ANH
CẢ! XIN GỌI TÊN ANH LẦN CUỐI
Tưởng
nhớ người anh rất đáng mến
Đaminh
Maria Trần Đình Thủ
Anh Cả rất đáng
mến,
Em xin được gọi tên anh một lần cuối, vì từ nay trên cõi đời
này sẽ không ai xứng hợp để em gọi hai chữ “Anh Cả”. Đối với
em hai chữ “Anh Cả” mang một ý nghĩa hết sức đặc biệt, vì
nó biểu hiện cho vai trò làm cha, làm thầy, và làm một người
anh của anh. Và đó là lý do với em hai tiếng “anh cả” thân
thương sẽ không được dùng để gọi một ai khác, ngoài anh. Và
sự ra đi của anh đã để lại nơi em một mất mát, một nuối tiếc,
và một nhớ thương vô vàn.
Ngày
20 tháng 5 năm 1962, em được nhận vào Đệ Tử Viện Đồng Công.
Ngày hôm đó, em coi là ngày em được tái sinh trong ơn gọi
Đồng Công. Anh là người cha tinh thần đã cho em một cuộc sống
mới, một ơn gọi mới này. Chúa và Mẹ đã tác động qua anh để
em được sinh ra trong ơn gọi Đồng Công, một ơn gọi mà tuy
sau này em không còn đi cùng đường với anh và các anh em của
em nữa, nhưng mãi mãi nó vẫn là một dấu ấn của cuộc đời tâm
linh của em. Nhờ anh mà em được nuôi dưỡng và lớn lên trong
đường lối tu đức, ân sủng, và bình an của Chúa Mẹ. Nhờ anh
mà em biết Chúa, yêu Chúa, và biết cách phục vụ Ngài. Nhờ
anh mà em biết Mẹ Maria, hiểu Mẹ Maria, và yêu mến Mẹ Maria.
Bao lâu em còn sống, còn hơi thở, còn nghĩ đến Chúa Mẹ, còn
có khả năng làm một việc gì cho sáng danh Chúa Mẹ, anh vẫn
mãi mãi là người cha tinh thần rất đáng kính của em.
Anh
không những là người cha tinh thần, mà còn là một người cha
thật sự đã nuôi em bằng cơm, áo, và đã lo lắng cho em từng
những nhu cầu nhỏ mọn. 16 năm trong ơn gọi Đồng Công là một
chuỗi dài những ngày em được nuôi dưỡng và lo lắng đầy đủ.
Biến
cố tháng Tư năm 1975, anh đã nén lòng “đẩy” chúng em xa anh
đi tìm một cuộc sống mới, cuộc sống của những người tự do.
Sự tự do của chúng em, cuộc sống tự do của chúng em, và đời
sống mới của chúng em, anh đã đánh đổi bằng những tháng năm
tù tội. Ôi! Em làm sao tả hết tấm lòng hiền phụ của anh đối
với em cũng như mọi anh em Đồng Công. Những người mà như Thánh
Phaolô, anh đã “sinh ra” trong ân sủng, và tình thương mến.
Anh
không chỉ cho em một chuỗi dài sống trong lý tưởng Đồng Công,
mà tất cả chuỗi ngày dài ấy, anh vẫn không ngừng nhắn nhủ,
dậy dỗ và bảo ban em. Anh là một bậc thầy hết sức tận tụy
với nghề nghiệp. Một bậc thầy mà vì sốt sắng muốn cho những
môn sinh mình giỏi, nên đã phải nghiêm khắc, và không ngần
ngại sửa phạt. Và trong tinh thần ấy, anh chính là người thầy
của em. Anh dậy dỗ em, huấn luyện em, và khuyên răn em để
em trở thành một tâm hồn yêu mến Thiên Chúa , yêu mến Mẹ Maria
và nhiệt thành với việc thánh hóa bản thân. Anh là người đầu
tiên đã cho em và anh em Dòng ý tưởng và mơ ước rằng mình
có thể trở thành một vị thánh. Có thể làm thánh được.
Em
không bao giờ quên được những buổi huấn đức, những tuần phòng
tháng hoặc tuần phòng năm, cũng như những lần gặp gỡ riêng
tư. Anh như say sưa và trở nên lợi khẩu khi chỉ vẽ cho em
cũng như anh em Dòng con đường tu đạo, con đường nên thánh.
Nguyện vọng của anh là đào tạo và huấn luyện những vị “thánh
Việt Nam”. Em vẫn còn nhớ nhiều lần anh nhắc đi,
nhắc lại là các nước Âu Mỹ đã có những vị thánh, anh cũng
muốn Việt Nam mình có những vị thánh. Một lần trong một buổi
gặp gỡ, anh đã nói với em:
- Duyệt này ba cọc ba đồng.
Ý
anh muốn nói là em không mạnh mẽ, không dứt khoát và tha thiết
với lý tưởng thánh Đồng Công, với lý tưởng toàn thiện. Nhưng
em đã thưa lại với anh:
-
Không đâu anh. Ba cọc ba đồng rẻ quá. Ít nhất cũng phải ba
cọc sáu đồng em mới bán.
Nghe
vậy anh cười một cách vui vẻ. Có lẽ anh cho rằng ít ra em
cũng không làm anh thất vọng. Ít ra em cũng có một ý niệm
nào đó về con đường hoàn thiện. Hôm đó, em cảm thấy vui vì
được thấy anh vui.
Em
cũng còn nghe văng vằng đâu đây lời anh nói khi gửi chúng
em vào con đường mạo hiểm vượt biên:
-
Các em đi để bảo vệ Dòng, và để truyền giáo.
Anh
biết rằng dưới chế độ Cộng Sản vô thần thì những đứa em non
nớt, và bé bỏng ấy sẽ khó lòng vượt qua được những thử thách.
Anh đã sai chúng em ra đi, vừa để duy trì được sự thánh thiện
bản thân lại vừa truyền giáo và bảo vệ dòng. Em xin lỗi anh
vì ngoài việc em vẫn tiếp tục thánh hóa bản thân, việc"truyền
giáo và bảo vệ dòng” theo một nghĩa nào đó, em
đã không làm được như anh mong muốn! Em tuy nay vẫn truyền
giáo và bảo vệ dòng nhưng theo một con đường và hướng đi mới.
Hướng đi của một chứng nhân giữa dòng đời. Có thể nói em chưa
làm gì để vì em mà người khác xúc phạm đến anh hoặc đến Dòng.
Em rất hãnh diện về điều này. Em nhớ lại, trong buổi hồi tâm
của Phong Trào Cursillo, cố linh mục Vũ Đình Trác vừa gặp
em đã nói:
-
Có phải dân Đồng Công không?
- Sao cha hỏi con câu này? Em hỏi lại ngài.
- Vì tôi ngửi thấy mùi Đồng Công của anh.
Anh
Cả thấy chưa, em của anh chỉ đứng xa xa mà người khác cũng
đã “ngửi” được mùi
Đồng Công, vậy thử hỏi khi giao tiếp và làm việc với người
khác họ sẽ nhận ra được cái mùi Đồng Công ấy như thế nào?!
Đó, em làm chứng và bảo vệ Dòng ở chỗ đó thưa anh.
Ngoài
vai trò làm cha và làm thầy, anh thật sự là người anh cả đúng
nghĩa của đại gia đình Đồng Công. Em nhớ lại, cứ mỗi lần anh
ở xa về, thí dụ, từ Quy Nhơn về Thủ Đức chẳng hạn là cả nhà
đều vui hẳn lên. Một nguồn sức sống mới, và hạnh phúc dâng
trào. Ai cũng mong được gặp gỡ và trò truyện với anh. Dù là
linh mục, tu sĩ, tập sinh, thỉnh sinh, hay ngay cả một em
đệ tử, anh đều gọi bằng một tên gọi rất thân thương là “em”,
và đáp lại tất cả được hân hạnh gọi anh là “anh”.
Có
lẽ Dòng Đồng Công là một dòng có nét cách mạng đặc thù nhất
trong lối xưng hô: mọi người đều gọi nhau bằng anh và tự xưng
mình là em. Anh em một nhà không phân biệt tuổi tác, chức
thánh hay không chức thánh, hoặc chức vụ khác nhau trong Dòng.
Khi anh em chúng em xưng hô là anh em với nhau, nhiều người
lấy làm cảm động và hỏi nhau: “Tại
sao mấy ông này thân mật với nhau đến thế? Họ là anh em thật
với nhau sao?”
Nhưng
điều căn bản của tinh thần anh em ấy không phải phát xuất
bằng cảm nhận, mà nó đến từ tinh thần khiêm nhường của Phúc
Âm. Khi anh tự nhận mình là “anh cả”, không có nghĩa là anh
cho mình hơn mọi người mà chỉ là biểu tượng cho một tấm lòng
khiêm nhường. Anh tự nhận là người anh cả “tội lỗi”. Điều
này Thánh Phaolô cũng đã tự nhận “Quorum
Primus”. Người tội lỗi nhất. Người anh hèn mọn
nhất.
Chúng
em được làm em của anh, và làm anh em với nhau là do tinh
thần ấy và do tâm tình ấy. Anh luôn luôn tỏ ra săn đón, lo
lắng và băn khoăn cho sự trọn lành của mỗi chúng em, và như
Chúa Giêsu đã có lần bị sự sốt sắng nhà Chúa thiêu đốt đã
đánh đưổi kẻ buôn bán ở Đền Thờ. Một đôi khi anh cũng đã thẳng
tay sửa phạt những người em mà anh cho là không đi trúng đường
lối nên thánh của anh.
Anh
Cả yêu dấu,
Qua hơn 30 năm xa anh. Em hằng tâm niệm và nhớ mãi những kỷ
niệm về anh. Em vẫn nhớ những lời anh răn dậy. và vẫn nhớ
lý tưởng thánh Đồng Công. Em vẫn nghĩ rằng em sẽ không có
dịp gặp lại anh khi anh còn sống. Chúa quan phòng đã cho em
được toại nguyện mặc dù chỉ là một phút giây ngắn ngủi. Tháng
Năm năm 1996, sau 21 năm xa anh, em có dịp về thăm lại quê
hương, người mà ngoài thầy mẹ của em, anh là người mà em mong
mỏi được gặp nhất. Tiếc là hôm đó anh vừa dâng lễ xong và
đang lúc anh còn cám ơn rước lễ nên em không gặp đưọc anh.
Em tiếc xót lắm. Tháng 8 năm 2000, em và Minh lại ghé thăm
anh, cũng lại gặp lúc anh bận. Em nghĩ có lẽ mình không có
duyên với anh chăng? Cuối cùng thì Chúa cũng cho em có dịp
gặp anh, và tháng 12 năm 2003, em đã thật sự gặp anh, lần
này cũng là lúc anh vừa dâng lễ xong, trên đường về phòng
riêng để cám ơn. Đích dẫn em chạy đại đến trước mặt anh. Đích
nói:
-
Anh Cả. Duyệt đấy. Duyệt đội 8 ghé thăm anh Cả, anh nhớ không?!.
Anh
nhìn em bằng cặp mắt như thưở nào, rồi nói:
-
Duyệt à?! Rồi anh ban phép lành cho em và cho hai con của
em.
Em
biết anh coi trọng giây phút sau dâng lễ và cám ơn rước lễ
nên việc anh dừng lại và dành cho bố con em ít phút như vậy
là anh thương em lắm. Và phép lành ấy hẳn là sẽ theo em và
các con em suốt cuộc đời.
Em
không tin tử vi và chỉ tay, nhưng có lần một người bạn em
nhìn em và xem chỉ tay em đã nói số em là số sống xa người
thân và cô đơn. Điều này nếu đem áp dụng vào sự xa cách giữa
em và anh, cũng như sự xa cách giữa em và thầy mẹ em thì đúng.
Chính vì vậy, lần về quê sau đó, tháng 7 năm 2005, em cũng
không được gặp anh.
Giờ
đây, anh đã ra đi về bên kia thế giới. Từ nay, những lần em
về thăm quê thì có muốn, em cũng không gặp được anh nữa. Nhưng
như thế cũng là đủ. Em đã được toại nguyện vì đã gặp được
anh một lần.
Anh
Cả thân yêu,
Giờ đây ở bên Chúa, xin anh hãy cầu nguyện cho em và các anh
em của anh. Em nguyện sẽ đi suốt cuộc đời này với lý tưởng
thánh Đồng Công, với lòng yêu mến Thánh Thể và Mẹ Maria, và
với sự khiêm tốn Phúc Âm theo tinh thần Đơn Sơ, Phó Thác.
Anh đừng sợ. Tuy không có dịp gặp lại anh và hứa với anh một
câu trước khi anh lìa đời, nhưng tâm nguyện của anh, em sẽ
cố gắng sống, đó là sự thánh thiện bản thân, nên hoàn thiện
ngay trong chính bậc sống của mình.
Anh
Cả. Em xin gọi tên anh một lần cuối!