|
CHA ĐAMINH MARIA TRẦN ĐÌNH THỦ
Lý
tưởng Thánh Đồng Công
Hồi
ký của Tâm Phương Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Muôn vàn tri ân Vị Linh Hướng
cho cuộc đời Sống Thánh Chứng Nhân của tôi
Bất
cứ lúc nào nhận được lời khen tặng của ai, về tất cả những gì
tôi làm được, nhất là về các thứ sách vở đầy giẫy của tôi, tôi
đều vẫn nói một câu duy nhất: ‘Tất
cả đều do Chúa ban: đầu tư thì đã có bà xã hết lòng nâng đỡ,
còn mọi vốn liếng có được đều từ Dòng Đồng Công, từ Cha Đaminh
Maria Trần Đình Thủ’!”
Trên
đây là câu kết thúc cho bài viết tựa đề “Lênh Đênh Hải Ngoại:
Vượt Thoát Hay Lên Đường” của tôi, với biệt chú “Thành
kính tri ân cảm tạ vị đã sai tôi đi truyền giáo dịp quốc biến
1975”, dưới bút hiệu “Tâm
Phương, BVL” (vì đây là chính tên của tôi khi tôi
còn theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công 18 năm 2 tháng, 21/6/1964-20/8/1982),
một bài viết đã được Nguyệt San Hiệp Nhất của Cộng Đồng Công
Giáo Việt Nam Giáo Phận Orange phổ biến vào Tháng 7/2005.
Phải,
vị linh hưởng khả kính khả ái của tôi là Cha Đaminh Maria Trần
Đình Thủ đã vĩnh viễn ra đi về với Chúa vào ngày 21/6/2007,
ngày mà đúng 43 năm trước, 21/6/1964, tôi đã bắt đầu vào tu
Dòng Đồng Công ở Đệ Tử Viện Thủ Đức. Tôi đã ước ao được gặp
vị linh hướng duy nhất của cuộc đời tôi này một lần cuối cùng,
nhất là vào năm ngài được đúng 100 tuổi. Và Thiên Chúa quả thực
đã đáp lại ước vọng hết sức thiết tha và chân tình của tôi,
khi cho tôi được gặp ngài vào chiều Thứ Sáu mùng 7 tháng 7 năm
2006, từ 4 giờ đến 4 giờ 30 chiều, trong phòng riêng của ngài.
Đúng 1 tháng sau, vào chính ngày quan thày Đaminh của ngài,
8/8/2006, ngài đã bị bị tai biến mạch máu não, trở nên tê liệt
và hầu như bị cấm khẩu cho đến khi qua đời.
Cha
Thủ - Tần Số Thánh
Thật
là may cho tôi, tôi đã được diễm phúc gặp lại vị linh mục dẫn
dắt tôi theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công này tại phòng riêng
của ngài. Ngài vẫn còn nhớ tôi. Ngài đã tiếp tôi, không phải
là 5 hay 6 phút như mọi trường hợp khác, và như tôi đã được
các vị thẩm quyền trong dòng bấy giờ dặn dò kỹ lưỡng trước khi
tôi được vào gặp ngài. Khi vào tới nơi thì quả thực mới hiểu
được lý do tại sao mọi người chỉ được gặp ngài 5 hay 6 phút.
Ở chỗ, sức khỏe của ngài không cho phép! Đúng thế, hôm ấy hai
cha con chúng tôi đã nằm để hàn huyên tâm sự với nhau. Theo
thói quen hãm mình không thay đổi, ngài vẫn nằm trên nền nhà.
Hôm ấy, ngài nằm nghiêng về phía bên phải, lưng quay vào tường,
để nói chuyện với tôi. Tôi cũng đã nằm sấp, hướng mặt về ngài,
để nói chuyện với ngài.
Ngày
xưa, khi còn được ở bên ngài, hai cha con nói chuyện với nhau,
một là bằng cách đi đi lại lại ở ngoài hàng hiên gần phòng của
ngài, hai là ngồi dựa tường bên nhau trên nền nhà ở trong phòng
của ngài, cho đến khi hết chuyện. Ngài không bao giờ ép ai gặp
ngài, trừ khi ngài có chuyện cần gặp họ về vấn đề trách vụ của
họ, hay liên quan đến vấn đề trầm trọng cần phải sửa mình để
nên thánh của họ. Trong cuộc gặp gỡ, ngài cũng không hạch hỏi
hay đi sâu vào tâm hồn những ai xin gặp ngài, nếu họ không tự
động tỏ ra cho ngài.
Tuy
nhiên, ngài có thể thấu biết được tình trạng tâm hồn anh em
của ngài hơn ai hết, thậm chí hơn cả chính họ nữa. Bởi vậy,
có những người xin gặp ngài mà không được, trái lại, chỉ nhận
được một câu nói vắn gọn của ngài: “cứ thế mà sống”. Hay có
được gặp ngài thì chỉ rất vắn tắt ngắn ngủi, bởi vì hầu như
chỉ có họ nói, nói tất cả những gì đầy lên trong óc của họ,
đến nỗi họ viết cả ra giấy kẻo quên. Phần ngài, những gì được
bàn hỏi, ngài trả lời vắn tắt, và những gì được tâm sự, ngài
nghe biết vậy, cuối cùng, nếu cần, như một vị lang y, ngài bốc
cho một thang thuốc thiêng liêng vắn tắt, bằng những lời khuyên
hợp với từng tâm hồn, từng trường hợp, mà nếu họ tin tưởng và
áp dụng thực hành, họ sẽ cảm thấy lời ngài dạy hoàn toàn là
một phương dược linh nghiệm cho cuộc đời tận hiến theo đuổi
Lý Tưởng Thánh Đồng Công của họ.
Trong
dịp được gặp ngài lần cuối cùng, giữ đúng lời hứa với những
người anh em có trách nhiệm về thời lượng vắn vỏi được diện
kiến với ngài, một thời lượng để đủ chào hỏi vài ba câu theo
kiểu xã giao bề ngoài, sau khi nói chuyện với ngài được khoảng
đúng 5-6 phút, tôi hỏi ngài có mệt không, ngài nói không, rồi
ngài tự động tiếp tục nói chuyện với tôi, (làm cho bên ngoài
hết sức thắc mắc nhưng không dám can thiệp vào nội bộ giữa ngài
và tôi), cho đến đúng nửa tiếng (từ 4 đến 4 giờ 30 chiều), khi
chính tôi, vì giờ giấc hạn hẹp theo lịch trình du lịch, đành
phải “đoạn trường tân thanh”
chấm dứt cuộc gặp gỡ lịch sử cuối cùng không bao giờ quên được
này, không bao giờ tái diễn ấy. Sở dĩ tôi có thể nói chuyện
lâu với ngài như thế là vì, có thể nói, tôi đã bắt được trúng
tần số của ngài, một tần số tôi đã quá quen thuộc. Như vị đương
kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI của chúng ta, khi còn là Hồng Y
Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin Joseph Ratzinger đã biết
được tần số của Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thiên về triết
lý nói chung và luân lý thần học vậy (xem tác phẩm Muối Đất
- Salt of the Earth, ấn bản Anh ngữ, Ignatius Press, 1997, trang
10), hay tần số của chính vị đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI
này là phụng vụ, giáo hội và đức tin (cùng nguồn trang 49, 65-66).
Vậy tần số của vị linh hướng đáng kính đáng mến của tôi đây
là gì, nếu không phải là chính Lý Tưởng Thánh Đồng Công!
Phải,
hôm ấy, trong mấy câu chào hỏi hết sức thân thương ban đầu,
tôi đã lợi dụng câu ngài hỏi tôi hiện đang ở đâu, để bắt đầu
nhập cuộc. Tôi thưa ngài rằng tôi ở Mỹ về, rồi từ đó kể cho
ngài nghe tình hình sống đạo bên Mỹ liên quan tới đức tin, tới
thánh đức. Thế là ngài đã thật sự trở nên hào hứng hơn bao giờ
hết, có lúc ngài đã vỗ vai tôi mà nói, mà khuyên giục. Tôi còn
nhớ hai câu nói lập đi lập lại của ngài, nguyên văn như sau:
“Ngày nay người ta bỏ đạo, mất đức
tin mà không biết…. Ở bên Mỹ mà còn giữ được đức tin là một
phép lạ đấy!”
Phần
tôi, trước khi cùng với 2 cháu trai quì xuống xin ngài ban phép
lành tràn đầy ân phúc từ cuộc đời thánh đức của ngài, như xin
ngài tiếp tục truyền nội lực thánh thiện của ngài cho mình,
tôi đã nói những lời từ biệt (mà tôi biết cũng là lời vĩnh biệt)
sau đây: "Em cùng gia đình em
về thăm Anh nhân dịp mừng Anh 100 tuổi. Trước hết để tỏ lòng
tri ân cảm tạ Anh. Vì không có Anh em đã không được như ngày
hôm nay, và không có được một gia đình như bây giờ. Tuy em không
còn chính thức là một tu sĩ Đồng Công trong Dòng, song em vẫn
tiếp tục theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công, vẫn cố gắng sống
theo những gì Anh Cả đã truyền đạt cho em. Xin anh cầu cho em
để em có thể trở thành một 'Đồng Công Nằm Vùng', sống ở thế
gian mà không thuộc về thế gian, như men trong bột!"
Tôi
phải cám ơn Chúa cho tôi được gặp ngài, dù không được ở gần
ngài cho tới giây phút ngài lìa đời. Tôi nghĩ Thiên Chúa là
Đấng thấu suốt mọi sự, biết rõ là tôi hết lòng biết ơn ngài,
hết lòng cảm phục ngài, hết lòng gắn bó với ngài, đã cho tôi
được mãn nguyện gặp ngài lần cuối, vào hôm ấy, dù chỉ nửa tiếng
đồng hồ. Nếu tôi về muộn 1 tháng thôi, kể như chỉ còn biết rơi
lệ nhìn ngài! Cuộc đời trần gian của tôi đây, bao gồm cả gia
đình của tôi, lẫn sự nghiệp tông đồ của tôi, sẽ chẳng bao giờ
có, nếu tôi không được trực tiếp ở với ngài trong nửa số thời
lượng tu trì 18 năm 2 tháng của tôi (1966-1975). Tôi hoàn toàn
thâm tín như thế. Cái di sản vô giá ngài để lại cho tôi, đó
là sự thánh thiện, là lòng hăng say nên thánh, là tìm nước Chúa
trước, là tinh thần tận hiến, là chính ID Đồng Công, Lý Tưởng
Thánh Đồng Công.
Xin
hãy đọc những lời chia sẻ chân tình này, theo chiều hướng qui
về và bắt nguồn từ Cha Thánh Đaminh Maria Trần Đình Thủ, với
nhiều chi tiết liên quan tới bản thân người viết, những chi
tiết chỉ mang tính cách chứng cớ để làm sáng tỏ một Sự Thật
Rạng Ngời - Veritatis Splendor về Vị Linh Hướng Thánh của tôi.
Cha
Thủ - Sống Thánh
Hình
ảnh sâu đậm của ngài nơi tôi đó là hình ảnh một vị linh mục
Yêu Thánh, Sống Thánh và Huấn Thánh. Việc ngài Yêu Thánh được
tỏ hiện, trước nhất, nơi việc ngài thường lấy gương Chúa Mẹ
và Các Thánh (Tây phương) ra khuyên giục anh em mình, và đặc
biệt nhất, qua chính việc ngài Sống Thánh và Huấn Thánh. Riêng
về việc ngài Sống Thánh, ngài đã được tiếng là
“Cha Thánh Thủ” ngay từ khi còn ở ngoài Bắc. Có
lẽ vì bề ngoài người ta thấy cuộc sống của ngài khổ hạnh, ở
chỗ ăn uống kham khổ, nằm ngủ dưới đất v.v., cuộc sống của một
linh mục triều mà chẳng khác gì một tu sĩ khổ tu dòng Biển Đức,
một cuộc sống giống như Cha Sở Họ Ars ở bên Pháp là Cha Thánh
Gioan Vianney. Người ngoài có thể còn không biết những gì ngài
âm thầm sống khổ chế khác nữa, chẳng hạn như việc ngài tuyên
hứa không gãi ngứa, một việc khó làm chứ không dễ, trong khi
ngài bị phong ngứa ở chân. Riêng tôi, tôi còn thấy dấu hiệu
thánh thiện nơi ngài qua việc ngài cử hành Thánh Lễ. Ngài đã
giành giờ dọn mình dâng lễ mỗi ngày và tạ lễ sau đó hằng mấy
tiếng đồng hồ. Dường như ngài đã dùng thời giờ cầu nguyện, suy
gẫm và dọn lễ và tạ lễ bằng 15 tràng Mân Côi mỗi ngày. Có lần
chính tôi giúp lễ cho ngài mà ngài cũng không biết là ai, vì
trong cuộc nói chuyện với ngài mãi sau đó, tôi có nói đến một
chi tiết trong Thánh Lễ ngài dâng thì đã khám phá ra được điều
này.
Thế
nhưng, hầu như chỉ có anh em dòng mới biết được vị sáng lập
dòng của mình còn thánh thiện ở chỗ nào, ở một điểm khác nữa,
liên quan tới tinh thần tu đức, đó là lòng khiêm nhượng. Ngài
không để cho ai khen ngài trước mặt, bằng không, đối với ngài,
những lời khen tặng đó như là những lời nói phạm thượng, phạm
đến chính Đấng “đã làm cho tôi những
sự trọng đại” (Lk 1:49). Đó là lý do ngài đã nhận
một câu tâm niệm cho đời sống thánh của ngài, một câu tâm niệm
bằng tiếng Latinh, với hai chữ đầu là QP, nên ngài thường được
anh em dòng (khi nói với nhau) gọi ngài là "Anh
QP" thế này thế kia, nếu không muốn gọi
là Anh Cả, một danh xưng thường được dùng để trực tiếp thân
thưa với ngài. QP là Quorum Primus,
hai chữ cuối cùng trong câu Thánh Tông Đồ Phaolô nói về mình
ở Thư Thứ Nhất gửi môn đệ Timôthêu, đoạn 1 câu 15: “Chúa
Giêsu Kitô đã đến thế gian để cứu các tội nhân. Trong đó, tôi
là con người tội lỗi nhất”.
Phải,
người Anh Cả của anh em tu sĩ dòng Đồng Công mang biệt danh
QP đây chính là “con người tội lỗi
nhất”, bởi đó khen tặng “một
con người tội lỗi nhất”, một con người thật ra chỉ
đáng trách nhất, đáng bị nguyền rủa nhất, đáng đền tội nhất,
đáng bị trừng phạt nhất, đối với ngài, quả thực là phạm thượng,
là những gì không thể nào chấp nhận được. Đó cũng là lý do,
hầu như không một bài huấn đức nào mà ngài không đề cập đến
vấn đề “hạ mình xuống, vui chịu khinh
chê giầy đạp, chịu dể duôi bắt bớ”, như chính lời
kinh nguyện ngài đặt ra cho anh em dòng đọc hằng ngày. Thậm
chí ngài còn dạy “hãy luôn nhận mình
là trái”, một lời khuyên thoạt nghe thật là chướng
tai, nhưng lại hoàn toàn phản ảnh tinh thần của câu Phúc Âm
nạn nhân phải tự đi làm hòa trước với kẻ thù của mình (x Mt
5:23-24). Đối với ngài, cái trở ngại lớn nhất trong việc nên
thánh đây chính là cái tôi đầy tự ái của con người, không dẹp
bỏ được nó thì không thể nào nên thánh được, không thể nào theo
Chúa nổi, đúng như chính Người đã khẳng định: “Ai
muốn theo Thày thì phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình hằng
ngày mà theo Thày” (Mt 16:24); “Ai
không vác thập giá mình mà theo Thày thì không xứng với Thày”
(Mt. 10:38).
Lòng
khiêm nhượng của ngài quả thực đã đẹp lòng Chúa, đến nỗi đã
được Chúa đóng ấn bằng những hiểu lầm cả trong lẫn ngoài, nhờ
đó, đức ái trọn hảo (perfecta caritas) của ngài càng được sáng
tỏ, nhất là đối với những con người được Chúa dùng để giúp ngài
nên thánh hơn, nên giống Chúa Kitô Khổ Giá hơn. Có thể nói cảm
nghiệm tu đức nên thánh của ngài là “hạ
mình xuống, vui chịu khinh chê giầy đạp, chịu dể duôi bắt bớ”,
như ngài đã trải qua, chẳng những trở thành những gì thâm tín
nơi ngài mà còn là một nền tảng nên thánh mà ngài hết sức muốn
truyền lại cho những ai muốn theo ngài nữa. Ở Việt Nam trước
năm 1975, hầu như ít ai biết đến Dòng Đồng Công, hay có biết
đến thì hầu như cái ấn tượng đầu tiên và chính yếu trong đầu
của họ về hội dòng này chỉ là những gì có vẻ quê mùa (chẳng
có bằng cấp gì, đầu thì care, thân mang áo khẩu v.v.), và kỳ
cục (cá mè một lứa, trên dưới, cha thày gì cũng đều gọi nhau
là anh em v.v.).
Thế
mà, một hội dòng hầu như vẫn bị coi thường như thế,
"Thiên Chúa là Đấng toàn năng" lại sử
dụng để "làm những việc lạ lùng"
(Lk 1:49) tại hải ngoại, ngay trước mắt chẳng những Liên Đoàn
Công Giáo Việt Nam mà còn cả các vị thuộc hàng Giáo Phẩm Việt
Nam (sang thăm Hoa Kỳ) nữa, đó là Ngày Thánh Mẫu hằng năm (liên
tục từ năm 1978 tới nay, với con số tham dự từ 1500 vào năm
đầu tiên lên tới 70 ngàn vào Năm Thánh 2000), một Biến Cố Thánh
Mẫu hằng năm không thua gì Đại Hội Lavang vào trung tuần Tháng
Tám ở Việt Nam). Chưa hết, để tiếp tục sống thân phận tôi tớ
"không hưởng thụ nhưng phục
vụ" theo khẩu hiệu của một hội dòng vẫn chẳng
là gì và hầu như vô danh tiểu tốt của mình, những con người
theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công với Cha Thủ ở Chi Dòng đã
lập Nhà Hưu Dưỡng tại trụ sở trung ương Chi Dòng, nơi tổ chức
Ngày Thánh Mẫu hằng năm, và ngay từ tháng 7 năm 1977, đã được
hân hạnh đón tiếp và phục vụ các Đức Cha và quý cha có tiếng
tăm của Giáo Hội Việt Nam, trong đó có Đức Tổng Giám Mục Phêrô
M. Ngô Đình Thục, Đức Giám Mục Giacôbê Huỳnh Văn Của, cha nguyên
Viện Trưởng Đại Học Đà Lạt Lê Văn Lý, cha nguyên Viện Trưởng
Đại Học Huế Cao Văn Luận, cha nguyên chánh xứ La Vang, Quảng
Trị, Phêrô Trần Điển...
Nói
đến việc Sống Thánh của Cha Thủ, ngoài ra, không thể không kể
đến một yếu tố nữa, hay một nhân đức nữa hết sức nổi bật của
ngài, đó là niềm tin bất khuất, có lúc đến “liều
lĩnh” của ngài. Người ta, kể cả anh em trong dòng,
vẫn không hiểu là ngài lấy tiền ở đâu để nuôi anh em. Vẫn biết
là theo tinh thần “tự lực mưu sinh”
của dòng, anh em của ngài đã luôn luôn cố gắng thực hiện những
việc kinh tài, không thuê mướn ai, chẳng hạn Trại Gà Thiện Chí
(từ năm 1965), Ao Cá và cơ sở phát hành Nguyệt San Trái Tim
Đức Mẹ ở Thủ Đức, đồn điền trà bơ mít Thiên Mẫu ở Di Linh Lâm
Đồng (từ năm 1971) v.v. Thế mà cũng chẳng được bao nhiêu, nguyên
cho vấn đề ăn mặc và di chuyển của anh em thôi, chứ chưa nói
đến vấn đề chi phí cho các hoạt động tông đồ truyền giáo, chẳng
hạn như Nhà Hưu Dưỡng cho các vị linh mục ở Thủ Đức (từ năm
1957), các trạm phát thuốc ở Qui Nhơn (từ năm 1957), cư xá Rạng
Đông cho sinh viên miễn phí ở Đà Lạt (từ năm 1970) v.v.
Đức
tin của ngài chẳng những lạ lùng như thế song có lúc còn tỏ
ra “liều lĩnh” nữa. Địa điểm truyền giáo rất nguy hiểm ở Nhà
Đá giữa quận Phú Cát và Phù Mỹ, Tỉnh Bình Định ngoài Qui Nhơn,
nơi không một dòng tu nào hay một vị linh mục triều nào dám
bén mảng tới. Thế mà, anh em theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công
với ngài đã hiên ngang hoạt động ở đây suốt từ năm 1966 tới
1975 (trừ thời khoảng 1972-1974 không thể ở nổi vì quá nguy
hiểm). Họ đã từng nghe chiêu hồi về đêm, giữa cả bên quốc gia
lẫn bên mặt trận giải phóng. Có những lúc quá nguy hiểm, họ
đã phải đi bộ từ Nhà Đá về Quận Phù Mỹ vào khoảng chiều chiều,
cách 6 cây số, để ngủ qua đêm, sang hôm sau trở lại tái sinh
hoạt. Họ đã chứng kiến vào năm 1974 những chiếc cầu bị giật
sập vào ngay sáng sớm, những buổi chợ bị đạn nổ ngay giữa ban
ngày. Họ đã gặp những em học sinh trong trường đột nhiên bỏ
học đi tập kích rồi bất ngờ xuất hiện vác súng về thăm bạn bè
thày dạy.
Chính
người viết này đã tận mắt thấy cái xác không đầu của đại úy
đại đội trưởng Phước (đóng ở Phù Ly) bị phục kích ngay buổi
trưa, xác nằm trên đường gần Dốc Truông, khi chiếc xe Jeep của
ông từ quận Phù Mỹ về, một chiếc xe bị bắn bay sang bên kia
đường, bốc cháy trên bờ ruộng cùng với xác người tài xế trong
ấy. Cũng chính người viết này, trong số 7 người anh em đồng
đội (cùng lớp khấn IX), ngay trưa hôm mới vào Tập Viện ngày
8/9/1966, đã bị lính quốc gia phục kích bắn, vì tưởng là thành
phần địch quân đang lẩn quẩn ở đầu Nhà Thờ Nhà Đá, nhưng may
thoát chết. Biết bao nhiêu là trận đánh chung quanh khu vực
nhà dòng, và có biết bao nhiêu là người chết, bò chết (chó ở
đây không bao giờ sủa) chung quanh nhà dòng vì bị trúng đạn,
trúng mìn, bị Mỹ bắn vào nhà khi họ bị phục kích bất ngờ, nhất
là bởi những mảnh đại bác câu từ quận lên, rớt rào rào xuống
trên mái tôn trong nội vi nhà dòng. Thế mà, trong nhà dòng,
có lúc lên đến cả trăm anh em, suốt bằng ấy năm, không ai bị
chết, thậm chí bị chảy một giọt máu. Một người đã từng ở cạnh
nhà dòng bấy giờ, đã từng vào nhà dòng lấy thực phẩm hằng ngày,
đó là một chú bé mang tên Phạm Quốc Tuấn, cháu của ông Quế là
người bổ củi cho nhà dòng, một cậu bé hiện đang là một trong
những vị linh mục Việt Nam từng làm cha sở ở Giáo Phận Orange.
Đức
tin của Cha Thủ chẳng những lạ lùng, liều lĩnh mà còn tinh khôn
nữa. Như bài “Lênh Đênh Hải Ngoại:
Vượt Thoát Hay Lên Đường” của tôi được Nguyệt San
Hiệp Nhất phổ biến vào Tháng 7/2005 cho thấy, đối với người
Việt hải ngoại nói chung và Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam hải
ngoại nói riêng, chỉ có Dòng Đồng Công là có ý tổ chức xuất
ngoại ngay từ đầu tháng tư đen, theo lệnh của Cha Thủ, với mục
đích “để giữ lấy dòng và để truyền
giáo”. Cái viễn kiến này của ngài đã hoàn toàn trở
thành hiện thực, ở chỗ, dòng của ngài chẳng những vẫn còn tồn
tại, không bị tan vỡ trong biến cố chụp mũ của chính quyền,
với hậu quả là chính ngài cùng với một số đông anh em dòng bị
xử án và tống ngục, mà còn phát triển ở hải ngoại nữa, qua hoạt
động tông đồ nổi tiếng nhất cộng đồng Công Giáo Việt Nam là
Ngày Thánh Mẫu Missouri hằng năm (từ năm 1978). Tuy nhiên, viễn
kiến của ngài không phải chỉ là tác động khôn ngoan trần gian
biết nhìn xa trông rộng, mà là tác động gắn liền với đức tin
mãnh liệt của ngài, đến nỗi, với một lực lượng 170 anh em di
cư năm 1975, không một ai tự nhiên dám đứng ra nhận nuôi, bấy
giờ mọi người trong cuộc đang lo có nguy cơ tan dòng, nếu xẩy
ra trường hợp mỗi người một nơi, hay từng nhóm nhỏ một chỗ,
thế mà, Đấng Quan Phòng Thần Linh đã lo cho đâu vào đấy, qua
một con người được Ngài gửi tới vào đúng thời điểm của nó, đó
là Đức Cha Bernard Law bấy giờ là giám mục Giáo Phận Sprinfield
Cape-Girardeau Missouri, vị giám mục sau trở thành Hồng Y cai
quản Tổng Giáo Phận Boston! Và vào chính ngày Quan Thày của
vị sáng lập của mình là 8/8/1975 đã trở thành ngày đoàn tụ lịch
sử của toàn thể anh em Đồng Công lên đường xuất ngoại "để
giữ lấy dòng và để truyền giáo" theo lệnh của
Đấng Sáng Lập, và nơi đoàn tụ thiên định này ở tại Carthage
Missouri, một chủng viện của Dòng các Cha Thừa Sai Vô Nhiễm
vừa bỏ trống 5 năm trước.
Đó
là việc Sống Thánh của Cha Đaminh Maria Trần Đình Thủ, và nền
tảng Sống Thánh (khiêm nhượng bỏ mình và tin tưởng phó thác)
chẳng những của ngài mà còn được ngài triệt để áp dụng cho những
ai muốn cùng ngài theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công nữa, tức
muốn được ngài Huấn Thánh cho, muốn được ngài giúp cho đi vào
con đường thánh thiện, muốn thực sự trở thành môn đệ của Chúa
Kitô, nên nhân chứng trung thực của Chúa Kitô. Chính ngài đã
thú nhận rằng mục đích ngài lập dòng Đồng Công, một dòng thuần
túy Việt Nam đầu tiên, do người Việt thành lập cho người Việt,
chứ không phải là dòng ngoại quốc, dòng do các Thánh Tây phương
lập được du nhập vào Việt Nam, là để Huấn Thánh, để huấn luyện
cho Việt Nam có Thánh, như Âu Tây, một châu lục có nhiều Thánh
hiển tu - tại sao Việt Nam lại không thể!
Đối
với riêng tôi, tôi vẫn cảm thấy đúng như những gì tôi đã viết
trong cuốn “Sống Thánh Chứng Nhân”
(Phong Trào Tông Đồ Fatima Thế Giới Việt Nam xuất bản năm 2006),
trang 174, như sau: “Thật thế, phải
thú nhận rằng, mỗi khi nghe ngài giảng dạy, lòng tôi không thể
nào không cảm thấy bừng nóng lên như hai môn đệ đi Emmau nghe
Chúa Giêsu giải thích Thánh Kinh trong cuộc hành trình của họ
(x Lk 24:32). Chưa hết,
chẳng cần nghe ngài nói, chỉ cần trông thấy ngài thôi, tôi đã
cảm thấy mình ra sao và tự nhiên thấy được nhắc nhở phải nên
thánh, phải sống thánh”.
Cho
đến nay, về phương diện tu đức, tôi vẫn thực hành ba điều tối
quan trọng trong những điều cần cho việc liên lỉ nên thánh theo
Lý Tưởng Thánh Đồng Công được ngài chỉ dẫn, cũng là những gì
được ghi ngay trong Tục Lệ Đồng Công. Thứ nhất, đó là, trước
khi làm bất cứ một việc gì, nhất là những việc chính yếu trong
ngày, nhớ dâng các việc làm và từng việc làm trong ngày cho
Chúa, với ý thức là làm vì Chúa và cho Chúa, chứ không phải
làm theo sở thích và ý riêng. Thứ hai, thế rồi, đang khi làm,
thỉnh thoảng tái nhận thức ý hướng ngay lành làm việc của mình
từ đầu, kẻo bị lệch lạc lúc nào không hay trong khi làm, lúc
đầu vì Chúa sau đó cho mình (đó là lý do trong dòng Đồng Công
ngày xưa thường có chuông “Nhớ Mẹ” như để nhắc nhở nhau “Nhớ
Mẹ”, sống thánh). Thứ ba, chưa hết, ngay cả sau mỗi việc làm,
nhất là sau một ngày sống, phải “hồi tâm” lại xem mình đã thực
sự theo đuổi lòng ham ước nên thánh trong khi làm việc đó hay
chăng, trong ngày sống đó hay chăng. Việc hồi tâm xét mình hằng
ngày của tu sĩ Đồng Công, vào 7 phút thinh lặng trước kinh tối,
buổi kinh chung được kết thúc bằng Kinh Lạy Nữ Vương – Salve
Regina và phép lành cuối ngày của bề trên, không phải chỉ xét
đến những lỗi lầm có vẻ tiêu cực, mà trước hết và trên hết xét
tới tình trạng thánh thiện của mình, đến lòng ham ước nên thánh
của mình. Bởi vì, một khi đã hay đang sa sút lòng nên thánh
nồng cốt và chính yếu này, thì mọi sự khác sẽ bị tụt xuống thôi,
trái lại, còn hăng say nên thánh thì tất cả mọi sự trở thành
dễ dàng và tốt lành đẹp lòng Chúa.
Ngoài
ra, về bề ngoài, cho đến nay, tôi vẫn còn tiếp tục giữ "cái
đầu Đồng Công", không phải chỉ là "cái đầu Đồng Công"
về tinh thần như những gì tôi vừa bày tỏ trên đây, hay sắp bày
tỏ dưới đây, mà còn là "cái đầu Đồng Công" về thể
lý nữa. Tức là tôi hớt tóc kiểu "cái đầu Đồng Công"
ngày xưa, trước năm 1975, một cái đầu kiểu gần như carê hay
đầu lính, hoàn toàn giản dị và gọn ghẽ, chứ không chải tém vuốt
ve (mà trước đây có thể được Cha Thủ cho là) có vẻ làm dáng,
không hợp với những con người chỉ tìm kiếm Thánh trước hết và
Thánh trên hết. Hai thằng con trai của tôi, một cháu 21 và một
cháu 20 còn có cái đầu trọc hơn cả bố của chúng nữa. Hôm đó,
cùng với tôi, các cháu cũng được hân hạnh diện kiến dung nhan
của vị mà các cháu vẫn được bố các cháu nói rằng "không
có ngài cũng chẳng có bố của các con như bây giờ, và do đó cũng
chẳng có gia đình này và chẳng có các con đặc biệt như hiện
nay!"
Ngoài
ra, trên ngực của tôi, tuy không đeo cỗ tràng hạt đen 150 kinh
trước ngực như thày Tâm Phương Đồng Công tôi ngày xưa, nhưng
đi đâu ra ngoài, dù diện áo vét, tôi cũng vẫn hiên ngang đeo
ảnh Đức Mẹ Ban Ơn to trước ngực. Nhiều người đã nhìn thấy và
hỏi tôi, nhất là những người đồng đạo tỏ vẻ vừa khâm phục vừa
thắc mắc, tôi đã thẳng thắn thưa với họ rằng: "Tại
sao ở Mỹ quốc tự do này, người ta làm được đủ thứ, đeo đủ thứ,
cả nam lẫn nữ, nào là trên tai, trên mũi, trên môi v.v. lỉnh
kỉnh như thế, mà chúng ta lại không lợi dụng tự do để sống đạo
và làm chứng nhân, bằng những hình thức bề ngoài này chứ?"
Tôi không biết họ có chấp nhận lập luận này của tôi hay chăng,
nhưng tôi phải công nhận là cái gan sống thánh ấy không thể
có nơi tôi, nếu không có “Cha Thánh Thủ” và từ “Cha Thánh Thủ”.
Và có phải vì thấy tôi còn "cái đầu Đồng Công" và
ngực còn đeo tràng hạt bấy giờ, (vì tôi quên ảnh Đức Mẹ Ban
Ơn ở nhà bên Mỹ, nên lấy một cổ tràng hạt luôn mang theo trong
người đeo thế, suốt từ Bắc vô Nam, làm cho một sơ thuộc Dòng
Khiết Tâm Bình Cang Nha Trang nói rằng: 'cái anh này gan thật'),
mà ngài còn thấy tần số thánh của ngài nơi tôi, nên đã hào hứng
nói chuyện với tôi đến nửa tiếng hết sức ngoại lệ hay chăng?
Chưa
hết, đã có một số lần, với tất cả niềm thâm tín của mình, tôi
đã nói trong Khóa Tĩnh Huấn của nhóm giới trẻ Thiếu Nhi Fatima
được tôi hướng dẫn, cũng như với một số bạn đồng chí hướng Thánh
trước hết và Thánh trên hết của tôi rằng: "Nếu chúng ta
không dám nói 'tôi là ánh sáng thế gian', như Chúa Kitô đã định
nghĩa về Kitô hữu chúng ta là thành phần môn đệ theo Người nói
chung: 'Các con là ánh sáng thế gian' (Mt 5:14), thì chúng ta
không thể nào trở thành chứng nhân cho Người và của Người, Đấng
chính 'là ánh sáng thế gian' (Jn 8:12). Chúng ta tự mình thực
sự không phải 'là ánh sáng thế gian', mà chỉ phản ảnh Chúa Kitô
'là ánh sáng thế gian' thôi. Chúa Kitô không dạy chúng ta phải
ra trước phố xá hay lên mái nhà để công bố chúng ta 'là ánh
sáng thế gian', nhưng Người muốn chúng ta luôn ý thức căn tính
bất di bất dịch của mình 'là ánh sáng thế gian', và sống căn
tính ấy, trước hết và trên hết, bằng việc Sống Thánh Chứng Nhân
của chúng ta, làm sao để chúng ta có thể trung thực và sống
động phản ảnh Người 'là ánh sáng sự sống' (Jn 8:12). Nếu chúng
ta không dám nhận mình 'là ánh sáng thế gian', (không minh nhiên
bằng lời nói hơn là mặc nhiên bằng việc Sống Thánh Chứng Nhân),
vì cho rằng nhận mình như thế là kiêu ngạo, thì chúng ta đã
vô hình chung (hay cố tình) phủ nhận bản chất của Giáo Hội 'là
truyền giáo' (Sắc Lệnh Ad Gentes, 2), đã sống ngược lại với
căn tính Kitô hữu của mình 'là ánh sáng thế gian', và như thế,
chúng ta rơi vào tình trạng như Chúa Giêsu đã nói với vị nghị
viên lão thành Nicôđêmô là 'chuộng tối tăm hơn ánh sáng' (Jn
3:19), 'ghét ánh sáng, không dám đến gần ánh sáng... (sợ ánh
sáng)' (Jn 3:19)". Thậm chí, với kinh nghiệm Sống Thánh
Chứng Nhân qua nhiều hoạt động tông đồ giáo dân khác nhau, tôi
đã bạo gan mạnh miệng phấn khích các đồng nghiệp tông đồ của
tôi, những người tỏ ra nản chí hay muốn bỏ cuộc rằng: "Không
có máu tử đạo không thể nào làm việc của Chúa và cho Chúa"!
Cha
Thủ - Huấn Thánh
Tất
cả những tâm thức tôi có được về việc Nên Thánh hay Sống Thánh
như thế đều hoàn toàn xuất phát từ “Cha Thánh Thủ”, vị đã cưu
mang tôi và đớn đau hạ sinh ra tôi, như Thánh Tông Đồ Phaolô
với các giáo đoàn Kitô Giáo tiên khởi do thánh nhân thành lập
(Gal 4:19; cũng xem 1Cor 4:14-15; 1Thes 2:7-8). Đúng thế, cũng
chính vì Lý Tưởng Thánh Đồng Công này mà bản thân “Cha Thánh
Thủ” đã phải chấp nhận những giá hy sinh khôn lường, chẳng những
từ bên ngoài trong thời gian mới thành lập dòng, mà nhất là
từ nơi chính nội bộ dòng của ngài. Phải chăng vì Lý Tưởng Thánh
Đồng Công ngài đề ra quá cao? Trong lúc Dòng Thừa Sai Bác Ái
của Mẹ Têrêsa Calcutta bên Ấn Độ, cũng được thành lập vào thời
điểm (7/10/1950) với dòng của ngài (Tòa Thánh Châu Phê Hiến
Pháp Đồng Công ngày 15/12/1952), phát triển nhanh nhất và rộng
nhất trên khắp thế giới, hơn bất cứ một dòng nào khác trong
lịch sử Giáo Hội, thì dòng của ngài chỉ vỏn vẹn ở Việt Nam thôi
mà đã có lúc trải qua một cuộc khủng hoảng đến nỗi chính ngài
cương quyết đánh liều thực hiện một cuộc “mở sổ khấn” (năm 1968)
để ai muốn ra thì ra, còn tu phải cho ra tu! Chính hành động
dứt khoát không chấp nhận thái độ “ương ương dở dở” (Rev 3:16)
này của ngài nơi những ai muốn theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng
Công với ngài đã là những gì cho thấy ngài coi trọng vấn đề
Nên Thánh là chừng nào, thậm chí bất chấp cả chính thành phần
anh em vốn được ngài yêu thương chẳng khác nào ruột thịt của
ngài, như chính Chúa Giêsu đã cương quyết bảo vệ đường lối nên
trọn lành của Người, thà bị thiệt hại mất mát, như trong trường
hợp nhiều môn đệ bỏ đi sau bài giảng về Bánh Hằng Sống (x Jn
6:60-69), hay trong trường hợp của người thanh niên giầu có
bỏ đi sau khi nghe Người ra điều kiện nên trọn lành quá tầm
tay với của mình (x Mt 19:20-22).
Chủ
trương Thánh trước hết và Thánh trên hết này của Cha Thủ, cho
dù có phải trả giá đến đâu chăng nữa, liên quan tới bản thân
ngài, hay tới tình trạng mất mát về nhân sự, chẳng những đã
hợp với đường lối và thái độ của Chúa Giêsu trong Phúc Âm, mà
còn hợp với cả Giáo Hội nữa, điển hình là Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II, vị Giáo Hoàng đã mở màn cho Giáo Triều dài 26 năm
rưỡi của mình vào ngày Chúa Nhật Lễ Đăng Quang 22/10/1979 bằng
lời kêu gọi riêng Giáo Hội lẫn chung thế giới rằng: “Đừng Sợ,
hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô”, một lời kêu gọi đã được ngài
dẫn giải trong tác phẩm “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” của ngài
(ấn bản Anh ngữ, trang 222), liên quan tới thái độ dứt khoát
theo Chúa và nên trọn lành theo Phúc Âm như sau: “Phúc
Âm thực sự là những gì gay go đòi hỏi. Chúng ta biết rằng Chúa
Kitô đã không cho phép các môn đệ của Người và những ai lắng
nghe Người ôm ấp một ảo tưởng nào về vấn đề ấy. Trái lại, Người
đã không bỏ qua một nỗ lực nào để sửa soạn cho họ chấp nhận
mọi thứ khó khăn trong ngoài, dù luôn biết rằng họ có thể quyết
định đi đến chỗ lìa bỏ Người”.
Vì
mục đích lập dòng của Cha Thủ là để Huấn Thánh cho người Việt
Nam, nên ngài cũng để ý tới những yếu điểm nơi người bản xứ
của ngài. Chẳng hạn, như ngài vẫn nói, người Việt Nam hay thay
đổi, không trung thành như người Tây phương (tất nhiên là ngài
có ý nói loại người Tây phương ngày xưa có nhiều Thánh, chứ
không phải loại Tây phương ly dị và phá giới tu trì ngày nay),
và thiếu ý chí, không cương quyết như người Tây phương. Ngài
thường kể lại những tích truyện chính ngài được chứng kiến nơi
các Cha Tây mà ngài đã được gặp và làm việc với. Bởi thế, ngài
rất lưu ý tới yếu tố tự nhiên nơi tính nết và tâm lý của anh
em theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công với ngài nữa. Chẳng hạn,
để luyện tập ý chí, chính bản thân ngài chỉ ăn một món, ngày
nào cũng thế, và chỉ ăn điều độ bằng nào thôi, không hơn không
kém. Không bao giờ ngài kêu ca về của ăn thức uống dọn ra cho
ngài. Thậm chí cũng chẳng ai biết là ngài thích ăn gì nữa.
Thế
nhưng, nếu Phúc Âm cứu độ là tin mừng sự sống được loan truyền
cho muôn dân, cho tất cả mọi tạo vật (x Mk 16:15; Mt 28:19)
thế nào, thì con người nào đi nữa, dù thuộc văn hóa nào, chủng
tộc nào, trình độ trí thức nào, ở vào thời đại nào, cũng có
thể được cứu độ, cũng có thể theo Chúa, cũng có thể nên thánh,
có thể trở thành chứng nhân của Người và cho Người. Bởi vậy,
không một vị sáng lập nào có thể phác họa một đường lối sống
Đức Ái Trọn Hảo - Perfecta Caritas ngoài tinh thần Phúc Âm.
Vậy đường lối Huấn Thánh hay linh đạo nên thánh của Cha Thánh
Thủ cho Dòng Đồng Công, cho những người Việt Nam muốn theo ngài
ở đây là gì và như thế nào, nếu không phải ở ba tinh thần chính
được ngài phác họa đó là Bỏ Mình, Yêu Nhau và Tận Hiến. Tận
Hiến là tinh thần trực tiếp liên quan tới Thiên Chúa, Bỏ Mình
là tinh thần trực tiếp liên hệ tới bản thân, và Yêu Nhau là
tinh thần trực tiếp liên hệ tới anh em trong dòng nói riêng
và tha nhân nói chung.
Theo
tôi, như tôi đã nhận định và phân tích trong cuốn “Sống
Thánh Chứng Nhân” (2006, trang 175-178), 3 tinh
thần của Dòng Đồng Công rất thích hợp với linh đạo truyền thống
của Giáo Hội Công Giáo, một linh đạo phổ thông được gắn liền
với cảm nghiệm tu đức của ba vị Thánh Tây Ban Nha thuộc thế
kỷ 16 là I Nhã – Ignatio (1491-1556), Thiên-Sa Viên-Lan – Teresa
Avilla (1515-1582) và Giang Thập Giá – John of Cross (1542-1591),
và là một linh đạo tam cấp được Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
tóm gọn trong tác phẩm cuối đời của mình là "Hồi
Niệm Và Căn Tính" (ấn bản Anh ngữ 2005, trang
28-30). Theo linh đạo tam cấp này, thì giai đoạn đầu được gọi
là giai đoạn khởi sinh, liên quan tới tình trạng thanh tẩy linh
hồn (purgative stage/way), giai đoạn thứ hai là giai đoạn tiến
sinh, liên quan tới tình trạng soi sáng linh hồn (illuminative),
và giai đoạn thứ ba là giai đoạn hiệp sinh, liên quan tới tình
trạng hiệp nhất linh hồn (unitive).
Căn
cứ vào nội dung và tính chất của 3 giai đoạn tu đức này, 3 tinh
thần Đồng Công là Bỏ Mình, Yêu Nhau và Tận Hiến có thể được
hiểu theo chiều kích tu đức như thế này. Trước hết là tinh thần
Bỏ Mình, tương ứng với giai đoạn khởi sinh – giai đoạn thanh
tẩy linh hồn, thanh tẩy nhất là những gì được Cha Thánh Thủ
nhấn mạnh tới khi giảng dạy chung riêng là tâm trạng kiêu căng
tự ái nơi con người. Sau nữa là tinh thần Yêu Nhau, tương ứng
với giai đoạn tiến sinh – giai đoạn soi sáng linh hồn. Bởi vì,
“ai cho mình ở trong ánh sáng mà
ghét anh em mình thì vẫn ở trong tăm tối. Ai tiếp tục ở trong
ánh sáng là kẻ yêu thương anh em” (1Jn 2:9-10).
Sau hết là tinh thần Tận Hiến, tương ứng với giai đoạn hiệp
sinh – giai đoạn hiệp nhất linh hồn, ở chỗ, linh hồn được Chúa
chiếm đoạt, tới độ siêu thoát không còn ước vọng gì khác ngoài
ước nguyện cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể
hiện dưới đất cũng như trên trời, hoàn toàn phó thác theo tác
động của Thánh Thần, để có thể sống Chúa Kitô như Mẹ Maria.
Tiến trình từ giai đoạn tu đức tiến sinh Yêu Nhau tới giai đoạn
tu đức hiệp sinh Mến Chúa này hoàn toàn phản ảnh mạc khải Tân
Ước: “Khi các người làm (hay) không
làm cho một trong những người anh em bé mọn nhất của Ta đây
là các người làm (hay) không làm cho chính Ta” (Mt
25:40,45); “Kẻ nào không yêu thương
anh em là người họ thấy được thì cũng không thể yêu mến Thiên
Chúa họ không thấy” (1Jn 4:20); “Không
ai đã từng thấy Thiên Chúa. Thế nhưng nếu chúng ta yêu nhau
thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, và tình yêu của Ngài đạt đến
mức trọn lành nơi chúng ta” (1Jn 4:12), đến độ chúng
ta có thể “yêu nhau như Thày đã yêu”
(Jn 15:12; 13:34).
Ba
tinh thần Đồng Công, thứ tự là Bỏ Mình, Yêu Nhau và Tận Hiến
này của Dòng Đồng Công, làm nên Lý Tưởng Thánh Đồng Công, chẳng
những hợp với linh đạo Kitô Giáo như thế, mà còn hoàn toàn phản
ảnh tinh thần của Chư Thánh Tử Đạo Việt Nam, của Chúa Cứu Thế
và của Mẹ Đồng Công nữa. Trước hết, 3 tinh thần của Dòng Đồng
Công phản ảnh Chư Thánh Tử Đạo Việt Nam, ở chỗ, các vị đã tận
tuyệt Bỏ Mình, bỏ cả họ hàng thân thuộc, vinh hoa phú quí, tiện
nghi vật chất, nhất là cả chính mạng sống mình; đã Yêu Nhau
qua việc truyền giáo cho dân Việt, hay phục vụ Cộng Đồng Dân
Chúa bằng việc mục vụ hay tông đồ; và đã hoàn toàn sống Tận
Hiến, phó mặc mọi sự cho Chúa Quan Phòng, và sẵn sàng chịu đựng
hết mọi cơn gian nan khốn khó cho đến hơi thở cuối cùng, như
cành nho đã sai trái lại được cắt tỉa cho càng sai trái hơn
(x Jn 15:2) là các Kitô hữu ("Apologetico" 50,13:
"Plures efficimur quoties metimur a vobis: semen est sanguis
christianorum"). Sau nữa, 3 tinh thần của Dòng Đồng Công
phản ảnh sứ vụ của Chúa Cứu Thế, Đấng đã tuyên bố ở Phúc Âm
Thánh Mathêu đoạn 20 câu 28 là: "Thày đến không phải để
được phục vụ (bỏ mình: "không tự cho mình ngang hàng với
Thiên Chúa, song đã tự hủy ra như không" – Phil. 2:6-7),
mà là để phục vụ (yêu thương: "mặc lấy thân phận tôi đòi,
nên giống như con người” – Phil. 2:7), để hiến mạng sống mình
làm giá chuộc cho nhiều người (tận hiến: “đã vâng lời cho đến
chết đến chết trên thập giá" – Phil. 2:8). Đến đây chúng
ta thấy linh đạo của Lý Tưởng Thánh Đồng Công ở ngay câu khẩu
hiệu của Hội Dòng: “Non ministrari sed ministrare”. Và 3 tinh
thần của Dòng Đồng Công cũng phản ảnh đời sống của Mẹ Đồng Công
nữa, Vị đã thưa trong giây phút Truyền Tin Lời Nhập Thể (Luca
1:34, 38): "Việc ấy thành sự sao được vì tôi không biết
đến nam nhân (bỏ mình)… Này tôi là nữ tỳ Chúa (yêu thương phục
vụ), tôi xin vâng như lời sứ thần truyền (tận hiến)".
Thật
ra, không một vị thánh nào lại không sống 3 tinh thần Bỏ Mình,
Yêu Thương và Tận Hiến, cũng như không một Kitô hữu nào có thể
nên thánh nếu không biết "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ"
(Mt 18:3). Song thực tế cho thấy, nếu chỉ có chị Thánh Têrêsa
Hài Đồng Giêsu là vị thánh đáng được Giáo Hội tuyên phong là
Tiến Sĩ Hội Thánh, vị tiến sĩ nữ thứ ba và là vị tiến sĩ thứ
33 của Giáo Hội, vì chị chẳng những chủ trương một cách minh
nhiên tỏ tường mà còn thực sự sống linh đạo thơ ấu thiêng liêng
nữa, như chị đã tâm sự và chia sẻ trong cuốn Một Tâm Hồn của
chị, thì Dòng Đồng Công cũng thế, là một hội dòng rõ ràng chủ
trương nên thánh và sống thánh theo ba tinh thần này. Tuy nhiên,
trong ba tinh thần chính yếu này của Dòng Đồng Công do “Cha
Thánh Thủ” sáng lập ấy, tinh thần làm nên căn tính của hội dòng
thuần túy Việt Nam đầu tiên, song cũng đồng thời vì thế mà,
theo tôi, trở thành một thách đố hết sức gay go cho những người
theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công, đó là tinh thần Tận Hiến.
Tại sao?
Trước
hết, Dòng Đồng Công là một dòng truyền giáo. Vì là một hội dòng
truyền giáo, một việc truyền giáo đặc biệt chú trọng tới vấn
đề giáo dục, mà dòng đã nỗ lực mở những trường Trung Tiểu Học
Đồng Công Thủ Đức (từ thập niên 1950 vào năm 1956), Mỹ Chánh
Phù Mỹ Bình Định (từ đầu thập niên 1960), Nhà Đá Phù Cát Bình
Định và Lương Sơn Phan Rí (từ thập niên 1970) v.v., và với cư
xá Rạng Đông Đà Lạt (đầu thập niên 1970) cho sinh viên theo
học ở Đại Học Công Giáo Thụ Nhân Đà Lạt. Bởi vậy, cần nhiều
anh em đi học, có bằng cấp. Sau nữa, Dòng Đồng Công còn là dòng
giáo sĩ nữa, dù là thiểu số, (từ đầu được ấn định tối đa là
1/3), nhưng lại là thành phần chẳng những cần thiết trong việc
quản trị nhà dòng mà còn liên quan tới vấn đề thánh hóa anh
em tu sĩ dòng qua việc ban phát các bí tích nữa. Bởi thế, cũng
cần phải có những anh em đi học làm linh mục và được thụ phong
linh mục. Thế mà, hai lãnh vực này, học hành và làm linh mục,
đối với tinh thần Tận Hiến, với Lý Tưởng Nên Thánh Đồng Công,
dù cần thiết mấy đi chăng nữa, cho việc truyền giáo đối ngoại,
cũng như cho việc quản trị đối nội, vẫn được coi là những gì
thứ yếu, không được coi trọng hơn Lý Tưởng Thánh, ưu tiên hơn
việc Nên Thánh. Đối với Đấng Sáng Lập Dòng Đồng Công thì đi
tu mà không nên thánh thì thật là uổng phí, hoàn toàn phí công
vô ích, không đạt được mục đích của đời tận hiến, dù làm linh
mục. Bởi thế, cần phải để ý và nỗ lực nên thánh trước, dù có
phải hy sinh tất cả mọi sự, hy sinh học hành hết sức khẩn thiết,
hy sinh chức linh mục vô cùng cao trọng. Thực tế của tinh thần
Tận Hiến để theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công còn phũ phàng
hơn nữa, ở chỗ, vẫn có anh em đi học và làm linh mục đấy, nhưng
nhiều khi lại là những người tu sau mình, những người thua kém
mình về nhiều hay một số lãnh vực, trong khi mình hầu như suốt
đời (hay cứ mãi) làm bếp, làm vườn, không ngóc đầu lên được
v.v.
Đối
với “Cha Thánh Thủ”, vấn đề làm linh mục rất ư là quan trọng,
nên ngài chọn lựa thật là kỹ lưỡng. Chẳng những vì bản chất
và phẩm vị vô cùng cao trọng của thiên chức này, mà còn vì tác
dụng và ảnh hưởng của thừa tác vụ ấy nữa. Đến nỗi, ngài đã chủ
trương làm linh mục thì phải thánh thiện, bằng không sẽ có thể
đi đến chỗ phá Giáo Hội. Tất nhiên ngài không có ý nói rằng
không thánh thiện thì đừng có làm linh mục, vì chính bản thân
ngài là một “con người tội lỗi nhất” thì làm sao ngài dám làm
linh mục. Thế nhưng, trên thực tế, ngài vẫn (cùng với Hội Đồng
Tổng Quản Dòng) chọn đi học làm linh mục, những người em nào
của ngài được ngài nhận thấy, với tầm mức tu đức của ngài, (ít
là căn cứ vào bề ngoài), tốt lành thánh thiện trổi vượt. Và
điều kiện tối thiểu, được ngài cho là chín chắn và thích hợp
nhất để chịu chức linh mục đó là tuổi tam thập nhi lập, tuổi
Chúa Giêsu bắt đầu xuất thân đi rao giảng Nước Trời, thực hiện
việc cứu độ của Người.
Nói
đến đây, cũng cần nhắc đến một đặc điểm nữa của Dòng Đồng Công,
phản ảnh từng chi tiết liên quan tới đời sống siêu nhiên, đời
sống thánh theo chủ trương của Đấng Sáng Lập, đó là vấn đề tổ
chức các lễ mừng kỷ niệm khác thường. Chẳng hạn, lễ bạc và lễ
vàng khấn dòng hay thụ phong linh mục. Lễ bạc, thay vì 25 năm
chỉ còn 15 năm, thời khoảng liên quan tới tuổi đời của Mẹ Maria
hạ sinh Ngôi Lời Nhập Thể, và lễ vàng, thay vì 50 năm chỉ còn
33 năm, thời khoảng liên quan tới tuổi đời của Chúa Giêsu. Ngoài
ra, nếu Thánh Kinh đã có những con số đặc biệt liên quan tới
mầu nhiệm cứu độ thế nào, như con số 7 (7 ngày tạo dựng, 7 ơn
Chúa Thánh Thần v.v.), số 40 (40 năm trong sa mạc của Dân Do
Thái, 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu v.v.), thì các con số
tự nhiên cũng có một ý nghĩa siêu nhiên đặc biệt với Cha Thủ
như vậy, vì nó nhắc nhở các mầu nhiệm trong đạo, và cần được
tưởng nhớ để áp dụng vào đời sống thánh, để nhắc nhở nên thánh,
như con số 3 kính Chúa Ba Ngôi, con số 5 kính 5 Dấu Thánh Chúa
Giêsu, con số 7 kính Đức Mẹ 7 Sự, con số 12 kính 12 nhân đức
của Đức Mẹ v.v.
Tuy
nhiên, theo tôi, yếu tố chính yếu làm nên căn tính của Dòng
Đồng Công và là điều kiện bất khả châm chước cho việc Nên Thánh
của những ai muốn theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công, vẫn là
tinh thần Tận Hiến, một tinh thần còn khó hơn cả việc khổ chế,
chay tịnh, phạt xác, câm lặng, đi chân không v.v. có tính cách
bề ngoài ở các dòng khổ tu nữa. Vẫn biết những việc khổ hạnh
khác thường ấy nếu không có tinh thần thánh thiện cũng chẳng
thể nào thực hiện nổi, song ngược lại, nếu thực hành những việc
khổ hạnh tự bản chất chỉ là phương tiện để thánh hóa mà không
tiến tới chỗ hoàn toàn tận hiến tuân phục thì cũng không đạt
được mục đích của những việc làm bề ngoài ấy. Bởi vậy, ở đây
chỉ so sánh giá trị khách quan giữa phương tiện khổ hạnh giúp
nên thánh với chính tinh thần tận hiến thánh thiện mà thôi,
theo ý nghĩa của câu Chúa Giêsu trả lời cho vấn đề được các
môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đặt ra là tại sao các môn đệ
của Người không chay tịnh như họ và những người Pharisiêu (x
Mt 9:14-15).
Trong
Dòng Đồng Công, chỉ có ai thật tình và liên lỉ “tìm Nước Thiên
Chúa và sự công chính của Ngài trước” (Mt 6:33), theo tinh thần
Tận Hiến hoàn toàn phó thác mọi sự theo Ý Chúa, mới có thể sống
được mà thôi. Chỉ có ai hoàn toàn đến “không
phải để được phục vụ mà là phục vụ” (Mt 20:28),
đúng như khẩu hiệu của Dòng Đồng Công là “Non
Ministrari Sed Ministrare”, theo tinh thần bác ái
Yêu Nhau, mới có thể bền đỗ cho đến cùng ở trong tổ chức được
lập nên để Huấn Thánh cho người Việt Nam này mà thôi. Chỉ có
ai biết “hạ mình xuống, vui chịu khinh
chê giầy đạp, chịu dể duôi bắt bớ”, theo tinh thần
Bỏ Mình, mới có thể Làm Thánh, thay vì bỏ ra, khi không được
làm linh mục, làm giáo sư dạy học mà thôi. Có thể nói, trên
thực tế, theo đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công với “Cha Thánh Thủ”
và như “Cha Thánh Thủ”, tu sĩ Đồng Công nào có được một tinh
thần Tận Hiến, theo chiều hướng Thánh trước hết và Thánh trên
hết, sẽ có được cả tinh thần Bỏ Mình và Yêu Nhau. Đó là lý do,
trong chính cuộc sống của tu sĩ Đồng Công, Cha Thủ còn muốn
đào tạo đặc biệt một số anh em muốn nên trọn lành hơn, bằng
cách kêu gọi họ dấn thân tuyên hứa sống đời Toàn Thiêu, theo
những qui định do chính ngài biên soạn được gọi là Luật Toàn
Thiêu.
Cha
Thủ – Linh Hướng Thánh
Đầu
năm 1972, khi tôi đang ở Di Linh Lâm Đồng Bảo Lộc, đầu tiên
có phận sự vừa làm vườn ở đồn điền Thiên Mẫu của nhà dòng, sau
đó được tạm nghỉ để lấy giờ tự học thi tú tài hai. Sáng hôm
đó, bất ngờ tôi được tin Anh Cả muốn gặp tôi. Tôi đã lập tức
đến gặp ngài ngay. Không ngờ, đây là lần gặp gỡ quyết liệt nhất
và quan trọng nhất cho cuộc đời tu trì của tôi, cho cuộc đời
nên thánh của tôi, tác dụng của nó thậm chí còn ảnh hưởng sâu
đậm cho đến tận bây giờ và mãi mãi.
Tôi
còn nhớ, cuộc gặp gỡ hôm ấy diễn ra, khi mọi người đã đi làm
công tác (ngoài vườn), hai cha con chúng tôi, đúng hơn, nói
theo tinh thần bình dân của Dòng Đồng Công, hai Anh em chúng
tôi, đi dọc theo hành lang hội trường, nối liên giữa nhà cơm
và phòng ngủ, một tác động đi lại để nói chuyện với Cha Đaminh
Maria Trần Đình Thủ bấy giờ, được tôi coi như là một cuộc hành
trình Huấn Thánh, như cuộc hành trình của thành phần môn đệ
về làng Emmau đang ở trong tâm trạng bối rối, cần phải được
Chúa Kitô Phục Sinh đồng hành soi đường chỉ bước, trước khi
có thể trở thành chứng nhân cho Người giữa các vị tông đồ (x
Lk 24:13-35). Chúa Kitô Phục Sinh đã tự động hiện ra với hai
môn đệ này thế nào, Cha Thủ cũng tự động đến với tôi như thế,
chứ không phải tôi xin gặp ngài như những lần trước. Chúa Kitô
Phục Sinh đã đến để làm cho các môn đệ của Người cảm thấy lòng
họ nóng lên và cuối cùng nhận ra Người thế nào, Cha Thủ cũng
làm cho lòng tôi trở nên khác thường, và cuối cùng tôi đã thực
sự gặp được Chúa Kitô, với một cuộc đời hoàn toàn biến đổi như
thế.
Đúng vậy, vì hoàn toàn hết sức thương yêu tôi, lo Huấn Thánh
cho tôi, một cách tận tình, một cách kỹ lưỡng, một người em
ngài vốn thấy thật sự là ngay từ khi nhập Thử Viện ở Nhà Đá
Bình Định Qui Nhơn vào mùa hè năm 1966 đã tỏ ra hết sức hăng
say nên thánh, chẳng thiết gì cả, sẵn sàng xung phong làm tất
cả những gì và bất cứ những gì không ai chịu làm hay không ai
dám làm, một thái độ Cha Thủ cảm thấy như điều kiện tối cần
nơi thành phần muốn theo Chúa với ngài, muốn theo Lý Tưởng Thánh
Đồng Công như ngài, mà Cha Thủ đã gọi tôi tới và hết sức nghiêm
thẳng chưa từng thấy, trong việc vạch ra cho tôi biết là tôi
có 3 “tội”: tội thứ nhất là tội ham học (tức phạm tới tinh thần
Tận Hiến của dòng), tội thứ hai là tội chống đối (tức phạm tới
tinh thần Bỏ Mình của dòng), và tội thứ ba là tội nghĩa riêng
(tức phạm tới tinh thần Yêu Nhau của dòng).
Thú
thật, bấy giờ, tâm thần tôi hoàn toàn như bị tẩu hỏa nhập ma,
choáng váng, quay cuồng, như trời rung đất sập. Bởi vì, tôi
cảm thấy mình hoàn toàn bị oan. Chẳng có một tội nào trong ba
tội này hết… Thế là tôi nghẹn ngào không nói lên lời. Chỉ biết
bật khóc. Khóc nức nở. Khóc chưa từng thấy trong cuộc đời tu
của mình. Tôi cảm thấy nhức nhối quá sức. Tôi cảm thấy tủi nhục
quá đi. Cả cuộc đời tu của mình, cho tới bấy giờ, tôi chỉ một
lòng theo Chúa, hết sức ham ước nên thánh, lúc nào cũng sẵn
sàng làm tất cả những gì Chúa muốn qua bề trên, dù những điều
ấy vượt khả năng của mình, chấp nhận tất cả những gì là thiệt
thòi nhất cho mình, để đổi lấy Lý Tưởng Thánh Đồng Công v.v.
Thế mà giờ đây, vị được tôi tin tưởng nhất, kính yêu nhất, cảm
phục nhất, cần nương tựa nhất, lại đẩy tôi ra, lại gán ghép
cho tôi những điều chẳng những tôi thật sự không có mà còn phạm
đến tôi nữa. Cách riêng vấn đề ham học, một việc chính ngài
bảo tôi học chứ tôi đâu có coi trọng và van xin ngài cho đâu!
Cuối
cùng, tôi đã lấy lại được bình tĩnh và đã thưa với ngài trong
nước mắt rằng: "Nếu Anh không tin em, thì em chỉ biết chứng
minh bằng việc sẵn sàng bỏ học ngay bây giờ". Theo chiều
hướng Thánh trước hết và Thánh trên hết, ngài đồng ý liền. Còn
về 2 tội kia, tôi cũng thành thật trình bày với ngài là tôi
cảm thấy không có, và xin ngài cho tôi biết rõ vấn đề để tôi
có thể sửa mình một cách cụ thể và đúng như ý của ngài hơn.
Về tội chống đối, ngài cho tôi biết rằng tôi lập bè kéo cánh
chống lại đội trưởng của tôi. Về tội nghĩa riêng, ngài cho tôi
biết là tôi yêu riêng một người anh em trong đội, được ngài
nêu tên đàng hoàng, (lớn hơn tôi 2 tuổi). Sau khi nghe thêm
những chi tiết này của ngài, theo linh tính tự nhiên, tôi biết
ngay được ai là người đã “tâu” với ngài về tôi với 3 “tội” đồ
như thế. Thế nhưng, vì Lý Tưởng Thánh Đồng Công, tôi chấp nhận
tất cả, chỉ chân thành minh oan cho mình về tội nghĩa riêng
mà thôi, nên ngài đã tỏ ra thông cảm. Còn tội chống đối, với
con người nhiệt thành đóng góp để xây dựng đoàn thể của mình,
(nhóm anh em cùng khấn một lần với nhau), tôi xin chấp nhận
những nhận định bề ngoài ấy của anh đội trưởng “nạn nhân”. Kết
quả ngài đã ra việc “đền tội” cho tôi như thế này: hằng ngày,
sáng đi làm vườn (tức không còn học thi tú tài II nữa), chiều
về tĩnh tâm một mình (ở đâu đó tùy tôi), tối họp hành trong
đội không được phát biểu gì nữa (được nghe mà không được nói).
Thế
là thằng bé Gióp tôi bắt đầu đi vào xóm nhỏ điêu tàn. Âm thầm
sống những ngày đền tội. Không ngờ, theo ý Chúa Quan Phòng vô
cùng mầu nhiệm, những ngày đền tội ấy lại là những ngày thần
tiên nhất cho cuộc đời tu trì và sống đức tin của tôi. Chỉ một
tháng sau, tôi đột nhiên hiểu được một câu Phúc Âm rất quen
thuộc mà lại tưởng là tầm thường nhưng bấy giờ đã hiện lên trong
tâm trí tôi cả một linh đạo, cả một con đường Nên Thánh, đó
là câu: “Hãy chọn chỗ rốt bét”
(Lk 14:10). Đây là câu Phúc Âm thứ hai đã thực sự làm biến đổi
hẳn cuộc đời của tôi. Câu thứ nhất là “được
lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn nào được ích chi”
(Mt 16:26). Câu Phúc Âm thứ nhất này đang vang vào tai tôi,
khi tôi còn là một thiếu niên trung học, đã biết yêu thương
và đang ôm đủ thứ mộng của một con người trẻ của thời bấy giờ,
thậm chí còn là một thiếu niên tội lỗi dâm ô, và chỉ sau khi
nghe thấy câu ấy, từ lời giảng của một vị linh mục trong Lễ
Đêm Giáng Sinh ở sân trường Đức Minh Tân Định Sài Gòn năm 1963,
tôi đã cảm thấy mọi sự thế gian là giả trá, là hư vô, kể cả
tình yêu phái tính đang lôi cuốn tôi bấy giờ, đến độ, tôi không
thể cầm lòng được nữa, đã tâm sự thốt lên với hai người bạn
thân nhất của tôi đang tham dự Thánh Lễ bấy giờ rằng: “Tao
muốn đi tu ngay bây giờ!”
Nếu
câu Phúc Âm thứ nhất ấy đã hoàn toàn biến đổi cuộc đời yêu cuồng
sống vội của tôi, cuộc đời hoàn toàn chẳng biết Chúa là ai,
chẳng biết mình là gì, ngoài thiên đường trần thế, cuộc đời
bỏ lễ Chúa Nhật nhiều lần của tôi, lười lĩnh kinh hạt, bê tha
tội lỗi v.v. từ đó đã trở thành một thiếu niên tự động dậy sớm
đi lễ hằng ngày, âm thầm cầu nguyện trong ngày, cho đến khi
nhập Dòng Đồng Công ngày 21/6/1964 thế nào, thì câu Phúc Âm
thứ hai sau đó 9 năm, cũng biến đổi một con người tu sĩ (sắp
vĩnh thệ vào ngày 22/8/1973) của tôi như vậy. Phải thú thật
là khi mới vào tu Dòng Đồng Công, tôi rất ư là sốt sắng, đến
độ không muốn nói chuyện với ai, chỉ sợ chia trí không thể kết
hợp với Chúa, kiểu kết hợp khi còn là đệ tử bấy giờ tôi cứ nghĩ
phải bằng trí khôn hơn bằng ý muốn, cần phải giữ lặng mới làm
được, và đến độ ăn uống kham khổ hơn mọi người, cho tới khi
biết được là phải có phép giám đốc đệ tử mới được làm như thế.
Tôi luôn được vị giám đốc đệ tử này thường khuyên bảo tôi cần
phải sửa đổi một trong những điều chính yếu là “hãy
cố gắng sống hòa mình với mọi người, đừng lập dị”.
Ngoài
ra, vì sốt sắng “quá” như vậy, dù chưa được thực sự lên tới
bậc tu đức tột đỉnh là “tầng trời thứ ba” (2 Cor 12:2) như Thánh
Phaolô, tôi quả thực cũng có “những ý nghĩ kiêu căng” (Lk 1:51),
không biết có giống như trường hợp của Vị Đại Tông Đồ Dân Ngoại
này hay chăng (x 2 Cor 12:5-10), chỉ biết rằng tôi rất hay phán
đoán xấu cho anh em tôi, khinh thường những người không được
sốt sắng như mình. Cho đến khi, phải, cho đến khi Chúa mở mắt
tôi ra, trong thời gian tôi ở Tập Viên năm 1966, bằng cách,
Chúa để cho tôi cũng bị anh em mình xét đoán xấu lại đúng y
như những gì tôi đã đoán xét xấu cho họ. Từ đấy, tôi cảm thấy
hết sức thấm thía câu Phúc Âm “các
con lấy đấu nào đong cho ai thì cũng bị đong lại cho đấu ấy”
(Mt 7:2), để rồi tôi không còn dám khinh khi một ai nữa, trái
lại, rất thông cảm với mỗi người và mọi người.
Tới
giai đoạn tu đức này, giai đoạn từ mình vươn ra với tha nhân
như thế, Chúa còn kéo tôi gần đến ngài nữa, khi tôi cảm thấy
rằng chính lúc tôi làm bậy, ở những tác động phán đoán xấu xa
và khinh thường anh em mình như thế, Chúa vô cùng nhân từ chẳng
những không phạt tôi, lại còn thương tôi, làm lành thánh hóa
tôi nữa, đúng hơn, phải nói rằng Ngài đã phạt tôi (khi để tôi
bị xét đoán xấu lại và bị anh em xa cách), nhưng chính cái phạt
ấy lại là tác động yêu thương nhân ái của Ngài, nhờ đó, chính
từ cái xấu của mình, tôi biết mình hơn, biết người hơn và biết
Chúa hơn. Đó là cảm nghiệm thần linh thứ hai tôi có được trong
cuộc đời nên thánh của mình, cảm nghiệm chẳng những về mối liên
hệ hiệp thông giữa tôi với Chúa cùng tha nhân, mà còn về Tình
Yêu Thiên Chúa có thể biến đổi mọi sự dữ do con người làm ra
để biến thành sự lành cho họ.
Thế
là, trong tiến trình nên thánh của mình, theo sự dẫn dắt của
Thần Linh, tôi đã đi từ cảm nghiệm thần linh thứ nhất “được
lợi lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích chi”,
liên quan đến việc từ bỏ thế gian mà theo Chúa, sang đến cảm
nghiệm thần linh thứ hai, liên quan tới việc sống với Chúa và
tha nhân, đến cảm nghiệm thần linh thứ ba “hãy
chọn chỗ rốt bét mà ngồi”, liên quan đến việc phó
thác cậy trông, tức là đừng bao giờ tự động tìm cách đưa mình
lên, dù là những gì thực sự rất hợp với Ý Chúa, như trường hợp
của hai nguyên tổ muốn tự động lên bằng Thiên Chúa, giống như
Thiên Chúa (x Gen 3:1-7), Đấng quả thực muốn họ nên trọn lành
như Ngài (x Mt 5:48), một việc mà chỉ có Ngài mới có thể làm
được cho con người và nơi từng người vào thời điểm của Ngài,
trái lại, cứ sống trọn “thân phận
thấp hèn tôi tớ” (Lk 1:48) của mình, như Mẹ Maria,
còn việc được “mời lên chỗ trọng vọng
hơn” (Lk 14:10) là việc của Chúa chứ không phải
của mình. Tôi đâu ngờ cảm nghiệm thần linh thứ ba này là cảm
nghiệm Chúa sửa soạn cho tôi trước khi Ngài muốn sử dụng tôi,
muốn sai tôi đi làm việc cho Ngài, trước khi Ngài mời tôi lên
chỗ cao hơn, để sau đó, cho dù có ở chỗ được mời lên cao hơn
như vậy, tôi cũng không thể vênh vang tự đắc với ai, mà vẫn
cứ sống ở “chỗ rốt bét của mình” là
lòng khiêm nhượng và “đức tin tuân phục” (Rm 1:5).
Đúng
thế, chỉ sau hai tháng sống đời tu trì đền tội hết sức là thần
tiên như vậy, đột nhiên, tôi được “con người tội lỗi nhất” là
Anh QP gọi tôi là người em đang trong thời gian “đền tội” vô
hạn định, tới phòng riêng của ngài vào buổi chiều hôm ấy. Không
phải là để thẳng thắn nói lời tha án cho tôi, nhưng qua những
gì ngài quyết định, gián tiếp ngài đã công nhận là thời kỳ đền
tội của tôi đã xong, tôi thực sự không phải là kẻ ham học như
ngài ra phán quyết. Bấy giờ, sau giây phút trầm ngâm, ngài nhìn
tôi mà nói: “Anh muốn sai em đi giúp
tiểu chủng viện Simon Hòa Đà Lạt!” Lại một cơn bàng
hoàng sửng sốt đến tột độ khác đến với tôi. Lần này không phải
là một cơn chấn động lở đất như lần trước, liên quan tới buổi
gặp gỡ “kết tội” và xử án tôi, mà là một cơn sấm sét long trời,
liên quan tới một sứ vụ từ trời, hoàn toàn vượt khả năng và
ước tưởng của tôi. Ở chỗ, tôi đang mắc đủ thứ tội phản với các
tinh thần chính yếu của nhà dòng, mà nay lại là người được sai
đi mang chuông đánh nước người. Vả lại, tôi cũng chẳng có đủ
bằng cấp và khả năng kiến thức để vào giúp một tiểu chủng viện
là nơi đào tạo mầm non linh mục cho Giáo Hội, trong khi đó nhiều
anh em trong dòng đang dạy ở các trường trung tiểu học Đồng
Công các nơi, đang dạy ở chính Đệ Tử Viện Đồng Công, nhất là
đang theo học ở ngay Đại Học Thụ Nhân Đà Lạt, hoặc đang coi
sinh viên ở Cư Xá Rạng Đông Đà Lạt gần tiểu chủng viện này.
Đó
là lý do, lần đầu tiên trong đời tu, tôi đã, không phải là chối
từ lệnh của bề trên, mà là theo chiều hướng “việc ấy thành sự
sao được” (Lk 1:34), như Mẹ Maria đã thân thưa với Tổng Thần
Gabiên trong ngày Truyền Tin Lời Nhập Thể, lên tiếng với ngài
rằng: “Thưa Anh, làm sao em có thể làm được việc này. Như Anh
biết, chính bản thân em còn lo chưa xong, mà nay lại đi giúp
người khác, thì làm sao em có thể chu toàn trách vụ nghiêm trọng
này nổi? Vả lại, ngoài vấn đề tư cách, cả đến khả năng tự nhiên
em cũng không đủ bằng cấp. Còn nhiều anh em khác xứng đáng hơn
em…” – “Em cứ đi, đã có Chúa giúp. Thực sự đã có nhiều anh em
cản anh làm điều này. Nhưng em yên tâm. Cứ tin tưởng. Chúa sẽ
làm việc nơi em!” Trước lời khẳng định cương quyết đầy tin tưởng
của ngài, tôi cảm thấy được hoàn toàn hồi sinh, như trường hợp
các tông đồ được Chúa Kitô Phục Sinh thổi hơi mà nói: “Bình
an cho các con. Như Cha đã sai Thày thế nào, Thày cũng sai các
con như vậy. Các con hãy nhận lấy Thánh Thần” (Jn 20:21-22).
Thế
nhưng, dù có được mời lên chỗ trọng vọng hơn, ngon lành hơn,
thực sự là ngoài ý muốn và khả năng của mình như thế, tôi vẫn
có thể “chọn chỗ rốt bét mà ngồi”, thậm chí vẫn phải tiếp tục
“chọn chỗ rốt bét mà ngồi”, khi hoàn toàn khiêm nhượng và tin
tưởng thưa tiếng “xin vâng” (Lk 1:38) như Mẹ Maria. Tuy nhiên,
sau cuộc gặp gỡ ấy, tôi vẫn tiếp tục những tháng ngày thần tiên
cầu nguyện như 2 tháng qua, để dọn mình cho một cuộc lên đường
phục vụ đầu tiên trong cuộc đời tu suốt đời đã từng làm đủ mọi
thứ chuyện được cho là thường hèn trong nhà dòng. Một hôm, tôi
đã xin gặp ngài, để xin ngài một đặc ân, gọi là làm hành trang
lên đường, chẳng những cho công cuộc tông đồ đại diện nhà dòng,
đáp ứng lời yêu cầu của Đức Cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền đã
xin Cha Bề Trên Thủ cho các thày đến giúp, (như năm 1968 dòng
đã sai thày Giáo làm việc này), mà còn cho cả cuộc đời theo
đuổi Lý Tưởng Thánh Đồng Công của tôi nữa. Ngài đã nhận lời
soạn một bản Luật Sống Bé Nhỏ như tôi xin, được ngài ký ngày
8/7/1972, một bản văn rất quí, với chữ viết tay của ngài, (song
trước khi hoàn tục “vào đời” năm 1982, tôi đã để lại bản chính
cho Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ cất giữ một cách xứng đáng), một
bản văn tôi đã phổ biến trong tác phẩm “Trở Nên Như Trẻ Nhỏ”
của tôi (Cao-Bùi, 1994, trang 219-224).
Trong
thời gian tiền biến cố sai đi này, câu Phúc Âm đã làm tôi thấm
thía cảm nghiệm thần linh về thân phận của tôi bấy giờ, mới
chỉ làm cho tâm trí tôi luẩn quẩn với tác động “chọn” lựa của
tôi mà thôi, tức là việc tự tôi, ở mọi nơi và trong mọi lúc,
cũng như trong mọi sự, phải làm sao để “chọn chỗ rốt bét mà
ngồi”, tìm chỗ thấp nhất mà ở. Thế nhưng, sau biến cố sai đi,
trong giây phút tiếp tục âm thầm nguyện cầu trước nhan Chúa,
cả tháng trời nữa, (tổng cộng trước sau thời gian tương đương
với 3 tháng Hè Nội Tâm, 3 tháng như bế quan để khổ luyện Bí
Quyết Phúc Âm), tôi mới thấm thía hơn nữa ý nghĩa sâu xa của
lời khuyên có vẻ rất đơn sơ giản dị ấy của Chúa Giêsu. Thật
thế, chính sau khi được thấm thía rồi, đọc lại Phúc Âm, tôi
mới vỡ lẽ ra rằng Chúa Giêsu không bảo “hãy chọn chỗ cuối rốt
mà ngồi”, mà là “hãy đến mà ngồi vào chỗ cuối rốt”. Chính Chúa
Giêsu đã khẳng định nguyên tắc tu đức này, khi phán: “Không
phải các con chọn Thày mà là Thày đã kén chọn các con và sai
các con đi sinh hoa kết trái” (Jn 15:16). Tức là tôi phải ngồi
vào chỗ không phải do tôi chọn, cho bằng đã được giành sẵn cho
tôi theo Ý Chúa, một chỗ “cuối rốt” đến nỗi theo tự nhiên tôi
không thể nào thấy được nó, mà phải có đức tin mới thấy được,
thậm chí mới chấp nhận được sau khi đã thấy nó, vì chỗ ấy đầy
khổ đau hơn là vinh quang, hay đúng hơn là một chỗ vinh quang
đầy đau khổ (x Jn 12:23-24,27), chỗ được Chúa Giêsu nói với
các tông đồ là Ngài phải đi dọn cho các vị (x Jn 14:3), bằng
không muôn đời các vị không thể nào tới được (x Jn 13:33), nhờ
đó, Người ở đâu các vị cũng mới có thể ở đó với Người (x Jn
14:3 đối chiếu với Rev 14:4), chứ không phải như đã phũ phàng
xẩy ra khi Người bị bắt giải đi từ Vườn Cây Dầu thì bấy giờ
“tất cả đã bỏ Người mà tẩu thoát” (Mk 14:50).
Đó
là lý do tôi đã luôn tâm niệm “đến mà ngồi ở chỗ rốt bét” theo
chiều hướng này chính là luôn sống tinh tuyền khiêm nhượng bằng
một đức tin tuân phục như đệ nhất tạo vật Đầy Ơn Phúc Maria!
Từ đó, khẩu hiệu Sống Thánh của tôi là câu Phúc Âm “hãy hoán
cải và trở nên như trẻ nhỏ” (Mt 18:3). Và để cho dễ nhớ và luôn
nhắc nhở mình, chẳng những về cảm nghiệm thần linh tôi có được
trong thời gian “đền tội” đầy thần tiên ấy, mà còn về linh đạo
duy nhất có thể đến với Chúa và theo Chúa này, tôi đã bắt đầu
lấy biệt hiệu được kèm theo tên thật của tôi, đó là 3 chữ tắt
BVL (tức Bá Vũ Ly, phiên âm từ chữ Latinh - Parvuli là Trẻ Nhỏ).
Chính vì vẫn tiếp tục “đến mà ngồi vào chỗ cuối rốt” của mình,
chỗ Thiên Chúa chọn cho tôi, chứ không phải chỗ tôi tự chọn,
mà cả đang khi, nhất là sau khi hoàn tất một thứ “mission impossible”
này, tôi đã được một cảm nghiệm thần linh thứ năm, đó là cảm
nghiệm thấy rằng nếu thực sự là việc của Chúa thì Chúa sẽ làm
công việc của Ngài trong tôi, và Chúa thánh hóa tôi ngay khi
tôi làm việc của Ngài và cho Ngài. Bởi vậy, làm việc của Chúa,
cho dù phải có máu tử đạo mới làm nổi, nhưng cũng chính vì nhờ
máu tử đạo ấy mà tôi không bao giờ sợ lỗ và bị lỗ, nếu tôi luôn
biết “đến mà ngồi vào chỗ cuối rốt”, chỗ của hạt lúa miến bị
mục nát đi trong lòng đất (x Jn 12:24-25), do đó, thành công
hay thất bại, đối với tôi, trước hết và trên hết, là ở chỗ tôi
có hết sức nỗ lực hoàn thành Ý Chúa hay chăng, hơn là vì tôi
được thế gian khen tặng hay chê trách!
Cha
Thủ: Ảnh Hưởng Thánh
Hai
năm phục vụ tiểu chủng viện Simon Hòa Đà Lạt (1972-1974), phải
công nhận là cuộc đời tu trì phục vụ của tôi chưa bao giờ cảm
thấy vất vả như vậy, chưa bao giờ cảm thấy mệt mã như thế, với
vai trò kiêm đủ thứ của tôi, nào là dạy học việt văn và sử địa
(10 tiếng 1 tuần, chưa kể giờ dọn bài và chấm bài, hay đôi khi
dạy học thế cho người anh em cùng dòng với mình bận trở việc
học chính của họ) cho chủng sinh thuộc các lớp trung học đệ
nhất cấp (6-8), phụ giúp cha hiệu trưởng Trần Văn Nhượng và
giám học Vương Văn Điền; nào là làm giám thị đệ lục coi học
các lớp nhỏ (6-8), vào ban chiều (chưa kể giờ chơi đá banh với
chủng sinh sau giờ học chiều và vui chơi tự do với chủng sinh
sau giờ cơm tối), phụ giúp cha giám thị chính Nguyễn Hữu Duyên;
nào là mua bán đồ cho chủng sinh, nhất là bán đồ sau bữa trưa,
phụ giúp cha quản lý Nguyễn Văn Tính; nào là đặc trách cứu thương,
lo đủ thứ nhu cầu về y tế cho chủng sinh, từ việc phát thuốc
cho chủng sinh thường vào ban sáng sau điểm tâm, chở các bệnh
nhân đi khám bệnh bất cứ lúc nào cần, liên lạc với nhà bếp lo
nấu nướng riêng cho các chủng sinh bị bệnh, bê cơm bê cháo cho
họ v.v.
Vẫn
biết trong thời gian này, mỗi năm tôi có một người anh em dòng
cùng ở với tôi, nhưng không phải để chia sẻ các việc phục vụ
chủng viện với tôi, cho bằng để giữ tinh thần cho tôi, nên các
anh ấy, (Trần Long Chu thuộc lớp khấn VIII năm 1972-1973, và
Nguyễn Mạnh Thư cùng lớp khấn IX năm 1973-1974), chỉ dạy học
part time một số giờ tượng trưng, ngoài ra, phận sự chính của
hai anh là theo học ở Đại Học Thụ Nhân Đà Lạt. Thế nhưng, chính
trong thời gian phục vụ này, tôi đã cảm nghiệm thấm thía câu
Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly: “Các con sẽ
cảm thấy sầu thương trong một thời gian, song nỗi sầu thương
của các con sẽ trở thành niềm vui” (Jn 16:20), niềm vui không
phải chỉ ở chỗ được các chủng sinh hết sức quí mến, được các
cha hết lời khen tặng v.v., mà nhất là ở chỗ cảm thấy mình thật
sự chỉ là “một người đầy tớ vô ích” (Lk 17:10), “vô ích” ở chỗ
thật sự cảm thấy mình chẳng làm gì “hữu ích” nếu không có Ngài,
và “vô ích” ở chỗ hết sức cố gắng làm sao để không bao giờ dám
cậy mình và vênh vang tự đắc, trái lại, liên lỉ tin tưởng vào
Ngài và hết mình phục vụ chủng sinh, để Ngài nhờ đó có thể làm
tất cả những gì “hữu ích” như Ngài muốn qua tôi, và cũng nhờ
đó, “hữu ích” cho cả chính tôi, khi tôi được Ngài biến thành
một cành nho sinh hoa trái (x Jn 15:2,4), cho những tâm hồn
trẻ được Ngài gọi theo Ngài trên con đường trở thành linh mục
của Ngài từ tiểu chủng viện Simon Hòa Đà Lạt. Như thế, "chỗ
rốt bét" mà tôi phải "đến mà ngồi" đây chính
yếu là và thực sự là cảm thức "vô ích" của mình trước
nhan Chúa!
Thành
quả của việc hoạt động tông đồ đầu đời tu trì của tôi qua 2
năm ở Tiểu Chủng Viện Simon Hòa Đà Lạt, chẳng những trước hết
ở trong nội tâm của tôi, ở nơi mối liên hệ càng trở nên thân
mật hơn giữa tôi với Thiên Chúa, mà còn nơi mối liên hệ rất
tốt đẹp giữa riêng cá nhân tôi với những người tôi được làm
việc với và phục vụ trong môi trường tiểu chủng viện ấy, cũng
như giữa chung nhà dòng với Giáo Phận Đà Lạt. Để rồi, không
biết có phải là phần thưởng cho thành quả của 2 năm phục vụ
này hay chăng, tôi lại được mời lên chỗ trọng vọng hơn một lần
nữa, ngoài dự tưởng của mình, khi được bề trên chính thức tuyển
chọn vào số đi học làm linh mục, ở vào tuổi bình thường đã làm
linh mục nếu đi tu triều. Tuy nhiên, tôi chưa học được một chữ
Latinh nào ở Lương Sơn Phan Rí, nơi tôi được chỉ định tiếp tục
nghề dạy học của mình từ Tiểu Chủng Viện Simon Hòa Đà Lạt, với
vị thày Latinh của rất nhiều linh mục trong nhà dòng, đó là
dịch giả mang biệt danh Phạm Duy Lễ, một tên tuổi đi liền với
nhiều tác phẩm dịch thuật nổi tiếng, trong đó có bộ sách "Vinh
Quang Mẹ Maria" của Thánh Anphongsô.
Sau
đó, tôi được chuyển ra dạy học ở Nhà Đá, Phù Mỹ, Bình Định,
Qui Nhơn, vào tháng 10/1974, nơi mà cuối cùng tôi đã được lệnh
giải nghệ dạy học để chỉ chuyên trách việc phục vụ bếp rác nấu
nướng cho anh em thôi..., cho tới khi tất cả anh em phục vụ
ở đây di tản về Thủ Đức, đúng hôm Thứ Năm Tuần Thánh vào cuối
tháng 3/1975. Trong số 170 anh em Đồng Công lên đường xuất ngoại
vào tháng tư đen 1975, có 12 người đã xong thần học (và trở
thành 12 vị linh mục Việt Nam đầu tiên ở Hoa Kỳ năm 1977), 7
người xong triết học (về sau có hai linh mục trong số này làm
Giám Tỉnh của Chi Dòng), và một số được tuyển chọn học làm linh
mục, trong đó có tôi (người sang Mỹ đã học 2 năm triết ở Chủng
Viện Conception ở Missouri 1976-1978, rồi được bề trên gọi về
phục vụ nhiều lãnh vực kinh doanh khác nhau của Chi Dòng, như
làm quản lý Trại Heo ở Ash Grove Missouri 1978-1980, thành lập
và làm quản lý Sao-Mai Printing ở Houston Texas 10 tháng đầu
năm 1980, và làm quản lý Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ 1980-1982...
cho tới khi hoàn tục).
Đúng
vậy, tất cả những thành quả tôi có được qua hoạt động tông đồ
lần đầu tiên trong đời tu ở Tiểu Chủng Viện Simon Hòa Đà Lạt
ấy, là do niềm tin tưởng của Cha Thánh Thủ trong việc sai tôi
đi, như chính niềm tin của ngài đã làm nên cuộc lên đường và
định cư của nhóm anh em Đồng Công theo lệnh của ngài xuất ngoại
“để giữ lấy dòng và truyền giáo” vậy. Cho đến nay, mặc dù không
chính thức thuộc về thành phần còn sống trong dòng đi nữa, (vì
những lý do riêng, hoàn toàn không liên quan gì tới tinh thần
dòng, mà chỉ tới những dấu hiệu bất thường trong tâm hồn và
đời sống, những dấu hiệu đã được tôi chân thành trình bày với
Cha Thủ lần đầu tiên gặp ngài năm 1966, và cuối cùng trình bày
với vị bề trên thẩm quyền Chi Dòng năm 1982 bấy giờ để biết
được đâu là Ý Chúa, và hoàn toàn sẵn sàng chấp nhận quyết định
của vị bề trên này cho dù có thế nào đi nữa, có không xuất đi
nữa), nhưng Lý Tưởng Thánh Đồng Công vẫn tồn tại nơi tôi, và
niềm tin tưởng của vị Linh Hướng tận tình dẫn dắt tôi theo đuổi
lý tưởng này vẫn tiếp tục sinh hoa trái nơi tôi, nhất là qua
những việc tông đồ giáo dân tôi đang theo đuổi và phục vụ, những
việc tông đồ tôi sâu xa cảm nhận tôi không thể nào có thể dấn
thân và làm được, nếu không có Ảnh Hưởng Thánh từ Cha Thủ, đó
là Phong Trào Thiếu Nhi Fatima ở Tổng Giáo Phận Los Angeles
từ năm 1991, Chương Trình Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống từ năm
2000, và Mạng Điện Toán Toàn Cầu Thời Điểm Maria từ năm 2001.
Trước
hết là Phong Trào Thiếu Nhi Fatima TGP/LA, một phong trào khi
tôi vừa nhào vô, chưa hề biết gì về phong trào này, ngoài trừ
thấy được thực sự “dấu chỉ thời đại” Chúa muốn tôi nhập cuộc,
tôi đã được tín nhiệm tuyển bầu vào vai trò lãnh đạo, cho dù
bấy giờ tuổi đời đã quá downhill. Theo đường hướng Thánh trước
hết và Thánh trên hết của Cha Thủ, và theo kinh nghiệm bình
dân phục vụ giới trẻ ở Tiểu Chủng Viện Simon Hòa, tôi đã đến
với giới trẻ bằng tình yêu thương và cảm thông, một thứ ngôn
ngữ (yêu thương cảm thông) phổ quát đại đồng ai cũng hiểu được
và dễ dàng đối thoại, nhất là thành phần đang ở vào lứa tuổi
khát khao yêu thương và nồng nàn yêu thương. Qua cửa ngõ yêu
thương này, người tông đồ giới trẻ mới có thể dễ dàng tiến vào
lòng giới trẻ, mới làm cho họ tin tưởng, cảm mến, lắng nghe,
và sống theo những gì giới trẻ đang tìm kiếm là chân thiện mỹ.
Đóng vai trò của tiền hô Gioan Tẩy Giả, người tông đồ giới trẻ
phải làm sao để tự mình nhận ra Chúa Kitô, nhờ đó có thể đích
xác và có thần lực thúc giới trẻ tìm đến với Chúa Giêsu, Đấng
duy nhất có thể đáp ứng tất cả mọi khắc khoải và khát vọng mãnh
liệt của họ, để rồi chính họ sẽ tự động rủ nhau đến với Người,
như trường hợp của Anrê và Philiphê với Simon và Nathanaen (x
Jn 1:35-51). Tất cả những gì liên quan tới cảm nghiệm về việc
phục vụ giới trẻ và chất liệu phục vụ giới trẻ, tôi đã chia
sẻ và phổ biến trong các tác phẩm “Tông Đồ Giới Trẻ” (12/1996),
“Giới Trẻ Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” (12/1996), “Đường Thánh
Giá Giới Trẻ” (3/1998), và “Giới Trẻ của Ngàn Năm Thứ Ba” (11/1999),
chưa kể đến 2 cuốn khác cho riêng Phong Trào Thiếu Nhi Fatima.
Đó
là lý do, tôi đã cố gắng giúp cho giới trẻ Thiếu Nhi Fatima,
qua các Khóa Tĩnh Huấn Fatima hằng năm, thường vào dịp cuối
tuần Lễ Thanksgiving, sống theo gương của 3 Thiếu Nhi Fatima
tiên khởi là Lucia, Phanxicô và Giaxinta, một nhóm 3 Thiếu Nhi
Fatima, mới từ 7 đến 10 tuổi, đã dám và có thể bỏ đi cả những
gì vui chơi lành mạnh nhất của mình để sống ơn gọi Fatima là
“chấp nhận mọi đau khổ, mà đền tạ Chúa và cầu cho tội nhân ăn
năn cải thiện đời sống”. Nhờ tinh thần "vâng lời trọng
hơn của lễ" (1Sam 15:22), điều tâm niệm thứ 7 trong 10
Điều Tâm Niệm của Phong Trào Thiếu Nhi Fatima, điều tâm niệm
phản ảnh tinh thần Tận Hiến của Dòng Đồng Công, kết quả từ các
khóa Tĩnh Huấn liên tục hằng năm (1992-2006) cho thấy, chính
giới trẻ hiện đại, tiêu biểu nơi nhóm Thiếu Nhi Fatima nhỏ bé
tôi được phục vụ, đối với tôi, có thể nói thực sự trở thành
“niềm hy vọng của Giáo Hội”, đúng như những gì Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II ngỏ cùng họ vào Chúa Nhật 22/10/1979, trong
Thánh Lễ Đăng Quang của ngài, đến nỗi, tôi vẫn hay lập đi lập
lại với họ vào các Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng từ năm 1992 rằng:
“Các
em hơn tôi nhiều lắm. Hãy cố giữ lấy ơn Chúa ban. Ở vào tuổi
của các em đầu thập niên 1960, và ở Việt Nam bấy giờ không được
văn minh như ở Mỹ quốc hiện nay, thế mà tôi còn sống bê bối,
chẳng biết đạo nghĩa là gì, trong khi các em đang sống trong
một thế giới văn minh đầy tiện nghi vật chất, được tự do bay
nhẩy, sẵn đủ thứ để enjoy life, lại thức dậy sớm, mặc đồng phục,
đón chở nhau đến với Ngày của Đức Mẹ hằng tháng, để cầu Kinh
Mân Côi, đền tạ Chúa-Mẹ, học hỏi đạo đức, dự Thánh Lễ, ăn trưa,
rồi đi về, chẳng có gì vui chơi hào hứng. Sự hiện diện của các
em mỗi Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng ở chung Liên Đoàn, và Thứ Bảy
hằng tuần ở mỗi Đoàn, là một bài giảng hùng hồn đánh động cho
tôi nhất đấy, là gương mẫu rất sống động cho tên ‘lão nhi’ Fatima
này!”
Phải
chăng chính nhờ "đâm rễ" vào đời sống đạo đức hơn
là sinh hoạt này, thà làm một hạt cải nhỏ bé còn hơn cây vả
xum xuê lại bị Chúa nguyền rủa vì không sinh hoa kết trái (x
Mt 13:31; Mk 11:13-14), nhất là nhờ bị cắt tỉa như cành nho
sinh trái cho càng sinh trái hơn (x Jn 15:2), qua thân phận
từ 6 Đoàn vào năm 1990 còn 4 Đoàn vào năm 2006, mà giới trẻ
Thiếu Nhi Fatima, dù ít về nhân số và hạn hẹp trong nguyên Tổng
Giáo Phận Los Angeles, đã thật sự "vươn cao", chẳng
những ở các hoạt động bác ái xã hội, như thực hiện việc tặng
quà Giáng Sinh cho đủ thứ người bất hạnh vào Thứ Bảy Đầu Tháng
12, đầu Mùa Vọng hằng năm, cũng là dịp mừng quan thày Mẹ Vô
Nhiễm của Liên Đoàn, hay ở việc thành phần huynh trưởng chịu
đựng tất cả mọi thách đố cả trong lẫn ngoài để tiếp tục hăng
say nhiệt thành phục vụ các em Thiếu Nhi Fatima trong Phong
Trào, nhất là ở việc các huynh trưởng theo nhau dâng mình cho
Chúa trong đời sống tu sĩ hay linh mục: với thành quả sau 22
năm thành lập, 1984-2006, Thiếu Nhi Fatima đã có được 1 Linh
Mục (Dòng Ngôi Lời chịu chức ngày 27/5/2006), 4 Đại Chủng Sinh
(2 sẽ chịu chức linh mục vào mùa hè 2008, và 2 vào năm 2011),
1 Thày Dòng vĩnh thệ (trong Dòng Đồng Công) và 2 Nữ Tu vĩnh
thệ (1 trong Dòng Kín Carmêlô ở Alhambra TGP/LA, và 1 trong
Dòng Trinh Vương ở Lincoln Nebraska).
Về
Chương Trình Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống, được bắt đầu từ Chúa
Nhật 17/9/2000, gần dịp Lễ Mẹ Đồng Công (15/9), do một số anh
(chị) em thân hữu Đồng Công ở Nam California chủ trương và thực
hiện, trên làn sóng 106.3 FM vào mỗi tối Thứ Sáu hằng tuần,
từ 9 đến 9 giờ 30. Hai năm rưỡi đầu, mỗi tuần chi phí phát thanh
lên tới 400 Mỹ kim, cho cả ở California, và cho trên 15 tiểu
bang ngoài California qua Đài Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại ở
Washington D.C. Từ đó tới nay, chỉ nguyên ở những vùng nghe
được tần số 106.3, bao gồm Orange County, Los Angeles County,
Riverside County và San Bernadino County, với chi phí 300 Mỹ
kim cho nửa tiếng phát thanh mỗi tuần vào thời điểm "hot"
trong ngày như vậy.
Riêng
về phần nội dung, chương trình phát thanh Tin Mừng Sự Sống cũng
hoàn toàn mang dấu vết Đồng Công. Nếu nội dung của mỗi buổi
phát thanh Tin Mừng Sự Sống, ngay từ đầu và liên tục cho tới
nay không hề thay đổi, hoàn toàn trung thực phản ảnh danh xưng
Tin Mừng Sự Sống, bao gồm 3 phần thứ tự là Phụng Vụ Lời Chúa
(liên quan tới Mạc Khải Thần Linh), Giáo Hội Hiện Thế (liên
quan tới Tác Động Thần Linh trong việc canh tân bộ mặt trái
đất nơi hoạt động và giáo huấn của Giáo Hội), và Sống Thánh
Chứng Nhân (liên quan tới Đức Tin Tuân Phục, trong việc đáp
ứng Mạc Khải Thần Linh và Tác Động Thần Linh), thì ba phần này
cũng cho thấy 3 lòng tôn sùng đặc biệt của Dòng Đồng Công: Phụng
Vụ Lời Chúa liên quan tới lòng Tôn Sùng Thánh Thể, Giáo Hội
Hiện Thế liên quan tới lòng Tôn Sùng Đức Thánh Cha, và Sống
Thánh Chứng Nhân liên quan tới lòng Tôn Sùng Thánh Mẫu (theo
tinh thần Tận Hiến của một người Tôi Tớ Xin Vâng như Mẹ).
Tuy
nhiên, vấn đề phát thanh không phải chỉ có phần nội dung là
bài vở, và kỹ thuật là máy móc, mà còn cả vấn đề tài chính nữa,
một yếu tố mà nếu không có, hay không còn, thì kể như dù có
tưng bừng khai trương cuối cùng cũng âm thầm dẹp tiệm thôi.
Tuy nhiên, để có đủ tài chính cho việc loan truyền Tin Mừng
Sự Sống hằng tuần như thế không phải là chuyện dễ. Nào là thực
hiện việc quyên tiền, bằng cách gửi thư đến những địa chỉ quen
biết một năm 2 lần, một vào Tháng Chín, dịp kỷ niệm biến cố
phát thanh hằng năm 17/9, và một vào Tháng Ba, dịp mừng Quan
Thày của Tin Mừng Sự Sống là Lễ Mẹ Thai Lời 25/3. Nhất là việc
gây quĩ hằng năm ở Ngày Thánh Mẫu Missouri. Năm 2002, Tin Mừng
Sự Sống đã gây quĩ 2 lần, một lần tại Hội Chợ Xuân ở khu Tiểu
Sài Gòn, và một lần tại Ngày Thánh Mẫu ở Carthage Missouri,
cả hai lần cộng lại chưa tới 2 ngàn Mỹ kim, trong khi đó Tin
Mừng Sự Sống chi cho năm 2002 là 20.800 ngàn Mỹ kim. Năm 2006,
Tin Mừng Sự Sống gây quĩ ở Missouri, kiếm được chưa đầy 1 ngàn
Mỹ kim, trong khi đó chi phí cho năm 2006 là 14.500 Mỹ kim.
Tiền ở đâu ra? Xin trở lại vấn đề của “Cha Thánh Thủ” – ngài
lấy tiền đâu ra để chẳng những nuôi anh em trong dòng mà còn
có cả tiền để hoạt động tông đồ truyền giáo nữa, nếu không phải
là ngài đã làm hết sức mình, nhất là đã tìm Nước Chúa và Thánh
Thiện trước, nên mọi sự khác đã được ban cho sau? Phải thú thật
là, khi còn ở trong dòng, tôi không hiểu được vấn đề bí mật
này nơi người Anh Cả của tôi, cho tới khi tôi dấn thân vào việc
loan truyền Tin Mừng Sự Sống (www.tinmungsusong.org ) bằng phương
tiện truyền thanh đây!
Về
mạng điện toán toàn cầu Thời Điểm Maria (www.thoidiemmaria.net
) nếu ai để ý, cũng thấy dấu vết Cha Thủ và Đồng Công nơi tôi.
Mạng điện toán toàn cầu này, với sự trợ giúp đặc biệt của 2
huynh trưởng Thiếu Nhi Fatima, một lo về hình thức và một lo
về kỹ thuật, được ra mắt từ ngày 8/12/2001, và ngay từ đầu,
nội dung đã bao gồm ba phần chính: Giáo Hội, Thánh Mẫu và Thánh
Thể, liên quan tới thứ tự 3 thần đức, Tin tưởng Giáo Hội, Cậy
nhờ Thánh Mẫu và Mến yêu Thánh Thể. Ba chủ đề này cũng phản
ảnh 3 lòng tôn sùng đặc biệt của Dòng Đồng Công được ấn định
trong Tục Lệ dòng, đó là lòng tôn sùng Mẹ Maria, tôn sùng Thánh
Thể và tôn sùng Đức Thánh Cha.
Nếu
chú ý sẽ thấy 3 lòng tôn sùng này hoàn toàn ăn khớp với 3 tinh
thần Dòng. Lòng tôn sùng Mẹ Maria liên quan tới tinh thần Tận
Hiến, bởi đó bắt đầu vào Tập Viện, tu sĩ tương lai của dòng
phải tận hiến cho Mẹ Maria, và trong năm tập phải đặc biệt học
hỏi tác phẩm "Luận về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria”
của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort). Lòng tôn sùng Thánh
Thể liên quan tới tinh thần Yêu Thương bác ái của dòng, một
tinh thần Yêu Nhau được Cha Thủ rất chú trọng, đến nỗi, mở màn
cho một ngày sống (sau giờ ở lặng ngặt qua đêm và thiêng liêng
ban sáng) của tu sĩ Đồng Công là bài Ca Vịnh Ubi Caritas – Đâu
Có Tình Yêu Thương, và tội trầm trọng nhất tu sĩ Đồng Công vi
phạm là tội lỗi đức bác ái với nhau. Và lòng tôn sùng Đức Thánh
Cha, có thể nói, ở một khía cạnh nào đó, liên quan tới tinh
thần Bỏ Mình của nhà Dòng, nhất là ở cấp độ quản trị nhà dòng,
dính dáng đến các quyết định của những đấng bản quyền thuộc
Giáo Hội địa phương, (vì Đồng Công vẫn còn thuộc cấp Giáo Phận,
chưa trực thuộc Tòa Thánh), những quyết định thường không được
như ý nguyện của nhà dòng và đáp ứng nhu cầu của nhà dòng.
Tuy
nhiên, trong 3 lòng tôn sùng này, 3 lòng tôn sùng tiêu biểu
cho đặc tính của Giáo Hội Công Giáo và nơi Giáo Hội Công Giáo,
tôi vẫn thường nói với bạn bè rằng, về Thánh Thể và Thánh Mẫu
thì bên Các Giáo Hội Chính Thống Giáo cũng có. Chỉ riêng Giáo
Hội Công Giáo mới chú trọng tới Huấn Quyền nói chung và đề cao
Thượng Quyền của Đức Thánh Cha nói riêng, đến nỗi Huấn Quyền,
cùng với Thánh Kinh và Thánh Truyền, đã trở thành ba yếu tố
bất khả thiếu như nền tảng cho Đức Tin của Giáo Hội Công Giáo.
Tôi vẫn nói với các em Thiếu Nhi Fatima rằng, theo Giáo Hội
không bao giờ sợ lầm lạc. Bởi đó năm nào các em cũng học hỏi
đặc biệt về Sứ Điệp Đức Thánh Cha gửi giới trẻ hằng năm.
Tôi
cảm thấy tự nhiên rất thích thú những tài liệu của Giáo Hội.
Mỗi ngày tôi đã bỏ ra ít là 3-4 tiếng để vừa đọc, dịch và phổ
biến các tài liệu quí hóa này, liên tục hằng ngày suốt từ khi
bắt đầu có Thời Điểm Maria tới nay. Một số vị tu sĩ, linh mục
và giáo dân đã gửi điện thư xin tôi được sử dụng những bài dịch
tài liệu hiếm quí này, cho riêng họ hay cho một mạng điện toán
toàn cầu khác, những tài liệu được dịch sang Việt ngữ mà họ
không tìm thấy ở bất cứ chỗ nào khác, dù nơi một số mạng điện
toán toàn cầu nổi tiếng hơn và đông người vào xem mỗi ngày hơn.
Chính tôi cũng sử dụng những tài liệu quí báu này để phổ biến
cả qua chương trình Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống hằng tuần, lẫn
các báo chí Công Giáo hằng tháng, đặc biệt là tờ Hiệp Nhất của
Cộng Đồng Công Giáo Giáo Phận Orange. Trong 62 tác phẩm tôi
viết và phổ biến từ năm 1988 tới 2006, đã có 12 cuốn chuyên
về văn kiện Giáo Hội và Giáo Hoàng.
Chính
tôi là người được lợi nhất trong việc nghiền gẫm và chuyển dịch
này. Tôi cảm thấy càng ngày càng đi sâu vào lòng Giáo Hội hơn.
Tài liệu tôi dịch không phải chỉ thuần văn kiện của Giáo Hội,
như các Thông Điệp, Tông Thư, Tông Huấn, Sứ Điệp, Giáo Lý hằng
tuần, giảng huấn phụng vụ, huấn từ mục vụ, diễn từ ngoại giao
v.v. của Đức Thánh Cha, mà còn các bài diễn văn của Tòa Thánh
ở Liên Hiệp Quốc, các hoạt động của hội đồng giám mục trên khắp
thế giới, các văn kiện thuộc các phân bộ của Tòa Thánh, kể cả
các biến chuyển của thế giới tân tiến ngày nay, liên quan tới
tâm thức văn hóa và chính trị cần phải được Giáo Hội truyền
bá phúc âm hóa. Nếu lòng tin tưởng phó thác thực hiện chương
trình phát thanh Tin Mừng Sự Sống của tôi được xuất phát từ
tinh thần Tận Hiến phó thác của Đồng Công, và nếu việc phục
vụ Phong Trào Thiếu Nhi Fatima của tôi xuất phát từ tinh thần
"không hưởng thụ nhưng phục
vụ - non ministrari sed ministrare", tức tinh
thần Bỏ Mình và Yêu Thương bác ái của Đồng Công, thì lòng gắn
bó Giáo Hội nơi tôi, được thể hiện qua mạng điện toán toàn cầu
Thời Điểm Maria, thật sự đã được bắt nguồn từ cả ba lòng tôn
sùng của Đồng Công, nhất là Lòng Tôn Sùng Đức Thánh Cha.
Phải
chăng chính vì luôn gắn bó và hiệp nhất với Đức Thánh Cha, vị
Thừa Kế Thánh Phêrô, Đại Diện Chúa Kitô trên trần gian để dẫn
dắt Giáo Hội như thế, mà Cha Đaminh Maria Trần Đình Thủ đã có
một chủ trương giống hệt như các vị, đó là chủ trương Thánh
trước hết và Thánh trên hết, vì chỉ có Thánh mới làm nên mọi
chuyện, cả trong Giáo Hội cũng như cho nhân loại và thế giới,
như hai vị Giáo Hoàng ở vào thời giao điểm giữa thiên kỷ 2 và
3, cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, đã bày tỏ như sau:
Trước
hết, Đức Gioan Phaolô II, một triết gia nhân bản, một vị Giáo
Hoàng đã thực hiện 104 chuyến tông du để mang "vui mừng
và hy vọng - gaudium et spes" đến cho thế giới ngày nay,
vị Giáo Hoàng đã phong nhiều thánh nhất trong lịch sử Giáo Hội,
với 483 vị hiển thánh và 1.339 vị chân phước, và ngài dường
như cho biết lý do của việc làm này qua những lời ngài bày tỏ
trong cuốn Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của mình (ấn bản Anh
ngữ, 1994, trang 228), nguyên văn như sau:
“Lòng
kính sợ Thiên Chúa là quyền lực cứu độ của Phúc Âm. Nó là một
niềm kính sợ xây dựng chứ không bao giờ hủy diệt. Nó tạo nên
những con người sống theo trách nhiệm, sống bằng tình yêu hữu
trách. Nó tạo nên những con người nam nữ – những Kitô hữu đích
thực – thành phần hoàn toàn nắm trong tay mình tương lai của
thế giới này” (những chỗ in đậm ở đây và dưới đây là do người
dịch tự ý muốn nhấn mạnh).
Vị
đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI của chúng ta, một thần học
gia về Giáo Hội hiệp thông và chủ trương đệ nhất ưu tiên Đại
Kết, trong cuốn The Ratzinger Report (Ignatius Press, 1985),
khi còn là Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Đức Tin đã chủ trương
Giáo Hội cần Thánh nhân hơn bất cứ một cái gì khác, dù là những
gì liên quan tới việc quản trị hay canh tân Giáo Hội:
“Như
Đức Gioan Phaolô II trong bài tưởng nhớ Thánh Borromeo ở Milan
đã nói: ‘Giáo Hội ngày nay không cần đến bất cứ một con người
cải cách nào. Giáo Hội cần đến những vị thánh’” (trang 42-43);
“Thật vậy, các thánh là thành phần canh tân Giáo Hội sâu xa
nhất, không phải bằng những dự án thực hiện các thứ cấu trúc
mới, song bằng việc canh tân chính bản thân mình. Những gì Giáo
Hội cần để đáp ứng với các nhu cầu của con người ở hết mọi thời
đại đó là sự thánh thiện, chứ không phải vấn đề điều hành” (trang
53); “Tôi không ngừng lập lại rằng Giáo Hội cần đến những vị
thánh hơn là những hành sự viên” (trang 67).
Mười
hai năm sau, trong tác phẩm Muối Đất - Salt of the Earth (ấn
bản Anh ngữ, Ignatius Press, 1997), ngài vẫn tiếp tục nhấn mạnh
đến vai trò khẩn trương và trọng yếu của các thánh nhân trong
Giáo Hội như sau:
"Điều
chúng ta thực sự cần là những con người có một nội tâm được
Kitô Giáo chiếm đoạt, những con người cảm nghiệm được nó như
là niềm vui và hy vọng, những người bởi thế trở thành những
người yêu mến Kitô Giáo. Và chúng ta gọi họ là những vị thánh
nhân" (trang 269); "trong thời đại của chúng ta đây,
những thứ canh tân cải cách chắc chắn không xuất phát từ những
cuộc diễn đàn và nghị hội, cho dù những điều này có tính cách
hợp lý của chúng, đôi khi thậm chí còn có tính cách cần thiết
nữa. Những điều canh tân cải cách sẽ xuất phát từ các nhân vật
tin tưởng, thành phần chúng ta có thể gọi là những vị thánh
nhân" (trang 270).
Những
tư tưởng của vị hồng y tương lai là Giáo Hoàng Biển Đức XVI
này đã được lập lại với tư cách là vị chủ chăn tối cao vào dịp
Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX tại Đức quốc, tối Thứ Bảy 20/8/2005,
(sau đó, vào dịp phong thánh ở tại Ba Tây ngày 11/5/2007 cho
một vị linh mục bản quốc Ba Tây đầu tiên là Antơnio de Sant'Ana
Galvão, ở đoạn cuối của bài giảng, ngài còn lập lại ý tưởng
cách mạng chính yếu ngài đã nói với giới trẻ ở Ngày Giới Trẻ
Thế Giới XX), như sau:
"Các
thánh nhân, như chúng ta đã nói, thực sự là thành phần cải cách.
Giờ đây tôi muốn bày tỏ điều này một cách thậm chí quyết liệt
hơn nữa, đó là cách mạng thực sự chỉ xuất phát từ các thánh
nhân, từ Thiên Chúa mà thôi, con đường tối hậu để biến đổi thế
giới. Trong thế kỷ vừa qua chúng ta đã trải qua những cuộc cách
mạng có cùng một dự tính – ở chỗ không trông mong gì ở Thiên
Chúa cả, chúng lãnh nhận tất cả trách nhiệm phục vụ thế giới
để biến đổi thế giới. Để rồi, như chúng ta thấy, điều ấy có
nghĩa là quan điểm về con người và thiên lệch bao giờ cũng được
coi như là nguyên tắc hướng dẫn tuyệt đối. Việc tuyệt đối hóa
những gì không tuyệt đối mà là tương đối được gọi là chủ nghĩa
độc đoán. Nó không giải phóng con người song lấy đi phẩm vị
của họ và bắt họ làm nô lệ. Đó không phải là những ý hệ cứu
vớt thế giới mà chỉ khi nào trở về với Thiên Chúa, với Đấng
Hóa Công của chúng ta, với vị bảo đảm tự do của chúng ta, vị
bảo đảm những gì thực sự là thiện hảo và chân thật. Cuộc cách
mạng đích thực chỉ là ở chỗ trở về với Thiên Chúa, Đấng là tầm
vóc của những gì là đúng và Đấng đồng thời là tình yêu vĩnh
hằng. Còn gì có thể cứu vớt chúng ta ngoài yêu thương đây?"
Nếu
Thánh Nhân là những vị đã sống đời đời ngay khi còn sống trên
trần gian và trong thời gian, vì các vị đã sống trong chân lý
và yêu thương là những gì không bao giờ qua đi, không bao giờ
lỗi thời, vì chúng là những gì phản ảnh Thiên Chúa duy nhất
hằng hữu vô cùng chân thật và toàn thiện, và đời sống thánh
thiện bất diệt của các ngài vẫn còn được Thánh Thần sử dụng
để canh tân bộ mặt trái đất cho tới khi mọi sự được canh tân
vào ngày cùng tháng tận, trở thành Trời Mới Đất Mới (x Rev 21:5,1)
thế nào, thì mộng ước thánh thiện, đời sống thánh thiện và công
cuộc thánh thiện của “Cha Thánh” Đaminh Maria Trần Đình Thủ,
vị sáng lập hội dòng Đồng Công và tha thiết theo đuổi Lý Tưởng
Thánh Đồng Công, cũng mãi mãi tồn tại, nhất là khi ngài vĩnh
viễn nằm xuống, như một hạt lúa miến mục nát đi (x Jn 12:24),
cho tương lai của một Mùa Thánh Đức Việt Nam…
Ngay
trong lúc Cha Thánh Thủ chưa vĩnh viễn nằm xuống, cả anh em
dòng lẫn người ngoài đều đã được chứng kiến thấy hoa trái tỏ
tường của Lý Tưởng Thánh Đồng Công do Cha khởi xướng và theo
đuổi, nơi một người anh em dòng đặc biệt là Cha Minh Đăng, vị
linh mục nổi tiếng của Địa Phận Thái Bình, đã xin nhập dòng
Đồng Công, cũng hạ mình xuống xưng mình là "em" ngọt
sớt với anh em dòng. Ngài là vị linh mục từng là chủ nhiệm của
tờ nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ của dòng, và ngài chẳng những
có một lòng tôn sùng Mẹ Maria rất đặc biệt, mà còn có biệt tài
nói về Mẹ rất ư là thu hút (như chính người viết đã từng được
diễm phúc nghe một số lần). Ngài chẳng may đã bỏ mạng (mất cả
tim) vì một tai nạn xe hơi ở Thủ Đức sau năm 1975, trong một
lần đi giảng phòng về, song ngôi mộ của ngài ở trong nghĩa trang
của nhà dòng không còn chỗ để bảng tạ ơn đã kín mít dầy đặc
(như tôi đã thấy khi ghé qua viếng mộ của ngài ngay sau cuộc
gặp gỡ Cha Thủ). Ngài không nổi tiếng ở hải ngoại bằng Cha Trương
Bửu Diệp, hay được bắt đầu tiến trình phong thánh ở Rôma như
Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, nhưng dầu sao, qua chứng cớ bề
ngoài, ngài cũng có thể được coi là một trong những hoa trái
đầu mùa của Mùa Thánh Đức Việt Nam, của Máu Tử Đạo Việt Nam,
một hoa trái đã được nhú lên từ mầm mống đã được cẩn thận gieo
trồng và khổ công chăm bón bởi chính Cha Đaminh Maria Trần Đình
Thủ là Lý Tưởng Thánh Đồng Công!
|
|