|
MỘT
HÀI NHI MỚI SINH
Lễ Giáng Sinh
“Một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng
cỏ” (Lc 2: 12), thì có gì mà lạ lùng, gây ngạc nhiên. Có gì mà
được coi là “tin mừng cho toàn dân” (Lc 2: 11). Không lẽ việc
cha mẹ hài nhi nghèo đến độ phải trú ngụ tại một chuồng nuôi súc
vật là một hình ảnh gây ngạc nhiên? Hoặc không lẽ nhìn thấy một
trẻ sơ sinh trong cảnh nghèo túng, đang co ro, rét mướt trong
tấm khăn mỏng, nằm giữa cái máng chứa rơm, cỏ cho bò, lừa ăn là
một hiện tượng khiến cho mọi người phải vui mừng?
Thật
thế, hài nhi được sinh ra trong cảnh nghèo hèn ở một chuồng nuôi
súc vật, đang khóc những tiếng khóc đầu đời giữa đêm trường lạnh
giá ấy chính là niềm vui của mọi người: “Đây, ta báo cho các ngươi
một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân” (Lc 2:
10). Vì Hài Nhi đó không phải là một trẻ nhỏ tầm thường như những
trẻ nhỏ tầm thường khác, mà là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể giáng
trần để giải thoát nhân loại: “Hôm nay trong thành Đavít Đấng
Cứu Thế, Chúa Kitô đã sinh ra cho các ngươi” (Lc 2:11). Ngài chính
là Đấng muôn dân trông đợi. Đấng mà thiên thần đã nói với Giuse
trong giấc mộng: “Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng sợ nhận Maria
về nhà làm bạn mình: vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh
Thần: bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu: vì
chính Ngài sẽ cứu dân mình khỏi tội” (Mt 1: 20-21).
Nhưng
liệu tin mừng ấy có thu hút được sự chú ý của nhân loại như thiên
thần đã nói với các mục đồng, và các mục đồng thuật lại cho mọi
người hay không? Và liệu nhân loại có đón nhận tin mừng trọng
đại ấy bằng một tâm tình nồng nàn và tha thiết như Maria, Giuse,
Ba Vua và các mục đồng hay không? Có lẽ là không, vì sau khi nghe
báo tin, các mục đồng đã đến Bêlem, gặp được hài nhi, hiểu được
điều mà thiên thần đã loan báo, nhưng Thánh Kinh đã chỉ ghi nhận:
“Tất cả những ai đã nghe các mục đồng thuật lại đều lấy làm bỡ
ngỡ” (Lc 2:18). Bỡ ngỡ đến độ không thể tin rằng một hài nhi sinh
ra trong bối cảnh nghèo như thế mà lại bảo là Đấng Cứu Thế, và
sự có mặt của hài nhi lại được coi là một tin mừng cho toàn dân.
Tin được điều này mới là chuyện lạ. Và phải chăng đó là lý do
duy nhất khiến những ai nghe các mục đồng thuật lại biến cố giáng
sinh của Hài Nhi đều hoang mang và bỡ ngỡ.
Thật
vậy, cư dân Giêrusalem đã tỏ ra rất bỡ ngỡ về tin đồn ấy, nhất
là khi họ truyền tai nhau tin Ba Vua Đông Phương đang có mặt tại
Giêrusalem và cũng đang dò hỏi về tin tức của hài nhi: “Vua dân
Do Thái mới sinh ra ở đâu. Chúng tôi thấy ngôi sao của Ngài xuất
hiện và chúng tôi đến để triều bái Ngài” (Mt 2:2). Tuy nhiên,
đây chỉ là cái xao động, ngỡ ngàng ngược lại với tâm trạng vui
mừng, an bình như thiên thần đã loan báo. Một hình thức ngỡ ngàng,
xao động vì tò mò, và vì ghen tị như vua Hêrôđê. Ông không những
ngỡ ngàng, sửng sốt mà còn âm mưu tìm giết hài nhi.
Tóm
lại, trong bối cảnh Thánh Kinh thật lại, ngoài Giuse, Maria, các
mục đồng, Ba Vua, và sau này có Simêon và Anna, không ai trong
dân chúng lúc bấy giờ tại Giêrusalem đã sung sướng, vui mừng và
thiết tha đón nhận tin vui ấy. Điều này phản ảnh những lời các
thiên thần đã hát trong đêm Ngài giáng trần: “Vinh danh Chúa Cả
trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2:14).
Thiên
tâm. Đây chính là chìa khóa mở ra chân trời hạnh phúc. Yếu tố
để đón nhận bình an, món quà quí giá mà Hài Nhi đã mang xuống
cho nhân lọai từ trời cao. Đây cũng chính là lý do đã khiến cho
Giuse, Maria, Ba Vua, các mục đồng cung kính thờ lậy, và hạnh
phúc với niềm vui thiên đàng khi chiêm ngắm Hài Nhi trong máng
cỏ. Là lý do giúp các ngài vượt qua được tầm nhìn của cặp mắt
trần thế, để khám phá ra nơi Hài Nhi một Thiên Chúa mặc xác phàm
con người. Và đó là điều mà muôn dân phải vui mừng vì giờ giải
thoát đã đến. Đấng đã đến để giải thoát nhân loại khỏi ách thống
trị của tội lỗi là chính Hài Nhi đó.
Ngược
lại, vì không có thiện tâm, vì thiếu thiện tâm nên Hêrôđê, các
thượng tế, kinh sư, ký lục, và cả dân Giêrusalem lúc bấy giờ đã
xôn xao, lo lắng trước tin Hài Nhi giáng trần. Hêrôđê là người
đầu tiên từ chối tin mừng ấy. Điều mà thiên thần, Giuse, Maria,
các mục đồng và Ba Vua cho là tin mừng, thì Hêrôđê lại cho là
một tin dữ. Và vì thế, ông đã ra tay lùng bắt để giết chết tin
mừng ấy. Thế là tin mừng đã trở thành một tin dữ. Niềm vui đã
trở thành nỗi buồn. Bình an đã trở thành bất an. Ba Vua đã âm
thầm trở về bản quán mình. Giuse đã đem Maria và Hài Nhi qua Ai
Cập lánh nạn. Các mục đồng đã trở lại với những việc làm thường
ngày bên đoàn vật của họ. Bầu trời Bêlem tưng bừng với ánh sáng
và đàn ca của các thiên thần nay đã trở nên vắng lặng và buồn
tẻ. Tất cả chỉ vì lòng dạ con người vắng bóng thiện tâm mà Hêrôđê
là một thí dụ.
Thiên
Chúa đã thương yêu nhân loại, thương yêu từng người trong chúng
ta. Ngài không còn chờ đợi thêm được nữa, nên đã giáng trần để
ở giữa và ở với con cái loài người, để cứu chuộc và đem con người
về lại với vai trò làm con Thiên Chúa. Và đây chính là tin mừng
trọng đại đối với toàn dân và mỗi người. Nhưng ngày nay liệu cũng
sẽ có mấy ai đón nhận được tin mừng ấy. Có mấy người nhìn và hiểu
được con trẻ sơ sinh kia chính là Cứu Chúa của mình. Là người
sẽ giải thoát mình khỏi tội. Là Đấng Cứu Thế muôn dân đang mong
đợi.
Muốn
tin nhận Ngài, muốn nhìn ra Ngài, chúng ta phải như Maria tin
rằng “lời Chúa phán sẽ được thực hiện”. Như Giuse đã “thực hiện
như lời Thiên Thần Chúa truyền”. Như các mục đồng đã “hối hả tới
nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi”. Tóm lại, chúng ta phải
bắt chước đức tin và lòng mến mạnh mẽ của Maria và Giuse. Phải
có tâm hồn đơn sơ và thành thật như các mục đồng mới hy vọng khám
phá và tìm gặp được Chúa, mới đón nhận được bình an mà Ngài đã
hứa ban, và mới có thể trở thành những kẻ rao giảng, nói về Ngài
cho tất cả anh chị em mình: “Đây, ta báo cho các ngươi một tin
mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân, hôm nay Đấng
Cứu Thế, Chúa Kitô đã sinh ra cho các ngươi trong thành Đavít.
Và đây là dấu để các ngươi nhận biết Ngài: một hài nhi mới sinh,
bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2: 10-12).
T.s.
Trần Quang Huy Khanh
|
|