Suy Niệm của Huệ Minh
Mùa vọng năm A
27.11.2022 Chúa Nhật thứ Nhất Mùa Vọng
Gr 33:14-16; Tv 25:4-5,8-9,10-1413; Lc 21:25-28,34-36
Hãy sẵn sàng
Hôm nay, toàn thể Giáo hội bước vào Chúa nhật I Mùa Vọng, Năm Mới Phụng Vụ được bắt đầu, đặc biệt chúng ta chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh của Con Một Chúa và bắt đầu lại cuộc lữ hành thiêng liêng hướng về Ðấng Thiên Sai muôn dân mong đợi.
Ngay từ đầu mùa Vọng, Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức. Hãy bước ra khỏi giấc ngủ miệt mài, lười biếng. Hãy đoạn tuyệt với những giấc mộng phù hoa. Hãy thôi đuổi theo những đam mê dục vọng. Hãy nói không với những đồng tiền bất chính.
Mùa Vọng là mùa trông chờ Chúa đến. Chúng ta trông chờ Chúa đến là bởi vì chúng ta không được thoả mãn với tình trạng hiện tại của chúng ta. Dầu có tận tâm tận lực, chúng ta vẫn gặp phải không biết bao nhiêu điều trái ý, chẳng hạn như bệnh tật, nghèo đói, cô đơn, chia ly và chết chóc. Chúng ta tin rằng Chúa sẽ đến để lấp đầy những khát vọng chính đáng của chúng ta, đồng thời sẽ mang lại một đời sống hạnh phúc:
Sẽ không còn chiến tranh, thù hận và hao tốn tiền của nữa, vì thời đại của Chúa là thời đại hoà bình. Bản thân Chúa chính là sự bình an như lời các thiên thần hát vang trên cánh đồng Bêlem: Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Theo cách viết của thánh Matthêu, những người thời ông Noê chẳng làm gì nên tội. Họ chỉ làm những việc bình thường: “ăn uống, cưới vợ gả chồng”. Họ chết trong cơn nước lụt, không phải là vì họ có tội, mà vì họ không thánh hóa mọi giờ khắc, mọi công việc của mình.
Họ đã không làm mọi việc trong tinh thần cầu nguyện, trong lòng yêu mến Chúa. Đúng hơn, họ làm rất nhiều việc cho cuộc sống thể xác, nhưng không làm việc gì cho cuộc sống linh hồn cả. Họ đã không làm những việc phải làm. Ngược lại, họ chỉ làm những việc không cần thiết.
Chúa Giêsu nhắc nhở ta phải luôn sẵn sàng vì Người sẽ đến bất cứ lúc nào. Sự sẵn sàng của ta không như những người thời Noê, nhưng là theo ý Chúa dạy. Nghĩa là, giữa cuộc sống trần thế còn nhiều bộn bề, nhiều vất vả, lo âu, nhưng ta chỉ tin tưởng phó thác vào Chúa mà thôi. Ta tập cho mình dù làm gì, ở đâu, bất cứ thời gian nào, đều biết thánh hóa giây phút hiện tại, biết hiến dâng chính giờ này, việc này, hoàn cảnh này cho Chúa.
“Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.”
Và Lời Chúa trong Tin Mừng cũng kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức vì giờ Chúa đến thật bất ngờ; vì như “Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy”.
“Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
Nếu hôm nay, lúc còn an bình khoẻ mạnh, ta không tưởng gì đến Chúa; đợi đến lúc lâm nguy rồi mới chạy đến với Ngài thì chúng ta xem Chúa có khác gì chiếc phao. Bình thường khi trời quang mây tạnh, mọi sự an lành thì không ai thèm ngó lại chiếc phao, xem nó như cái gì thừa thãi vô tích sự, có thấy nó nằm giữa lối đi thì người ta cũng đá nó sang một bên, không ai thèm đoái hoài. Nhưng khi gặp phong ba bão táp, nguy khốn đến nơi thì tranh nhau giành lấy phao cho bằng được!
Sa vào chước cám dỗ vì thiếu tỉnh thức. Cầu nguyện không phải chỉ đơn thuần giúp Kitô hữu liên kết với Chúa và còn là cách diễn tả tình yêu lòng mến dành cho Chúa. Cầu nguyện giúp Kitô hữu tỉnh thức, nhận thêm ơn Chúa để chống trả lại cơn cám dỗ. Chống được cơn cám dỗ giúp Kitô hữu đi đúng đường lối Chúa. Đi đúng đường lối Chúa là tâm hồn biết tôn thờ, kính sợ Chúa. Ai tôn kính Chúa sẽ được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban. Hưởng gia nghiệp Chúa vì người đó thực thi công lí, bác ái và yêu thương. Không tôn thờ Chúa là sống vô ơn vì không biết cảm tạ những ơn lành Người ban cho.
Cầu nguyện không phải chỉ là đọc kinh, mà là tâm trạng luôn hướng về Chúa, sẵn sàng làm bất cứ điều gì Ngài muốn. Cầu nguyện là hợp nhất với Thiên Chúa trong tâm tình yêu thương, nhất là trong ý hướng và hành động. Hãy luôn luôn muốn và thực hiện những điều Chúa muốn.
Ngày hôm nay Tin Mừng kêu gọi Kitô hữu hãy tỉnh thức để bất cứ khi nào chủ về thì đã sẵn sàng vì không biết ngày nào, giờ nào chủ trở lại. Người sống tâm tình tạ ơn là người đã sẵn sàng vì lúc nào trong lòng họ cũng mang lòng biết ơn, cảm mến chân thành.
Xin cho chúng ta biết “tỉnh thức và cầu nguyện, để tâm hồn luôn sẵn sàng và thanh thoát. hầu khi Chúa đến sẽ là giây phút được mong đợi, và là một cuộc hạnh ngộ đầy hoan lạc và yêu thương.
By Huệ Minh
28.11 Thứ Hai trong tuần thứ Nhất Mùa Vọng
1 Ga 1:52; Tv 124:2-3,4-5,7-8; Mt 2:13-18
Những tâm tình cần có khi bước vào mùa vọng
Mùa vọng là mùa chờ mong, là mùa mời gọi chúng ta sống lại tâm tình của dân Israel xưa, khát mong ơn cứu độ, khát mong Đấng cứu độ sẽ đến cho gian trần. Tuy nhiên, không có cuộc chờ đợi nào mà không khởi đi từ niềm tin, tin rằng người mình chờ đợi sẽ đến, tin rằng điều mình chờ đợi sẽ được thực hiện ; không có hy vọng nào tồn tại cùng thất vọng ; không có khát vọng nào lại loại trừ niềm tin vững chắc.
Chắc hẳn với ý nghĩa này, mà Hội Thánh đã chọn đoạn Lời Chúa nói về việc tuyên xưng đức tin của viên đại đội trưởng cho ngày đầu mùa vọng hôm nay. Cũng với ý nghĩa này, Lời Chúa còn nhắn nhủ về những đòi hỏi cụ thể của niềm tin mà mỗi người Kitô hữu chúng ta phải có trong khi sống tâm tình của mùa vọng.
Trước tiên, Lời Chúa hôm nay muốn nhắc cho chúng ta về niềm tin, tin rằng : “tình yêu thương cứu độ của Thiên Chúa là tình yêu phổ quát”, tình yêu ấy vượt mọi biên cương, vượt mọi giai cấp, vượt mọi chủng tộc, màu da, ngôn ngữ ; tình yêu ấy cúi xuống đến từng thân phận nhỏ bé và hèn mạt nhất. "Thưa Thầy, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm". Đầy tớ đối với người Do Thái là một tên “nô lệ” không hơn không kém. Mà “nô lệ” thì không được coi là người, chỉ được coi là tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ.
Vậy mà, hôm nay viên đại đội trưởng xin Chúa chữa cho nô lệ của mình. Hôm nay nhân loại nhìn đến quyền làm người của nhau, chủ nhìn đến nô lệ. Hôm nay lời Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa đã được “loan báo cho kẻ nghèo hèn...”, kẻ thấp bé và yếu thế nhất trong xã hội (Lc 4,18-19). Như vậy sống tâm tình mùa vọng là sống niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng yêu thương tất cả mọi người, không trừ ai, cho dù người đó là người hèn kém nhất trong xã hội.
Lời Chúa còn nhắc nhở chúng ta phải vững tin rằng : “Thiên Chúa cứu độ đã đến”, Ngài xuất hiện rõ ràng cho gian trần, cho con người đang cần tình yêu thương cứu độ của Ngài : “… chính tôi sẽ đến cứu nó…” Chúa Giêsu không nói với viên đại đội tưởng, tôi sẽ đến “chữa” nó, nhưng Ngài nói tôi sẽ đến “cứu” nó, Ngài cho viên đại đội trưởng thấy quyền năng cứu độ của Ngài, thấy bản chất của Ngài, thấy sứ vụ của Ngài và tấm lòng của Ngài. Ngài xác định “chính Ngài sẽ đến cứu”, chính Ngài sẽ ra tay cứu độ chứ không phải ai khác. Sống tâm tình mùa vọng cũng là sống tâm tình tin tưởng, nhìn nhận sự hiện diện của Thiên Chúa, chính Thiên Chúa yêu thương, chính Thiên Chúa cứu độ, chính Thiên Chúa dang rộng vòng tay yêu thương của Ngài cho nhân loại.
Lời Chúa hôm nay cũng nhắc thêm cho chúng ta rằng, “tình yêu cứu độ của Thiên Chúa làm cho con người mở lòng ra với nhau”, viên đại đội trưởng đã mở lòng ra nhìn đến đầy tớ của mình, nhìn đến một đối tượng mà theo văn hóa và luật pháp thì ông ta không phải bận tâm. Chắc chắn đây cũng là tâm tình mà mỗi người Kitô hữu cần phải có trong mùa vọng. Trong khi nhìn nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải nhìn đến nhu cầu của nhau, nhìn đến anh chị em đồng loại với tất cả tình yêu thương, cầu mong cho đồng loại mình được ơn cứu rỗi. Không phải chỉ nhìn đến nhau trên cấp độ bổn phận mà nhìn còn đến nhau bằng tình yêu thương rộng mở, đó chính là lời mời gọi sống mùa vọng.
Cuối cùng điều quan trọng nhất mà Tin Mừng hôn nay nhắn nhủ chúng ta : “Tình yêu cứu độ, là tình yêu phải được tuyên xưng với tất cả niềm xác tín” : “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”. Lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng, cũng phải là lời tuyên xưng của mỗi người chúng ta, trong thánh lễ mỗi ngày. Tin vào tình yêu cứu độ, tin vào Thiên Chúa Đấng cứu độ, đó không chỉ là điều mà Hội Thánh đòi hỏi con cái mình sống trong mùa vọng mà thôi, nhưng đây còn là điều Hội Thánh muốn con cái mình phải tuyên xưng mọi ngày, phải tuyên xưng cách vững chắc lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng trong mỗi thánh lễ.
Lời Chúa muốn nhắc nhở chúng ta về niềm tin của mình. Nhưng Lời Chúa cũng cho thấy bản chất yêu thương của Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa vượt không gian, Ngài không cần chạm đến đầy tớ của viên đại đội trưởng mới có thể chữa lành, Ngài chỉ phán một lời. Sống mùa vọng bằng việc tuyên xưng niềm tin, nhưng sống mùa vọng cũng còn bằng việc củng cố niềm tin, chân nhận quyền năng và bản chất yêu thương của Thiên Chúa.
Hôm nay, bắt đầu mùa vọng, còn một việc nữa cần phân tích, đó là đức tin của chúng ta. Đức Giêsu nói với chúng ta : chính tôi sẽ đến cứu chữa nó". Vị sĩ quan thưa lại : "Lạy ngài, tôi không đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh...". Chúng ta có thể tin được như thế không ? Bao giờ chúng ta mới có được đức tin như thế ?
Chúng ta có tin Đức Giê-su có thể đổi mới tâm hồn chúng ta được không Biết bao nhiêu tôi tớ trên trái đất này đang đau khổ cực độ. Chúng ta có tin Ngài đến cứu chữa họ không ?
Bắt đầu mùa vọng, chính là để giúp chúng ta cậy trông và tin tưởng. Và cử hành Thánh lễ chính là để giúp chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu đến thực hiện công trình cứu độ.
30.11 Thứ Tư Thánh Andrê, Tông Đồ
Rm 10:9-18; Mt 4:18-22
Làm chứng cho Chúa
Hôm nay Giáo Hội cử hành Lễ kính Thánh Anrê tông đồ, chúng ta cùng suy niệm về ơn gọi của người tông đồ, và áp dụng vào sứ mạng tông đồ của chúng ta.
Trong bài Tin Mừng hôm nay thuật lại : bốn môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu kêu gọi làm tông đồ đang khi các ông làm nghề chài lưới, tại bờ biển Galilêa, đó là hai anh em ông Simon Phêrô và Anrê, và hai anh em ông Giacôbê và Gioan.
Trước hết, là được Chúa kêu gọi : Ơn gọi làm tông đồ là một ơn gọi đặc biệt đến từ Thiên Chúa. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã chọn gọi những kẻ người muốn (Mc 3,13). Chúa Giêsu yêu thương họ, yêu thương mãnh liệt, yêu thương đến độ gọi họ được trở thành bạn hữu của Chúa (x.Ga 15,15), sống gần gũi với Chúa, chia sẻ công việc của Chúa.
Kế đến, là phài đi theo Chúa và được Chúa huấn luyện. 12 tông đồ đi theo Chúa Giêsu và làm môn đệ của Ngài. Các ông đến và ở với Chúa (Mc 3,14). Các ông được Chúa huấn luyện để trở thành người tông đồ, nghĩa là trở thành những sứ giả phổ biến Tin Mừng cứu độ của Chúa cho muôn dân.
Đồng thời, là sự từ bỏ : Trang Tin Mừng thuật lại rằng : "Các ông bỏ lưới mà đi theo Người" (Mt 4, 22). Cũng vậy, những ai muốn đi theo Chúa Giêsu và làm môn đệ của Ngài, đều phải sẵn sàng từ bỏ tất cả : bản thân, gia đình, của cải vật chất và những quyến rũ của thế gian thì mới xứng đáng làm môn đệ của Chúa. Hơn nữa, các tông đồ còn phải chấp nhận những thử thách trong vai trò người tông đồ, chấp nhận sự khinh chế, ruồng rẫy của người đời, chấp nhận vác thập giá, chấp nhận chịu chết để làm chứng cho Chúa. Có biết từ bỏ mới trở nên giống như Thầy mình. Điều này là một thách đố cho những ai đang trên con đường theo Chúa.
Cuối cùng, những ai làm tông đồ của Chúa Giêsu đều được Chúa tín nhiệm trao phó công việc của Chúa, sẵn sàng được Chúa sai đi Loan báo Tin Mừng (Mc 3,14). Các tông đồ luôn mang nơi bản thân mình sứ điệp quan trọng, đó là “làm cho muôn dân trở nên “môn đệ” của Người” (Mt 28, 19).
Thánh Anrê tông đồ là môn đệ của Chúa Giêsu, hăng say nhiệt tâm truyền giáo, và sẵn sàng chết tử vì đạo để làm chứng cho Tin Mừng. Gương của Thánh Anrê tông đồ tỏa sáng trong Giáo Hội hôm nay. Cụ thế, việc phục vụ cho công cuộc Loan báo Tin Mừng vẫn tiếp tục trong Giáo Hội của Đức Kitô và trở thành “bản chất” của Giáo Hội. Giáo Hội luôn là Giáo Hội truyền giáo.
Tất cả mọi kitô hữu đều được Chúa và Giáo Hội mời gọi làm việc tông đồ cho Chúa. Chúng ta hãy áp dụng sứ mạng tông đồ vào đời sống của mỗi người, mỗi gia đình Công Giáo.
Mỗi người tín hữu Kitô, qua Bí tích Rửa tội và Bí tích Thêm sức cũng đều được mời gọi làm môn đệ của Chúa Giêsu và có bổn phận phải Loan báo Tin Mừng. Mục tiêu của việc tông đồ chính là đưa con người tới chỗ nhận biết và yêu mến Đức Kitô, và nhờ việc tuân giữ giáo huấn của Người, giúp con người đạt tới cuộc sống vĩnh cửu.
Chúng ta muốn là tông đồ, trước hết hãy là người có Chúa Giêsu, yêu mến Chúa Giêsu, tin vào Chúa Giêsu, sống thân mật với Chúa Giêsu, và luôn mang trong mình những tâm tư của Chúa Giêsu. Tâm tư và đời sống của Chúa Giêsu là yêu thương và cứu độ nhân loại. Chúng ta hãy là người tông đồ gieo rắc Tin Mừng tình thương và ơn cứu độ của Chúa đến cho mọi người, mọi nơi.
Để Tin Mừng của Chúa được lan rộng và hiệu qủa, thì hãy nhớ : đây là công việc của Chúa Thánh Thần. Vì Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội. Vì thế, chúng ta hãy đặt mình dưới tác động của Thánh Thần Thiên Chúa. Hãy để Chúa Thánh Thần dẫn dắt và làm công việc Loan báo Tin Mừng. bản thân chúng ta cần phải sống theo Thần Khí, chứ đừng theo những đam mê của xác thịt (Gal. 5,16). Bước theo Thần Khí là noi gương Chúa Kitô, tôn vinh Chúa Cha và phục vụ mọi người (Mt. 20,27-28).
Việc Loan Báo Tin Mừng ngày nay trong Giáo Hội được nhắc nhiều đến vai trò của các gia đình. Năm 2014 sắp tới, đường hướng của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam dẫn các gia đình đến việc sống : “Phúc Âm Hóa đời sống gia đình”.
Thật vậy, môi trường đầu tiên cho việc tông đồ chính là gia đình. Người chồng Loan Báo Tin Mừng cho vợ, vợ cho chồng, cha mẹ cho con cái, anh chị em Loan Báo Tin Mừng cho nhau. Thánh Phaolô dạy rằng : “Chồng ngoài đạo được thánh hóa nhờ người vợ, và vợ ngoài đạo được thánh hóa nhờ người chồng có đạo” (1Cr 7,14). Nhiều cặp vợ chồng đã giúp nhau nên thánh và thánh hóa gia đình: như cha mẹ của Thánh trẻ Têrêsa, mẹ của thánh Don Bosco, mẹ của thánh Augustinô.…
Làm sao cho gia đình của chúng ta và yêu thương phục vụ nhau, cùng nhau thăng tiến đời sống gia đình theo gương sống của Thánh Gia Thất. Làm sao cho gia đình đình của chúng ta trở nên gia đình đức tin, gia đình thánh thiện và đạo đức. Muốn được như thế, gia đình chúng ta đừng quên việc đọc Lời Chúa, cầu nguyện tối sớm. Đó cũng là cách giáo dục con cái cầu nguyện, sống Tin Mừng của Chúa.
Các gia đình không chỉ nhắm đến việc nên thánh, đạo đức và yêu thương, mà còn phải làm chứng tá cho Tin Mừng bằng cuộc sống gia đình mình nữa. Là những gia đình đã được đón nhận đức tin trước hay có đức tin vững vàng hơn, mỗi gia đình Công giáo với tư cách là gia đình, hãy góp phần thánh hóa các gia đình khác, bằng việc chia sẻ, giúp đỡ và giới thiệu Chúa cho các gia đình xung quanh.
CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG 2019
TỈNH THỨC
Is 2:1-5; Rm 13:11-14; Mt 24:37-44.
By Huệ Minh
Năm Phụng vụ mới lại bắt đầu bằng Mùa Vọng với tâm tình chuẩn bị, đón chờ ngày Chúa đến: Chúa đến trong ngày lễ Giáng Sinh sắp tới, nhưng căn bản là ngày Chúa quang lâm: Chúa sẽ trở lại trong vinh quang vào ngày thế tận, như lời tuyên xưng hằng ngày trong Thánh lễ: Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến.
Mùa vọng mới mà Giáo Hội bắt đầu cử hành trong Phụng vụ của mình với Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng, không phải là thời gian để Giáo Hội nhìn lại quá khứ, nhìn về biến cố Con Thiên Chúa đã Giáng Sinh và cử hành biến cố này với Lễ Giáng Sinh. Tắt một lời, Mùa vọng không phải là mùa chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh, nhưng Mùa vọng là thời gian hướng con người về tương lai, về biến cố Chúa ngự đến lần thứ hai trong vinh quang vào lúc cuối cùng của lịch sử nhân loại, khai mạc trời mới đất mới, làm cho mọi sự đạt đến cùng đích duy nhất của mình là Thiên Chúa.
Mùa Vọng là mùa trông chờ Chúa đến. Chúng ta trông chờ Chúa đến là bởi vì chúng ta không được thoả mãn với tình trạng hiện tại của chúng ta. Dầu có tận tâm tận lực, chúng ta vẫn gặp phải không biết bao nhiêu điều trái ý, chẳng hạn như bệnh tật, nghèo đói, cô đơn, chia ly và chết chóc. Chúng ta tin rằng Chúa sẽ đến để lấp đầy những khát vọng chính đáng của chúng ta, đồng thời sẽ mang lại một đời sống hạnh phúc.
Chờ đợi luôn chứa đựng hy vọng. Hy vọng đòi hỏi đợi chờ. Có những người tự tử vì họ không còn hy vọng. Họ không còn gì để đợi chờ. Có những người đầy nghị lực vượt gian khổ, vì họ luôn hy vọng điều tốt lành đang ở phía trước. Họ kiên nhẫn đợi chờ. Họ đợi chờ trong hy vọng.
Tháng ngày lênh đênh trên sóng nước bao la của con tàu No-ê là cuộc hành trình chờ đợi trong hy vọng. Mong đợi thấy được ánh mặt trời của ngày mới rực sáng trên mặt đất hồi sinh.
Đó là Mùa Vọng của con tàu Nô-ê. Mùa Vọng của những người luôn được Chúa yêu mến và luôn biết yêu mến Chúa. Những người luôn tỉnh thức để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa.
Muốn có được niềm hy vọng, người ta luôn phải phấn đấu. Không ai đạt được mục đích mà chỉ "nằm há miệng chờ sung". Để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa đòi hỏi con người luôn nổ lực để tự hoàn thiện bản thân. Phải có hy sinh, đau đớn, khổ luyện, con người mới vươn lên được. "Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài. Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi".
Mùa vọng là mùa đợi chờ, mùa trông mong. Người ta trông mong quà cáp, thư từ, tiền lương, xum họp gia đình nhân dịp lễ Noel. Người tìn hữu được mời gọi trông mong ngày Chúa quang lâm. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình. Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta là hãy tỉnh thức để luôn sẵn sàng đón chờ ngày đó sẽ đến.
Vị Mục Tử nhân lành Giêsu cảnh báo từ ngàn xưa: "Hãy tỉnh thức!"(Lc 21,36); " Sẽ có những điềm lạ trên trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẻ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét"(Lc 21,25).
"Hãy tỉnh thức": - để sống cho ra sống, sống có mục đích, có lý tưởng, cố gắng hoàn thiện đời mình!
"Hãy tỉnh thức": - để tỉnh táo phân biệt chính- tà; tội- phước; cố gắng thoát kiếp "con"để sống đẹp kiếp "người"!
"Hãy tỉnh thức": - để làm vui lòng cha, để làm mát dạ mẹ, để gia đình luôn là bến đậu vững chắc trước bão đời đang vùi dập tình thân huyết thống; đang phá tan đạo Hiếu gia phong; đang hủy hoại nếp đời nếp đạo.
Tỉnh thức trong hy vọng là nhận thức rằng người đời có một Thiên Chúa yêu thương và đời người có một vận mệnh tương lai. Có nhiều thứ tương lai lắm: tương lai gần như hôm nay đối với ngày mai; tương lai xa như đời này đối với đời sau; tương lai hẹp như chỉ giới hạn trong đời ta, tương lai rộng như mở ra với đời người; tương lai từng phần tùy theo mức độ khả thi và tương lai toàn phần chỉ có thể có khi con người tiến về vĩnh cửu.
Thế nhưng rồi điều quan trọng ở chỗ tương lai ấy không phải là một sự kiện mà chính là một Đấng, mà Đấng ấy vốn đã hy vọng vào ta, đợi chờ ta từ thuở nào, để khỏi phải tay chân thừa thãi ỏn ẻn làm quen mà gặp được là đã tay bắt mặt mừng đến độ thân tình của lòng trông cậy, để khỏi phải rỉ tai nhau như thế kỷ XIX với khẩu hiệu "con người là tương lai của con người" nên dẫn đến chiến tranh đổ vỡ, mà sẽ là hô vang sứ điệp "Thiên Chúa là tương lai của con người" cho xanh lên niềm hy vọng đượm thắm lẽ cậy trông.
Tỉnh thức trong hy vọng cũng là canh thức để cộng tác với ơn Chúa mà thể hiện niềm hy vọng đời mình. Sẽ là một thứ hy vọng quắt quay như những em bé ve chai gập mình bới tìm sự sống trên đống phế thải; sẽ là một thứ hy vọng mong manh như kẻ qua đường mua tấm vé số và sẽ là một thứ hy vọng đầy rủi ro như kẻ hùn hạp làm ăn mà không nắm trong tay vốn kiến thức kinh doanh; nhưng sẽ là một niềm hy vọng "bốn mùa" xanh tốt, khi con người biết kiên định phát triển vốn liếng ơn thánh và khả năng nơi mình, cho dẫu cuộc sống vẫn còn đầy dẫy những thử thách cam go.
Sự tỉnh thức của người Kitô hữu không gì khác hơn là cuộc sống trước mặt Thiên Chúa, cuộc sống với Thiên Chúa. Người ta làm đúng y cũng những điều đó, nhưng chúng có thêm một ích lợi, một chiều dày. "Một sẽ bị đem đi, và một sẽ được để lại". Những người tỉnh thức đã bám rễ trong vĩnh cửu, những người thủ cựu thì ở trên bề mặt, lúc nào họ cũng có nguy cơ bị quét đi.
Và khi ta nghĩ đến ngày tận thế cũng cần như nghĩ đến cái chết của mình.
Cái chết dạy người ta biết cách sống. Ngày tận thế dạy người ta biết cách xây dựng thế giới trên nền tảng vĩnh cửu, trên những giá trị trường tồn.
Đối với Kitô giáo, ngày tận thế không phải là ngày buồn, ngày của hủy diệt và tang tóc, nhưng là ngày của thân xác được sống lại, ngày khai sinh một thế giới mới không bị hận thù và chết chóc đe dọa.
Ngày tận thế là ngày Chúa quang lâm. Chúng ta phải sẵn sàng ra đón Ngài. Sẵn sàng là cùng với Chúa xây dựng một trái đất đầy tình thương và công lý. Sẵn sàng là biến trái đất thành con đường dẫn tới Thiên đàng.
Ngày Chúa quang lâm là một ngày bất ngờ, nhưng nó sẽ ít bất ngờ đối với những ai biết sẵn sàng chờ đợi.
Lời Chúa hôm nay, Giáo Hội muốn đặt chúng ta trước số phận đời đời đang chờ đón. Thực vậy, Giáo Hội đã lên tiếng khuyên nhủ chúng ta: đừng để cho những vui thú ru ngủ, trái lại hãy tỉnh thức và sẵn sàng, vì Đức Kitô sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ và giờ chúng ta không biết. Nhất là qua đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã trình bày về ngày sau hết như là một biến cố bất ngờ, không ai nắm vững. Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta lại nghĩ rằng: Ngày ấy còn xa và có lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy đến.
Ngày Quang Lâm vào lúc thế tận sẽ rất bất ngờ. Sự chuẩn bị sẵn sàng được xác định qua tư cách biết đón Chúa đến mỗi ngày trong cuộc sống hiện tại. Sách Khải huyền viết: "Phúc cho ai chết trong ân nghĩa của Chúa". Nhưng để chết trong ân nghĩa thì phải biết sống trong ân nghĩa. Chúa đứng ngoài cửa và gõ; ai sẵn lòng mở, Người sẽ vào và dự bàn tiệc với người ấy.
Thứ Hai tuần 1 MV.
Is 2:1-5; Mt 8:5-11
HÃY CÓ LÒNG TIN MÃNH LIỆT
Tin Mừng hôm nay kể về viên sĩ quan, người dân ngoại. Ông là một người ngoại đạo, tức không thuộc về Dothái giáo, nhưng tâm hồn lại có đạo hơn ai hết bởi sự chân thành, đơn sơ nhưng mãnh liệt nơi ông. Vì thế, ông đã được thúc đẩy từ bên trong, nên ông nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, trong khi những người Dothái lại không nhận ra!
Khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, ông đã đặt niền tin tuyệt đối nơi Ngài, vì thế, Đức Giêsu đã lên tiếng khen ngợi ông: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel”. Ơn thánh của Chúa đã thực sự bén rễ sâu trong tâm hồn người dân ngoại này, vì ông khiêm tốn và sẵn sàng mở lòng để cho ơn thánh của Chúa được tác sinh nơi ông.
Tin Mừng hôm nay muốn nhắc cho chúng ta về niềm tin, tin rằng : “tình yêu thương cứu độ của Thiên Chúa là tình yêu phổ quát”, tình yêu ấy vượt mọi biên cương, vượt mọi giai cấp, vượt mọi chủng tộc, màu da, ngôn ngữ ; tình yêu ấy cúi xuống đến từng thân phận nhỏ bé và hèn mạt nhất. "Thưa Thầy, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm".
Hẳn ai ai cũng biết rằng đầy tớ đối với người Do Thái là một tên “nô lệ” không hơn không kém. Mà “nô lệ” thì không được coi là người, chỉ được coi là tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ. Vậy mà, hôm nay viên đại đội trưởng xin Chúa chữa cho nô lệ của mình. Hôm nay nhân loại nhìn đến quyền làm người của nhau, chủ nhìn đến nô lệ. Hôm nay lời Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa đã được “loan báo cho kẻ nghèo hèn...”, kẻ thấp bé và yếu thế nhất trong xã hội (Lc 4,18-19). Như vậy sống tâm tình mùa vọng là sống niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng yêu thương tất cả mọi người, không trừ ai, cho dù người đó là người hèn kém nhất trong xã hội.
Và rồi ta cũng thấy được “tình yêu cứu độ của Thiên Chúa làm cho con người mở lòng ra với nhau”, viên đại đội trưởng đã mở lòng ra nhìn đến đầy tớ của mình, nhìn đến một đối tượng mà theo văn hóa và luật pháp thì ông ta không phải bận tâm. Chắc chắn đây cũng là tâm tình mà mỗi người Kitô hữu cần phải có trong mùa vọng. Trong khi nhìn nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải nhìn đến nhu cầu của nhau, nhìn đến anh chị em đồng loại với tất cả tình yêu thương, cầu mong cho đồng loại mình được ơn cứu rỗi. Không phải chỉ nhìn đến nhau trên cấp độ bổn phận mà nhìn còn đến nhau bằng tình yêu thương rộng mở, đó chính là lời mời gọi sống mùa vọng.
Cuối cùng điều quan trọng nhất mà Tin Mừng này nhắn nhủ chúng ta : “Tình yêu cứu độ, là tình yêu phải được tuyên xưng với tất cả niềm xác tín” : “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”. Lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng, cũng phải là lời tuyên xưng của mỗi người chúng ta, trong thánh lễ mỗi ngày. Tin vào tình yêu cứu độ, tin vào Thiên Chúa Đấng cứu độ, đó không chỉ là điều mà Hội Thánh đòi hỏi con cái mình sống trong mùa vọng mà thôi, nhưng đây còn là điều Hội Thánh muốn con cái mình phải tuyên xưng mọi ngày, phải tuyên xưng cách vững chắc lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng trong mỗi thánh lễ.
Hẳn ta nhớ hộ chiếu là giấy thông hành cần thiết giúp ta đi ra đi vào một quốc gia hay lãnh thổ. Hộ chiếu của Nước Trời là đức tin; hễ có đức tin là ta có thể ra vào Nước Trời, không phân biệt màu da, chủng tộc. Viên đại đội trưởng trong bài Tin Mừng hôm nay đã cầm chắc giấy thông hành quý giá ấy qua việc bày tỏ niềm tin vào uy quyền Đức Giê-su. Ngài có thể truyền lệnh cho đầy tớ ông lành bệnh, đặc biệt là truyền lệnh ấy mà không cần đích thân đến nhà ông, vì nhà ông không xứng đáng đón Ngài. Ông hiểu người Do Thái coi nhà người ngoại giáo là ô uế, nên tôn trọng niềm tin này. Hơn nữa, ông yêu mến, tận tụy chăm sóc người đầy tớ, một nô lệ vốn bị coi như đồ vật trong xã hội Rô-ma. Trái tim ai yêu thương nhạy cảm với người khác thì luôn gần gũi Trái Tim Đức Giê-su.
Khởi đầu mùa vọng, Lời Chúa muốn nhắc nhở chúng ta về niềm tin của mình. Nhưng Lời Chúa cũng cho thấy bản chất yêu thương của Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa vượt không gian, Ngài không cần chạm đến đầy tớ của viên đại đội trưởng mới có thể chữa lành, Ngài chỉ phán một lời. Sống mùa vọng bằng việc tuyên xưng niềm tin, nhưng sống mùa vọng cũng còn bằng việc củng cố niềm tin, chân nhận quyền năng và bản chất yêu thương của Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay mặc khải về ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa được dành cho hết mọi người. Vì thế, chúng ta không cất dấu hay để ơn Chúa vào nơi an toàn, mà phải vươn ra đến với hết mọi người, mọi nơi, nhất là những anh chị em chưa nhận biết Chúa.
Bước vào Mùa Vọng, mỗi người chúng ta cùng nhau nhìn lại cuộc sống, cách cư xử của mình với anh chị em xung quanh: đã có lần nào vì hẹp hòi mà ta ngăn cản ơn Chúa đến với người khác không? Hay nhiều khi chúng ta không dám dời bỏ chốn an thân, an cư để đến với những người đang cần sự giúp đỡ của chúng ta?
Thứ Ba tuần 2 MV.
THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ. Lễ kính.
Is 11:1-10; Lc 10:21-24
LOAN BÁO TIN MỪNG NHƯ THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ
Thánh Phanxicô Xaviê sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê trong một gia đình quyền quý của vương quốc Navarre nhỏ bé miền bắc nước Tây Ban Nha ngày nay. Khi ngài 5 tuổi, nước Tây Ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre khiến gia đình ngài lâm cảnh nước mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức, năm 17 tuổi ngài đến Paris học (1525-1536).
Tại Paris ngài sống trong cùng một căn phòng với chân phước Phêrô Favre và sau đó với thánh Ignaxiô. Lần lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô Xaviê được thánh Ignatiô thu phục. Năm 28 tuổi ngài cùng với nhóm bạn của thánh Ignatiô khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi, ngài chịu chức linh mục tại Venezia miền đông bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.
Tháng 4.1541 ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau mới đến được Goa bên Ấn độ. Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaisia và từ đó đến Indonésia. Là vị giám tỉnh đầu tiên của tỉnh dòng đầu tiên ngoài Châu Âu, ngài yêu mến và gắn bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em trong Dòng, kính trọng và tuân phục thánh Ignatiô, nhiệt thành lạ lùng với việc tông đồ. Ngài đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh.
Trong vòng 2 năm (1549-1551), ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản; trước khi ra đi ngài trao lại cho cho một linh mục Bồ Đào Nha; 20 năm sau cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người. Cuối cùng vì muốn vào Trung Quốc truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên ngay cửa khẩu Quãng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung Quốc. Tiếc rằng tại đây ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh chỉ có anh thanh niên trẻ thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.
Thánh Phanxicô Xaviê qua đời ngày 3.12.1552, được ĐTC Grêgôriô XV phong thánh cùng với thánh Ignatiô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
Nhìn cuộc đời thánh Phanxicô Xaviê trong ba tiếng gọi: Lời Chúa, bè bạn và nhu cầu truyền giáo cũng là một cách học tập đời sống của ngài để họa lại trong đời sống của mình.
Khát vọng đem Tin Mừng Chúa đến khắp mọi nơi thường trực trong con tim say nồng truyền giáo của thánh Phanxicô. Bước chân nhiệt thành tông đồ đã đưa ngài đến bao vùng đất tại Á đông. Không chỉ tung gieo những hạt mầm đức tin tại Ấn Độ, Malacca (Mã lai), Moluques, Nhật Bản…, thánh nhân đã từng ủ ấp giấc mộng chinh phục đại lục Trung Hoa. Ngài đã thành công khi đặt bước chân lên đảo Xan-xi-an, cửa ngõ vào Trung Quốc. Nhưng đáng tiếc thay, vị chứng nhân truyền giáo vĩ đại của chúng ta đã kiệt lực và nằm xuống bởi thời tiết mùa đông khắc nghiệt. “Ngài tắt thở trong khi cầu khẩn Chúa Ba Ngôi, danh thánh Chúa Giêsu và Đức Mẹ, tay cầm một cây nến. Ngài chỉ mới bốn mươi sáu tuổi. Trong mười một năm tám tháng truyền giáo, bằng những phương tiện của thời ấy, ngài đã đi khoảng tám mươi ngàn kilô mét, chỉ với một mục đích duy nhất là rao giảng Tin Mừng và thiết lập Hội Thánh”
Nếu người ta suy nghĩ như thế thì xem ra việc truyền giáo chỉ dựa vào những lời lẽ hùng hồn, những triết lý cao siêu và những lời lẽ khôn khéo mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa thì sẽ khó có thể thuyết phục được người khác. Còn giả như lời rao giảng ấy mà có kèm theo những dấu lạ, thì dường như lời rao giảng ấy sẽ có sức thuyết phục hơn. Và thánh Phaolô cũng có đề cập đến vấn đề này: “Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa” (1Cr 2, 4).
Dấu lạ không nhất thiết phải là những điềm thiêng lớn lao. Dấu lạ có thể là một đời sống biểu lộ đức tin qua lời ăn tiếng nói, qua cách cư xử tử tế, một lối sống công bằng và trách nhiệm… Bởi vì người ta sẽ nhìn nhận rằng chỉ có đức tin và ơn trên mới thúc đẩy người Kitô hữu có động lực làm như vậy. Muốn có một đời sống toát lên đức tin của mình được nâng đỡ bởi ơn Chúa, thì người tín hữu phải có một đời sống gắn bó với Thiên Chúa. Mức độ khắng khít của sự gắn bó này còn tùy thuộc vào việc người tín hữu đặt thánh ý Chúa lên trên ý riêng của mình là bao nhiêu.
Chúng ta đều được mời gọi để "ra đi và rao giảng cho muôn dân" (x. Mt 28, 19). Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người cùng làm việc với chúng ta. Và sự rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hàng ngày. Chính nhờ sự hy sinh, từ bỏ tất cả những gì của riêng mình, mà Thánh Phanxicô mới có tự do để đem Tin Mừng đến cho người khác. Hy sinh là quên đi cái tôi của mình vì lợi ích cao cả hơn, lợi ích của sự cầu nguyện, lợi ích khi giúp đỡ người có nhu cầu, lợi ích khi lắng nghe người khác. Món quà lớn nhất của chúng ta là thời giờ, và Thánh Phanxicô đã hy sinh thời giờ của ngài cho người khác.
Thánh Phanxicô là chứng nhân và mẫu gương lý tưởng trong đời sống truyền giáo cho mọi Kitô hữu, đặc biệt là những người trẻ ở thời đại hôm nay. Trong khi phải đối diện với bao nhiêu thúc bách, đòi hỏi của lối sống tiện nghi vật chất, huấn lệnh truyền giáo của Đức Kitô vẫn không ngừng thúc giục chúng ta: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).
Thứ Tư tuần 1 MV.
Thánh Gioan Đamascênô, Lmtsht.
Is 25:6-10; Mt 15:29-37
LÒNG CHẠNH THƯƠNG
Thánh sử Matthêu phác hoạ cho chúng ta một khung cảnh thật sinh động và giàu nhân văn.
Ta thấy Chúa Giêsu, dù cho đám dân chúng im lặng, Ngài không chấp lẽ thái độ của họ, Ngài luôn quan tâm đến họ, Ngài sợ họ đói lả té xỉu dọc đàng, và Ngài đã cho họ ăn một cách dư giả đến nổi ăn xong còn dư được bảy thúng đầy. Con số này tượng trưng cho cái vô biên không đo lường nổi.
Trang Tin Mừng kể lại có những đám rất đông dân chúng đến cùng Chúa Giêsu, mang theo bao khổ đau đè nặng trên thân xác và lắm ưu tư phiền muộn chất chứa trong tâm hồn. Với ánh mắt yêu thương cùng trái tim nhạy cảm, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương và chữa lành họ. Ngài còn tinh tế nhận ra những nhu cầu rất nhỏ của họ. Trái với Chúa Giêsu, thái độ các môn đệ dường như chẳng muốn can dự vào : “Trong nơi hoang vắng này, chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như vậy ăn no ?” (Mt 15, 33).
Mọi người lũ lượt đến cùng Chúa Giêsu, đem theo kẻ câm, mù, què, liệt đặt dưới chân Chúa Giêsu để xin Người chữa bệnh. Chúa Giêsu đón nhận tất cả, Ngài chữa khỏi bệnh cho họ. Ngài còn lo lắng thương xót họ vì đã nhiều ngày họ không được ăn gì. Chính vì Chúa Giêsu nhìn thấy sự yếu đuối, nhỏ bé của con người và Ngài đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Phép lạ hóa bánh ra nhiều chỉ nuôi dưỡng thân xác con người, Chúa Giêsu còn làm phép lạ vĩ đại hơn đó chính là bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng phần hồn cho tất cả chúng ta ngày hôm nay.
Và rồi ta xem ra lời giải thích xem ra thật hợp lý : điều kiện khó khăn, công việc lớn lao, khả năng thì có hạn. Thế nhưng, Chúa lại muốn các ông hãy cho đi với những giới hạn đó, với chính những gì ít ỏi các ông đang sở hữu : “Anh em có mấy chiếc bánh ?” (Mt 15, 34a). Bởi với Chúa, yêu là trao ban tất cả, đến tận cùng, không phải từ sự dư thừa, nhưng từ chính những thiếu thốn, giới hạn của mình. Khi sống cho nhau với trái tim đong đầy tình yêu, người ta sẽ dễ dàng đồng cảm trước những nỗi đau và nhu cầu của nhau.
Trước những mảnh đời bất hạnh, nhiều lúc chúng ta thưa lên : “Lạy Chúa! Nào con có gì để sẻ chia ?”. Nhưng thật ra, trong tình yêu, người ta luôn có cách để chia sẻ : Một ánh mắt cảm thông, một đôi tai lắng nghe, một lời nói ủi an, một bàn tay đỡ nâng, một quả tim biết chạnh lòng thương, quá đủ để thực hiện những điều Chúa muốn. Hai đồng tiền kẽm của bà goá nghèo có là gì nhưng đủ để thành của lễ đáng kể trước mắt Chúa (Mc 12, 43). Một chén nước lã có là bao nhưng cho đi như món quà dâng Chúa sẽ đem lại phần thưởng vĩnh cửu (Mc 9, 41). Khi tình yêu thôi thúc, người ta sẽ biết mình phải làm gì. Yêu thương thật sự, trao ban chân tình, khởi đi từ những điều thật nhỏ bé rồi phép lạ lớn lao sẽ xảy ra do quyền năng vô biên của Chúa.
Hai lần hóa bánh ra nhiều đều do sự lo lắng của Chúa Giêsu: "Nếu để họ ra về e rằng có những người sẽ bị đói lả dọc đường". Và riêng bữa tiệc cuối cùng, đó là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã phải thực hiện một phép lạ vĩ đại để cho mọi người được đủ sức mạnh mà tiến bước trên con đường lữ hành trần gian. Nếu là một trong 5,000 người của đám dân chúng được Tin Mừng nói đến hôm nay, chắc chắn tâm trạng của chúng ta cũng chẳng khác gì tâm trạng của đám dân chúng lúc bấy giờ, là bụng đói lả sau ba ngày theo ngài nhưng lại không dám lên tiếng cứ giữ thái độ yên lặng.
Có thể họ im lặng vì chưa đủ lòng tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. Thắc mắc của họ phần nào tương tự như thắc mắc của các tông đồ: "Lấy đâu ra bánh trong hoang địa này cho ngần ấy người ăn". Mặc dù các môn đệ đã thấy Ngài chữa lành các bệnh tật như làm cho kẻ điếc được nghe, què được đi, cùi được sạch...
Tuy nhiên, có thể họ nghĩ rằng mình không thuộc về những hạng người cần đến Chúa Giêsu, vì thân thể đang khỏe mạnh đâu cần gì đến thầy thuốc. Sự đói mệt chỉ là một nhu cầu thể lý chứ không phải là một căn bệnh làm gì phải bắt Ngài bận tâm. Thế nhưng họ đâu có thể ngờ rằng, tuy không phải là căn bệnh thì chúng có thể làm hại con người hoặc có thể vì chút tự ái cá nhân mà họ đành im lặng mặc cho cơn đói hành hạ. Tại sao không chịu lo xa chuẩn bị chút ít lương thực phòng thân để giờ này lại mở miệng lên tiếng kêu ca.
Mùa vọng là mùa đợi trông, dân Do Thái ngày xưa trông đợi ngày Chúa đến, ngày mà Chủ các cơ binh sẽ thiết đãi một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Sống trong tâm tình của Mùa Vọng, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ hiểu được giá trị trổi vượt của bàn tiệc Thánh Thể mà Thiên Chúa đã thiết đãi dân Ngài để rồi trong cuộc đời lữ hành trần gian chúng ta sẽ được no đủ và vững bước tiến về quê trời, không lo sợ phải mệt lả dọc đường.
Chúa không chỉ chăm lo cho đời sống tinh thần của mỗi người, Ngài còn lo cho đời sống vật chất của chúng ta. Đức Giêsu không từ chối làm phép lạ, nếu chúng ta khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối và bất lực của chúng ta và hết lòng tin tưởng cậy trông vào Chúa. Ngài tiếp tục làm phép lạ qua sự quảng đại của chúng ta để xoa dịu nổi đau, sự đói khát của đồng loại.
Ta thấy Chúa Giêsu luôn luôn để lại cho con người của ăn ban sức lực. Ngài tụ họp người ta lại để cho họ ăn bánh hằng sống. Ngài luôn cho con người chính mình Ngài trước khi Ngài lên đường. Và Ngài vẫn còn đến với con người, ban cho con người bánh làm thỏa mãn vĩnh viễn sự đói khát của linh hồn và sức mạnh để chúng ta có thể đi trọn những ngày của đời sống.
Chúa đến để đem lại hạnh phúc cho con người. Trong cuộc sống hôm nay, vẫn còn đó những người què quặt, đui mù, đau liệt… Đó là một thách đố lớn đối với tình mến của ta. Chúa đang mời gọi ta cùng với Người hãy yêu mến, nâng đỡ những anh em đáng thương.
Thứ Năm tuần 1 MV.
Is 26:1-6; Mt 7:21.24-27
KHÔN NGOAN XÂY NHÀ TRÊN ĐÁ
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nhà có nền ắt phải vững”. Cùng chung ý tưởng đó, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta biết chọn lựa giữa việc “xây nhà trên đá hay xây nhà trên cát”. Bởi “nhà” mà Chúa Giêsu nói đến chính là đời sống của mỗi con người. Như ngôi nhà vật chất cần được xây dựng trên nền móng vững chắc thế nào, cuộc đời chúng ta cũng cần được xây dựng trên nền móng vững vàng như vậy. Nền móng ấy là gì, nếu đó không phải là một tâm hồn biết chú tâm lắng nghe và thi hành Lời Chúa, như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta.
Chúa Giêsu nhấn mạnh đến căn tính của người môn đệ và mời gọi phải sống triệt để thì mới được chung hưởng phần phúc Nước Trời với Ngài, đó là: "Không phải tất cả những ai nói với Ta, ‘lạy Chúa, lạy Chúa!’, là được vào Nước Trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Ta ở trên trời, kẻ ấy mới được vào Nước Trời”. Như vậy, người được tuyển chọn chính là những người dám sống những đòi hỏi của Tin Mừng cách thực tế chứ không phải chỉ trên đầu môi chóp lưỡi. Không chỉ hiểu mà còn phải sống và thi hành những gì đã cảm nghiệm.
Và rồi ta cần tránh lối sống giả hình, đạo đức hão huyền. Không thể sống mãi kiểu đạo đức hình thức bên ngoài. Những chuyện bên lề đó chỉ là khởi điểm để dẫn ta đi đến cốt lõi của đạo. Nếu không sống cốt lõi của nó, thì mãi mãi chúng ta chỉ là kẻ dựa dẫm, lăng xăng mà thôi.
Khi chứng kiến một xã hội đầy vẻ giả tạo và hình thức như thế, Người đã phải thốt lên: “Không phải những kẻ nói Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào nước trời đâu”. Kẻ giả danh giả nghĩa, xảo ngôn, giảo trá không chỉ thông thường mà người còn nói tới chiều kích sâu xa hơn, là trong tôn giáo. Nhiều lần Chúa Giêsu đả kích những người biệt phái và luật sĩ vì sự giả danh giả nghĩa ấy. Chung quy cũng bởi không có cái tâm. Cái tâm của một con người chân thật và cái tâm của một con người tôn giáo.
Hãy tránh cho xa những thói giả hình như: phô trương, hình thức; quá lo lắng đến tiếng tăm bề ngoài; hay xét đoán người khác trong sự nông nổi, nhẹ nhạ...
Với những cách sống theo vẻ bề ngoài, Chúa Giêsu nhấn mạnh, chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào (Nước Trời) mà thôi ». Ở đây, Chúa Giêsu không nói thi hành «Lề Luật», nhưng là thi hành «ý muốn của Cha Thầy», và cũng là Cha của chúng ta. Thế mà, ý muốn của Thiên Chúa lại sâu và rộng hơn Lề Luật, vì ý muốn của Chúa Cha còn liên quan đến con tim và lòng mến của chúng ta ; và ý muốn của Chúa Cha còn liên quan đến lựa chọn ơn gọi của chúng ta, đến mọi hành vi, lời nói và tâm tình của chúng ta, ở mọi nơi mọi lúc.
Thánh Phaolô nói rằng: “Không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô” (1Cr 3,11). Như thế, chỉ khi đến với Chúa Giêsu và ở lại với Ngài, cuộc đời chúng ta mới tìm thấy ý nghĩa trọn vẹn. Vì Chúa Giêsu chính là đá tảng cho ta nương náu (Tv 30, 3b), là nền móng để chúng ta xây cuộc đời. Lắng nghe và thi hành lời dạy của Chúa Giêsu, chính là chìa khóa dẫn đưa chúng ta vào tương quan mật thiết với Thiên Chúa Tình Yêu, là bảo chứng cho đời sống vĩnh cửu của chúng ta mai này.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta giữ Lề Luật, không chỉ ở bề ngoài, nghĩa là ở mức độ hành vi có thể quan sát được, nhưng giữ Luật Lề khởi đi từ chốn vô hình không ai thấy được: đó là con tim của chúng ta, là cõi lòng chúng ta, là chốn thâm sâu nhất của chúng ta. Và như thế mới là giữ Lề Luật một cách đích thật, mới là sống Lề Luật trong sự thật, mới là “hoàn tất Lề Luật”. Do đó, hoàn tất lề luật theo Chúa Giêsu, không phải là giữ luật thật chặt chẽ hết mức, nhưng là sống tối đa theo năng động của tình yêu Thiên Chúa, có ở nơi sâu thẳm của chúng ta, vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa.
Chúa Giêsu không bao giờ dạy điều gì mà chính Ngày không sống và thực thi trước. Cả cuộc sống Ngài là một tiếng xin vâng với thánh ý Thiên Chúa, cả cuộc sống Ngài là một thể hiện lời Ngài giảng dạy.
Để được vào Nước Trời, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta thi hành «ý muốn của Chúa Cha». Nhưng ai trong chúng ta cũng gặp khó khăn trong nỗ lực tìm kiếm ý Chúa. Lề Luật, thì chúng ta có thể đọc được trong sách hay trong kinh, nhưng ý muốn của Chúa Cha thì không thấy ghi ở đâu hết, nhất là khi chúng ta muốn biết ý Chúa trong hoàn cảnh riêng của mình, trong trường hợp riêng của mình, trong những vấn đề riêng tư và tế nhị của mình, trong những khó khăn phức tạp của mình.
Nghe Lời Chúa mà không ghi nhớ và suy niệm, cũng chẳng thay đổi đời sống theo Lời Chúa đòi hỏi, có thể là thói quen hiện nay của nhiều tín hữu Việt Nam. Ta dễ tự mãn cho rằng mình đã là Kitô hữu chân chính trăm phần trăm. Chúa Giêsu cảnh báo ta rằng lời nói không thể thay thế cho việc làm, tuyên xưng đức tin trên môi miệng chưa đủ, còn phải bày tỏ đức tin ấy qua hành động cụ thể. Xây nhà trên đá nghĩa là sống đạo dựa trên nền tảng vững chắc là Lời Chúa không dễ dàng chút nào, bởi vì đòi ta phải từ bỏ cái khó bỏ nhất là ý riêng, cùng với những đam mê và tập quán xấu. Vì thế, ta dễ bằng lòng với lối sống đạo quen thuộc, không đòi hỏi mình nhiều quá!
Những kẻ giả tâm thì xây dựng cuộc đời của họ trên cái lợi, lợi vật chất, tiền bạc, những cái lợi thế gian. Những người thiện tâm thì xây cuộc đời của mình trên cái nghĩa, nghĩa với người và nghĩa với đời. Xây trên lợi như xây nhà trên cát, sụp đổ theo thời gian, xây trên nghĩa, nghĩa với người và nghĩa với đời, như xây nhà trên đá. Tâm sinh nên nghĩa, tâm cắm rễ sâu vào lòng người mà làm cho nghĩa càng trường tồn. Những con người trọng nghĩa khí thì tồn tại trong nhau, trong thời gian và được hậu thế ca tụng. Những kẻ giả nhân giả nghĩa, những kẻ coi trọng lợi lộc vật chất và tiền bạc thì quên mất đi tình nghĩa, thủ lợi trước mắt mà quên đi cái lâu dài.
Ước gì lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về sứ mệnh của người Kitô hữu, đó là làm chứng cho Chúa Giêsu, không những bằng những tuyên xưng hay biểu dương bên ngoài, mà bằng cả cuộc sống của chúng ta.
27/11/2016
Chúa Nhật Tuần I Mùa Vọng Năm A
Is 2, 1-5; Rm 13, 11-14; Mt 24, 37-44
TỈNH THỨC CHỜ CHÚA ĐẾN- by Huệ Minh
Mùa vọng là thời gian đặc biệt để tập sống chờ đợi. Không phải chỉ là chờ mừng lễ Giáng sinh mà nhất là chờ đợi Chúa đến kết thúc dòng lịch sử. Ngày tận thế và ngày Chúa quang lâm là một. Ðó là một ngày đáng sợ, không phải vì những hiện tượng kinh khủng sẽ xảy ra, nhưng vì là ngày Chúa đến phán xét kẻ sống người chết. Ngày đó còn là một ngày hội vui: ngày vui của Chúa Giêsu toàn thắng vinh quang, ngày vui của những người được cứu chuộc, ngày vui của cả vũ trụ vật chất được giải phóng. Tận thế là cánh cửa mở ra trời mới đất mới. Tất cả được đưa vào thế giới vĩnh cửu.
Ngôn sứ Isaia cổ võ thêm cho sự mong chờ ấy bằng lời sấm đầy tràn hy vọng về đấng Emmanuel: “Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, đặt tên là Emmanuel” (Is 7, 14). Vị ngôn sứ còn loan báo một cuộc hành hương vĩ đại vào thời thiên sai: mọi dân nước trên mặt đất sẽ tiến về Giêrusalem, tập trung quanh Israel, để nhận biết và phụng thờ Giavê (Is 2, 2-5; x. Mk 4,1-5). Niềm hy vọng vội tan biến khi Israel bị Babylone xâm lăng và bị lưu đày (587).
Do Thái, dân tuyển chọn, lúc ấy đang sống trong thời kỳ bi thảm về chính trị, xã hội lẫn tôn giáo. Phương Bắc đã hoàn toàn bị đế quốc Assyri tiêu diệt (721),
Phương Nam, tức đất nước Giuđa, sống dưới sức ép của đế quốc Babylone đang hăm he thôn tính. Xã hội đầy những bất công, áp bức và chèn ép: người giàu cứ phè phỡn hưởng thụ trong khi dân nghèo bị bỏ rơi và khốn khổ. Tôn giáo lỏng lẻo, pha trộn, vụ hình thức. Chính trong thời buổi nhiễu nhương và thất vọng ấy, sấm ngôn Nathan (2S 7,14) về việc Thiên Chúa hứa sẽ bảo đảm cho vương triều Đavít được miên trường khơi dậy trong lòng người nỗi mong chờ một vị Thiên Sai thuộc dòng tộc Đavít xuất hiện để giải cứu và phục hưng đất nước.
Trước hết Ngài dùng chuyện ông Nôê trong Cựu Ước để khuyến cáo các môn đệ mình: người ta dễ bị cuốn hút trong những lo lắng cho cuộc sống vật chất (ăn uống, cưới vợ lấy chồng). Những lo lắng này không có gì là tội lỗi, nhưng có thể khiến người ta quên mất điều quan trọng là luôn luôn sống xứng đáng là môn đệ Chúa. Do đó khi ngày ấy đến một cách nhanh chóng và bất ngờ, thì những kẻ không sẵn sàng sẽ phải hư mất.
Tiếp theo là một số hình ảnh diễn nghĩa, giúp dễ hiểu: Có những người bề ngoài thì hoàn toàn giống nhau (hai người đàn ông cùng làm ruộng ngoài đồng, hai người đàn bà cùng xay một cối bột) nhưng số phận hoàn toàn khác nhau: kẻ có chuẩn bị sẵn sàng thì được đem đi (đem đi với Thiên Chúa), còn kẻ không chuẩn bị thì bị bỏ lại (bỏ lại trong hư vong).
Nếu trước đây Thiên Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập, giờ đây Người lại giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày để họ được hồi hương tái thiết Đền Thờ và đất nước.
Một lần nữa, hy vọng lại dâng cao với sự mong chờ vị Thiên Sai Ngôn sứ mà trước đây Môsê đã từng loan báo (Đnl 18,18). Đấng Thiên Sai Ngôn sứ này là người Tôi trung của Giavê mà Isaia II đã phác hoạ là người được Thiên Chúa tuyển chọn và ban tràn đầy Thần Khí, sẽ phải chịu nhiều đau khổ và chịu chết để cứu độ dân Người. Hy vọng và mong chờ vẫn kéo dài cho đến lúc người ta lại chuyển sang việc mong đợi Con Người, một nhân vật thiên quốc mà Daniel mô tả là Đấng ngồi bên hữu Thiên Chúa, được Thiên Chúa trao cho toàn quyền chung thẩm nhân loại (Dn 7,13-14).
Trong từng giai đoạn, Israel lại mong chờ vị Thiên Sai cứu tinh. Niềm hy vọng mong chờ đó đã nâng đỡ dân trong suốt thời kỳ đầy thảm hoạ. Sống là hy vọng và mong chờ. Suốt thời kỳ đầu của Giáo Hội tiên khởi, giữa trăm chiều thử thách, các tín hữu hằng mong chờ ngày Chúa trở lại và tha thiết kêu xin: Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!
Giữa lúc nhân loại đang chìm sâu trong đêm tối của lầm lạc và tội lỗi, khát mong ơn cứu độ. Khi Israel đang mòn mỏi mong chờ vị Thiên sai đến giải thoát. Một vì sao sáng xé ngang màn đêm. Ánh sáng xuất hiện. Thiên Chúa đã nhập thể đến giữa loài người, mang tên gọi Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1,23).
Loài người khát khao cứu độ, nhưng nhận biết mình hoàn toàn bất lực, chỉ còn biết trông đợi ở Chúa. Con người không thể lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa lại xuống với con người. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Người Con một ấy chính là Ngôi Lời vĩnh cữu đã trở nên người phàm (Ga 1,1.14), sinh bởi một người nữ và sống dưới Lề Luật để cứu những ai đang sống dưới Lề Luật, hầu cho họ được ơn làm nghĩa tử (Gl 4,4-5).
Đó là lần thứ nhất Thiên Chúa xuống trong lịch sử mà ta vui mừng tưởng niệm trong ngày lễ Giáng Sinh. Lễ Giáng Sinh sắp đến, hãy chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Chúa đến với ta, mang niềm vui, an bình và cứu độ.
Tưởng niệm không phải chỉ là một hoài niệm quá khứ, nhưng căn bản là hiện tại hoá việc Chúa đến hôm nay trong mỗi giây phút cuộc sống và nhất là hướng lòng về ngày Chúa quang lâm khi niên cùng nguyệt tận để phán xét toàn nhân loại. Lúc ấy Người sẽ phân định sự sống đời đời cho những người lành và án phạt muôn đời cho những kẻ dữ là những ai khi sống nơi dương thế đã chối từ Thiên Chúa để đặt mình dưới quyền thống trị của ma quỷ và tội lỗi.
Hãy biết lắng nghe, suy niệm và thực hành Lời Chúa bởi đơn giản rằng Chúa đến và đối thoại với ta trong Thánh Kinh.
Hãy thu xếp công việc để rồi năng tham dự thánh lễ và rước lễ, hãy chiêm ngắm, tôn thờ và sống bí tích Thánh Thể. Chúa đến và ở giữa chúng ta trong Thánh Thể bằng tất cả tình yêu tự hiến, và trở nên Bánh hằng sống nuôi dưỡng ta trên bước đường lữ thứ tiến về nhà Cha.
Trọn cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu là yêu thương và phục vụ hết tình và hết mình. Chúa đến trong anh em: “Sự gì các ngươi làm cho một anh em bé mọn là làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Người đã rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc ly như mẫu gương của sự phục vụ khiêm tốn và vô vị lợi (Ga 13,14-15). Người đã yêu thương đến tận cùng, đến chết trên thập giá. Hãy sống yêu thương và phục vụ vì đó là lề luật quan trọng nhất và là dấu chỉ của người môn đệ Chúa Giêsu (Ga 13,34-35).
Ngày Quang Lâm vào lúc thế tận sẽ rất bất ngờ. Sự chuẩn bị sẵn sàng được xác định qua tư cách biết đón Chúa đến mỗi ngày trong cuộc sống hiện tại. Sách Khải huyền viết: “Phúc cho ai chết trong ân nghĩa của Chúa”. Nhưng để chết trong ân nghĩa thì phải biết sống trong ân nghĩa. Chúa đứng ngoài cửa và gõ; ai sẵn lòng mở, Người sẽ vào và dự bàn tiệc với người ấy.
Hãy quay trở về nơi chốn thâm sâu nhất của cõi lòng mình và hãy nhận ra cho được ai và cái gì đang ngự trị trong chốn thâm sâu đó, và đang thực sự điều hướng tất cả mọi suy nghĩ, mọi ước muốn, mọi hành vi của mình…
Thứ Sáu tuần 1 MV.
Is 29:17-24; Mt 9:27-31
XIN CHÚA MỞ MẮT ĐỨC TIN
Thiên Chúa là chủ muôn loài thụ tạo trên địa cầu này và mọi thứ Ngài tạo dựng nên thì đều tốt đẹp. Chúng ta thật hạnh phúc khi được sinh ra, được làm người và hơn thế nữa là được làm con của Chúa. Không những thế, chúng ta còn được Chúa trao phó một nhiệm vụ rất quan trọng, đó là thay mặt Chúa trông nom và chăm sóc mọi loài trên thế gian này. Còn gì hạnh phúc bằng khi được nhìn thấy những đám mây trắng hòa quyện vào bầu trời cao xanh vi vút, những chú chim đua nhau ca hót líu lo, những bông hoa đua nhau khoe hương sắc và biết bao sinh vật sống trong nước. Thật lạ lùng đến kỳ diệu!
Vì thế, có mấy ai trong chúng ta hiểu được hoàn cảnh thống khổ của những người chẳng bao giờ được nhìn thấy ánh sáng, chẳng bao giờ được nhìn thấy vẻ đẹp huyền nhiệm của trái đất này. Vậy họ là ai? Thưa họ chính là những người mù, và cụ thể hơn chính là hai người mù trong bài Tin Mừng mà thánh sử Matthêu thuật lại hôm nay. Họ chỉ có một khao khát là thấy được những gì mà chúng ta đang thấy.
Sự ao ước nhìn thấy ánh sáng và vạn vật xung quanh cuộc sống của họ được miêu tả qua việc khi nghe thấy danh Chúa Giêsu và biết được những phép lạ mà Người đã làm, thì ngay lập tức họ đã đi theo Người để kêu lên: “Lạy con vua Đavít, xin thương xót chúng tôi.” (Mt 9, 27). Hai người mù này mặc dù bị mù về mặt thể lý, nhưng con mắt đức tin của họ thì thật sáng ngời. Cũng chính vì họ có lòng tin mạnh như vậy nên phép lạ đã trổ sinh và “Mắt họ liền mở ra” (Mt 9, 30).
Điều mà Chúa Giêsu muốn nơi hai người mù năm xưa cũng là điều mà Ngài muốn nơi mỗi người chúng ta hôm nay. Đó là phải biết trông cậy và đặt trọn niềm tin vào Chúa – Đấng luôn yêu thương và giàu lòng thương xót đối với chúng ta. Cái mù thể lý đã khốn khổ đến như vậy rồi, phương chi là cái mù tâm hồn còn đau đớn xót xa hơn biết bao nhiêu.
Qua phép lạ mở mắt cho hai người mù của Chúa Giêsu khơi lên niềm hy vọng cứu độ của toàn thể nhân loại. Ngôn sứ Isaia đã tiên báo vào một thời điểm sẽ tới, tai người điếc sẽ được nghe, mắt người mù sẽ được nhìn thấy, kẻ hèn mọn sẽ ngày thêm phấn khởi, người nghèo sẽ nhảy múa... Lời tiên báo ấy đã trở thành hiện thực, đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Chính Ngài là niềm hy vọng cứu độ cho toàn thể nhân loại. Ngài có khả năng mở đôi mắt thể lý, nhưng quan trọng hơn là mở mắt đức tin cho những ai dấn bước theo Ngài.
Hai người mù trong bài Tin Mừng hôm nay thật may mắn, vì họ có thể trình bày mơ ước lớn nhất đời mình cho một Đấng họ tin rằng có thể biến mơ ước đó thành sự thật. Họ đã đặt niềm tin đúng địa chỉ: “Các anh tin thế nào, thì hãy được như vậy”. Thật vậy,với Chúa Giêsu, mọi sự đều có thể; với Ngài, những mơ ước tốt đẹp nhất sẽ được thực hiện; với Ngài, các Kitô hữu có thể an tâm bước đi trên con đường dài nhất cuộc đời: con đường về trời.
Chúa Giêsu cần họ tuyên xưng lòng tin để Ngài, trong tư cách là Đấng Thiên Chúa xức dầu, có thể đi vào cuộc đời của họ. Bởi Chúa Giêsu muốn hiện thực hóa ước muốn của Thiên Chúa, là Đức Chúa ở với dân của mình. Và họ đã đáp lại: “Thưa Ngài, chúng tôi tin”.
Có một lực nào đó thúc đẩy và họ không cưỡng lại được, đến nỗi họ đành phải ‘bất tuân phục’ cái mệnh lệnh duy nhất mà Chúa Giêsu, vị đại ân nhân của họ, đã truyền cho họ. Ta ngạc nhiên, nhưng ta không khó hiểu, vì sự việc đã diễn ra đúng lôgic của nó. Khi người ta cảm nhận được một niềm vui quá đỗi lớn lao, người ta không thể không chia sẻ niềm vui ấy cho người khác. Đây chính là điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô nói đến trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng: “Nếu chúng ta đã nhận được tình yêu có sức đem lại ý nghĩa cho cuộc sống mình, làm sao chúng ta có thể không chia sẻ tình yêu ấy cho những người khác” (số 8).
Mắt họ được mở ra bởi lòng tin của họ đặt nơi Chúa Giêsu chứ không do sự nghi ngờ tình yêu của Thiên Chúa. Mắt họ được mở ra bởi Thiên Chúa chạm đến họ chứ không phải nghe theo lời Satan ma quỷ, con rắn xưa cám dỗ. Không phải được mở ra bởi sự lừa dối và lầm lạc, cùng sự nghi ngờ và bất tuân Thiên Chúa. Mắt họ mở ra để tiến vào nhà Đức Chúa và ca tụng Ngài, chứ không mở ra để chạy xa và trốn thoát khỏi cái nhìn của Thiên Chúa.
Nếu chúng ta không chữa trị bệnh mù tâm linh này cách triệt để, thì nó có thể làm cho linh hồn chúng ta sa vào lửa hỏa ngục ngàn đời. Mỗi người trong chúng ta cần tìm những liều thuốc tốt nhất để phòng chống cũng như ngăn cản căn bệnh này. Những liều thuốc đó không xa lạ gì chính là Lời Chúa và các giáo huấn của Giáo Hội. Chúng ta hãy lắng nghe, đón nhận, rồi thấm nhuần Lời của Chúa vào trong máu thịt của chúng ta. Như thế, những con virus kiêu ngạo, tự mãn, lười biếng và những tham, sân, si sẽ không có cơ hội đột nhập vào trong con người của chúng ta được nữa.
Qua việc chữa lành của Chúa Giêsu, ta có thể rút ra được nhiều bài học giá trị: Bài học về giá trị của đức tin. Đức tin chính là yếu tố tiên quyết để phép lạ có thể xảy ra và phép lạ cũng chính là động lực củng cố đức tin nên vững mạnh. Chúa Giêsu đã không bao giờ thực hiện phép lạ mà không đòi hỏi đức tin. Hai người mù hôm nay đã tin Chúa có thể thực hiện được điều họ xin và họ tin thế nào, họ được như vậy. Họ mong được sáng mắt và họ được sáng mắt như mong đợi.
Và Mùa vọng này cả Giáo hội đang mong chờ Ngài đến. Ngài đến để mở mắt cho con người nhìn thấy Thiên Chúa và lòng thương xót của Ngài. Cùng với Giáo hội, ta thưa lên với Chúa, “Thưa Ngài, chúng tôi tin” để đôi mắt, tâm hồn, con người ta được mở ra cho một sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Trong tâm tình sâu lắng, ta thấy Chúa Giêsu chữa lành người mù để trình bày về sứ vụ cứu thế của Người. Hai người mù bày tỏ lòng tin vào Chúa Giêsu như Đấng Cứu Thế, để xin Người thương tình cứu giúp. Khi kêu xin lần thứ nhất lúc Chúa đang trên đường đi thì Người đã không trả lời, thái độ yên lặng của Chúa Giêsu có giá trị như một việc thử thách đức tin của họ. Nhưng thật may mắn vì hai người này đã tỏ ra có một đức tin mạnh mẽ khi kiên trì theo người về nhà. Trong cuộc sống nhiều lúc chúng ta mù về thể xác nhưng chúng ta có trông cậy vào Chúa như hai anh mù không?
Thứ Bảy tuần 1 MV.
Is 30:19-21.23-26; Mt 9:35-10:1.5a.6-8
CON TIM THỔN THỨC CỦA CHÚA
Thánh Ambrôsiô chào đời khoảng năm 339 tại Augusta Trevororum. Cha Ngài, ông Aurlio Ambrôsiô làm tổng trấn xứ Gauules và là nghị sĩ viện quí tộc. Nhưng ông chết sớm, mẹ Ngài trở về Roma với 3 người con: Ambrosiô. Marcellina và Satyra, cả 3 đều nên thánh.
Ambrôsiô chưa lãnh phép rửa tội như thói quen thời ấy hay chần chừ, sợ mất ơn phép rửa tội, nhưng Ngài đã sống tuổi thơ ấu đạo đức. Lớn lên, Ngài tỏ ra thông minh đặc biệt, nổi tiếng về thơ văn, tài hùng biện và luật pháp. Thuộc dòng quí tộc, Ambrôsiô được đặt làm lãnh sự tỉnh Emilia và Liguria với thị trấn là Milan. Probus, vị tổng trấn theo Kitô giáo đã khuyên Ngài : – “Hãy đi và hành động như một giám mục hơn là quan án”.
Và người ta thán phục nhà quí tộc Kitô giáo vì sự khôn ngoan tỉnh thức và hiền hậu của Ngài. Giám mục Milan qua đời, một cộng đoàn tập hợp trong nhà thờ, người ta gây ồn ào xáo trộn tại đó vì chiahai phe: phe công giáo và phe theo Ariô. Ambrôsiô với tư cách là nhà cầm quyền đã đến dàn xếp. Ngài diễn thuyết kêu gọi hoà bình và khuyên dân chúng khôn ngoan chọn lựa, Ngài nói một cách đáng phục đến nỗi mọi tín hữu đều một tiếng kêu lớn : “Ambrôsiô làm giám mục”.
Hết còn phân ly, người ta ôm nhau khóc vì vui mừng. Hoàng đế Valentinô đã chuẩn nhận việc tuyển chọn bất ngờ này.
Lúc ấy, Ambrôsiô còn là một dự tòng, nên cảm thấy mình bất xứng để làm cha linh hồn của cả đoàn dân Ngài. Ngài đã có lần trốn thoát đến nỗi còn muốn gây cớ xúc phạm để tỏ ra bất xứng, nhưng vẫn không đánh lừa nổi ai. Ngài còn viết thư cho các giám mục và hoàng để xin cáo lui, nhưng hoàng đế còn bày tỏ lòng thán phục : – “Không có một tinh thần nào ngay chính hơn, đây là một tay lái không thể uốn cong được”.
Ambrôsiô dành nhiều miễn cưỡng chấp nhận. Ngày 24 tháng 11 Ngài chịu phép Rửa tội. Ngày 07 tháng 12 năm 374 Ngài đã thụ phong linh mục và được thánh hiến giám mục. Ngài nói : – “Tôi bắt đầu dạy dỗ điều mà tôi không được học”.
Khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Chúa Giêsu muốn mời gọi các môn đệ cùng cộng tác với Ngài. Trước hết là cộng tác gián tiếp bằng việc ‘xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa’. Chính Chúa là chủ mùa gặt, là Đấng điều khiển công cuộc loan báo Tin mừng nên các thợ gặt phải do Ngài sai đến và làm việc theo ý Ngài. Tiếp đến là cộng tác cách trực tiếp bằng việc ‘loan báo Nước Thiên Chúa đã gần đến’. Đây là việc người môn đệ phải luôn để tâm khi thi hành sứ mạng Chúa trao. Sau cùng là cộng tác cách cụ thể bằng việc ‘chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền’ như là dấu chỉ của sự chăm sóc đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu thấy dân chúng là những con người đang "tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn" (Mt 9,36). Và khi Chúa nhìn thấy tình trạng đó, nên Chúa động lòng thương dân. Lòng thương của Chúa không dừng lại ở nơi tình cảm chóng qua, mà còn thôi thúc Chúa đi đến chỗ hành động để biểu lộ tình thương. Tin Mừng ghi: Ngài kêu gọi các môn đệ lại và nói với họ: "Các con hãy xin với chủ ruộng sai thợ gặt đi gặt lúa của Ngài" (Mt 9,38).
Rồi cụ thể hơn nữa, Ngài tập hợp các môn đệ lại, ban cho các ông quyền năng trên các thần ô uế, và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền rồi sai các ông đi đến với những con chiên đang bơ vơ lạc lõng ấy.
Trái tim Chúa Giêsu luôn thao thức về con người, luôn rộng mở đón nhận con người, nên dễ chạnh lòng thương trước cảnh bơ vơ, khốn cùng của con người. Tình thương của Chúa Giêsu không phải là thứ tình mơ mộng viễn vông, than mây khóc gió, nhưng là một tình thương mãnh liệt dẫn đến những hành động cụ thể. Khi nhìn thấy đám đông tất tưởi, bệnh tật, đói khát, Ngài lập tức an ủi, chữa lành, và nuôi dưỡng. Việc Ngài an ủi, chữa lành, nuôi dưỡng đám đông không chỉ là những hoạt động do cảm tính nhất thời, nhưng là cả một kế hoạch rộng lớn, và lâu dài. Chính vì thế, Người đã chọn 12 Tông đồ, huấn luyện, sai họ đi nối tiếp sứ mệnh của Người.
Tin Mừng hôm nay khắc họa một “Chúa Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương.” Ngài thấy họ “như bầy chiên không người chăn dắt.” Vì thế, Ngài đã gọi mười hai môn đệ lại và sai các ông đi, với lệnh truyền: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” Người môn đệ Chúa Giê-su, vì thế, luôn luôn vẫn có cái gì đó để cho đi một cách vô điều kiện.
Thiên Chúa Cha, vì cảm thương thân phận tội lỗi đau khổ của loài người chúng ta nên đã sai Chúa Giêsu xuống trần gian. Chúa Giêsu, cũng đã vì cảm thương đám đông tất tưởi, bơ vơ, nên đã sai các môn đệ ra đi, tiếp tục sứ mệnh gieo rắc tình thương khắp nơi. Việc truyền giáo như thế là kết quả của lòng thương yêu vô biên của Thiên Chúa. Tình yêu thương khởi đầu từ nơi trái tim của Thiên Chúa phải được tiếp nối, đẩy mạnh, và nhân rộng trong cuộc đời này. Cứ yêu thương rồi tình yêu sẽ hướng dẫn ta biết phải làm gì.
Tất cả chúng ta là những người con của Chúa. Tất cả chúng ta được Chúa mời gọi làm nhân chứng cho Chúa. Chúng ta hãy học theo gương của Đức Giêsu biết nhìn người khác với ánh mắt cảm thông, biết cảm thương những con người đau khổ. Như thế là chúng ta đã bắt đầu làm việc truyền giáo rồi.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi mỗi người chúng ta tham gia vào sứ vụ cứu thế của Ngài bằng những việc làm cụ thể như: cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, loan báo Nước Thiên Chúa bằng đời sống chứng tá cho Chúa và yêu thương chăm sóc những người đau khổ, bệnh tật… Mỗi người chúng ta đáp trả sự tín nhiệm của Chúa và thi hành sứ mạng này như thế nào?
November 30, 2022