho người.
(Đền
bù những thiệt hại về tiền của
(điều răn 7) và danh giá (điều răn
8).
Nếu
cha giải tội dạy điều không làm được
thì thưa lại ngay để xin đổi
việc khác.
Ngoài những
việc đền tội cha giải tội dạy,
ta cũng phải hy sinh, hãm mình, làm việc từ
thiện và hưởng các Ân xá Giáo hội ban.
Ân xá
(Indulgences):
Ân xá (ơn
tha) là ơn Giáo hội ban nhờ công nghiệp
Chúa Kitô, Đức Mẹ và các Thánh để
tha hình phạt đi kèm với tội phạm,
dù tội đã được tha.
Có ơn
Đại xá (tha hết mọi hình phạt), có
ơn Tiểu xá (tha một phần).
Muốn
lãnh ân xá phải:
1) Làm những
việc Giáo hội ban ân xá, ví dụ: mỗi ngày
đọc Kinh Thánh nửa giờ (được
một đại xá), hoặc viếng Mình Thánh
Chúa nửa giờ (được một đại
xá),
2) Xưng
tội chính ngày hoặc trước sau ngày lãnh
một vài tuần,
3) Rước
lễ chính ngày lãnh ân xá, ăn năn chê ghét mọi
tội trọng nhẹ, và cầu nguyện theo
ý Đức Giáo hoàng.
5. Bí tích
Xức Dầu Bệnh Nhân (Sacrament of Anointing
of the Sick)
(Như
thể xác con người mắc bệnh nặng
hầu chết cần cấp cứu, hay kiệt
lực vì tuổi già cần bổ sức; con
Chúa khi mắc bệnh nặng hầu chết,
hay kiệt lực vì tuổi già, cũng cần
mời linh mục tới cấp cứu cầu
nguyện và xức dầu thánh để linh hồn
nhờ ơn thánh bổ sức)
Chúa Giêsu
đã lập Bí tích Xức dầu Bệnh nhân
qua lời thánh Giacôbê: "Ai trong anh em đau yếu,
hãy mời linh mục Hội thánh đến cầu
nguyện cho bệnh nhân, đồng thời xức
dầu cho người ấy nhân Danh Chúa, và lời
cầu nguyện do đức tin sẽ cứu
chữa bệnh nhân, và Chúa sẽ cho bệnh nhân
bình phục, nếu có mắc tội thì sẽ
được tha"(Gc 5,14-15).
Khi lãnh
Bí tích Xức dầu, bệnh nhân được:
1/ Kết
hợp đau khổ của mình với đau
khổ của Chúa Kitô,
2/ Tha các
tội vì bệnh nặng không xưng ra được,
3/ Thêm sức
chống cám dỗ,
4/ Thêm sức
chịu bệnh vì Chúa để dọn mình chết
lành,
5/ Nếu
có lợi cho bệnh nhân, Chúa cho khỏe mạnh
lại.
Những
ai được lãnh Bí tích Xức dầu: Mọi
tín hữu đã đến tuổi khôn (thông thường
từ 7 tuổi trở lên) bị đau nặng,
hoặc người già kiệt sức, cần
lãnh Bí tích Xức dầu không nên trì hỗn. Khi
bệnh nhân trở bệnh nặng hơn, dù đã
được xức dầu, cũng được
xin xức dầu lần khác (Glcg92 số 1514 -1515).
Người
trông coi bệnh nhân cần để ý giúp họ
lãnh các Bí tích cuối đời.
6. Bí tích
Truyền Chức (Sacrament of Holy Orders)
(Như
xã hội cần có những viên chức lo việc
hành chánh cho dân; Giáo hội Chúa cũng cần có
những linh mục, giám mục lo việc phần
linh hồn cho dân Chúa)
Chúa Kitô
lập Bí tích Truyền chức thánh trong bữaTiệc
ly, khi Người phán: "Đây là mình Thầy,
hy sinh vì anh em, anh em hãy làm việc này mà tưởng
nhớ đến Thầy" (Lc 22, 19).
Mục
đích Bí tích Truyền chức thánh là để
Chúa Kitô thông quyền linh mục của Người
cho một số người được chọn
làm giám mục, linh mục, phó tế để
các vị này chu toàn tác vụ được trao
phó (Glcg92 số 1536). Đó là: Thánh hoá qua các Bí tích,
rao giảng Lời Chúa, và quản trị dân Chúa
(GL 519).
Các tín hữu
cần cầu nguyện, tôn kính, vâng phục các
linh mục,giám mục trong những điều
hợp đạo, cộng tác với các ngài để
xây dựng Nước Chúa, nâng đỡ các Ngài
về tinh thần và vật chất.
7. Bí tích
Hôn Phối (Sacrament of Marriage)
(Như
trong xã hội, nam nữ kết hôn và sinh những
con người tô điểm trần gian; trong
Giáo hội, nam nữ cũng kết hôn và sinh những
con Chúa để tô điểm Giáo hội và Thiên
đàng)
Chúa Kitô
lập Bí tích Hôn phối khi phán: "Sự gì Thiên
Chúa đã liên kết loài người không được
phân ly" (Mt 19,6).
Mục
đích của Bí tích Hôn phối là để
hai vợ chồng thương yêu giúp đỡ
nhau và sinh sản, dạy dỗ con cái. (Mv 48, Glcg92
1652)
Bản
chất của Bí tích Hôn phối đòi được
"tự do" kết hôn (Glcg92 1625).
Đặc
tính của Bí tích Hôn phối gồm:
1. Một
vợ một chồng (duy nhất),
2. Mãi cho
đến chết (bất khả phân ly) (Glcg92
1644, 1646).
Đối
với tâm lý tình yêu hay đối với văn
hoá dân tộc ta, sự chung thủy chính là ước
nguyện của đôi nam nữ, họ thề
thốt có trời cao chứng giám:
"Trời
cao đất rộng, em vọng lời nguyền,
đất trời còn đó, em nguyền thủy
chung.
"Tay
bưng đĩa muối chấm gừng, gừng
cay muối mặn xin đừng bỏ nhau".
Cha mẹ
không có quyền ép buộc con cái kết hôn hay đi
tu, nhưng cha mẹ có bổn phận dạy
dỗ và hướng dẫn con cái chọn bậc
sống (Mv 52): Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên.
Con cái không
nên khinh thường những ý kiến kinh nghiệm
của phụ huynh.
Đôi hôn
nhân cũng cần một đôi Đỡ đầu
(Sponsor Couple) để giúp cho những kinh nghiệm
trong đời sống hôn nhân để được
hạnh phúc.
Các Phụ
tích trong đạo Công giáo có ý nghĩa gì? (Glcg92
số 1671)
Ngoài bảy
Bí tích kể trên, Giáo hội còn có những nghi
thức dâng hiến, làm phép ảnh tượng,
người và đồ vật, trừ quỉ.
Những nghi thức này gọi là Phụ tích (Sacramentals):
"Phụ
tích là những dấu hiệu thánh, phần nào
phỏng theo Bí tích. Phụ tích phát sinh hiệu
quả thiêng liêng qua sự cầu bầu của
Giáo hội. Nhờ các Phụ tích, con người
được chuẩn bị lãnh nhận hiệu
quả chính của các Bí tích, và được
thánh hoá qua những hoàn cảnh khác biệt trong
cuộc sống" (Pv 60).
Cầu
nguyện kết thúc: Tập hát bài "Chúa
Chiên lành " (Thánh vịnh 22. Thánh vịnh này các
dự tòng thời Giáo hội ban đầu thường
hát để "kết thân" với Chúa:
ĐK:
Chúa Chiên lành, Người thương dẫn tôi
đi. Tôi không sợ chi, tôi không thiếu gì. Trên
đồng cỏ xanh Người cho tôi được
nghỉ ngơi, bên dòng suối mát Người
tăng sức cho tâm hồn.
1. Vì quí
trọng Danh Người, Người dìu tôi đi
trên đường công chính. Dù qua thung lũng
mù sương, tôi luôn vui sướng tựa nương
bên Người.
2. Nhờ
phúc lộc chan hòa, nhuần gội như mưa
trên đầu tuôn xối. Ngày đêm vui sống
thảnh thơi, trong nơi cung thánh hồn tôi
nương nhờ.
Bài
về nhà: Học kinh Bảy Bí tích:
Gương
lành:
Hạt
cát và những gịot mưa trên sa mạc
Lê Văn
Anh Sơn vừa đặt chân lên mảnh đất
Palawan, trại tạm cư tại Phi luật
tân, đã vô cùng chán nản. Ngày lang thang hết
nơi này qua nơi khác, tối ôm chiếu đi
tìm chỗ ngủ, vì dân trại quá đông.
Sau một thời gian dài trôi nổi như thế,
Sơn đã quen một người bạn Công
giáo, chàng đến xin cha tuyên úy cho dự lớp
học đạo. Học được khoảng
3 tháng, chàng nghỉ học, vì "toàn nghe nói về
Chúa, cảm thấy đau đầu". Chàng
tiếp tục dong chơi, nhưng mỗi lần
nhận được thư bà nội gửi
từ bên Pháp, bà lại giục cháu "vào đạo".
Cha và anh ở trại Mã lai cũng khuyên chàng như
thế. "Không biết vào đạo làm gì, có
được lợi gì cho mình không mà cha và anh
lại khuyên vào. Chán ghê gớm". Không muốn
cho nội, cha và anh thất vọng, chàng lại
đi học tiếp. Nhờ sống chung nhà với
những người có đạo, chàng thấy
họ "vui vẻ", nên theo họ đi lễ
hàng ngày, dù chàng không hiểu họ xếp hàng lên
để làm gì. Hỏi cho ta lẽ, chàng thấy
xúc động vì tình yêu Chúa ẩn mình. Chàng tiếp
tục nghe giảng. Có lần cha nói:
- Từ
khi tôi được định cư ở Mỹ,
ban đầu tôi phải đi cắt cỏ kiếm
tiền. Một buổi sáng trời mưa, ngồi
trong bụi cây, tôi thấy một nhánh khô trơ
trọi , xung quanh toàn là những cây lá tốt.
Tôi thấy buồn nghĩ mình như nhánh khô, nhưng
sau khi trời tạnh, chim lại tìm đậu
trên nhánh khô cất tiếng hót líu lo. Tôi tự
nhủ: Lạy Chúa, đời con là nhánh cây khô
đã mất tất cả, nhưng nhờ nhánh
cây khô chim đã đến nghỉ chân mà không bị
nước mưa của những nhánh tươi
làm ướt cánh. Vì vậy tôi đã cố gắng
tu trì và đạt lý tưởng linh mục như
ngày nay.
Nhờ
những lời trên, chàng đã mạnh dạn
thay đổi từ điều không xác tín tới
tin tưởng bước vào con đường
theo Chúa, tìm hiểu Chúa Kitô qua những lớp
giáo lý. Vừa học vừa thực hành, chàng
cảm thấy không còn cô đơn. Chàng cảm
thấy hạnh phúc và thay đổi: Từ con
người nóng nảy, trở thành ôn hòa hơn.
Chàng thấy có sức mạnh vượt qua thử
thách, khó khăn trong trại. Chàng biết tha thứ
cho người làm mất lòng. Có lần quá tức
giận vì chàng bị ép đọc sách Thánh trong
lễ, chàng đọc, và chàng bật cười.
Sau đó chàng bị khiển trách, cho là tân tòng
không đáng đọc sách. Chàng tính bỏ tất
cả quay về đường cũ, nhưng
ơn Chúa lại giúp chàng: "Mình tìm Chúa để
phục vụ cho Chúa, chứ đâu vì cá nhân nào
mà bỏ Chúa". Cũng có những lần mê
chơi theo tuổi thanh niên, nhưng chàng lại
chỗi dậy về cùng Chúa. Chàng tập sống
và cầu nguyện cùng Chúa như đứa con
với người cha, trong niềm tin yêu ấy
chàng thấy hạnh phúc vô cùng.
(Cảm
nghiệm ơn sủng tập I trang 45-51)
|