Suy niệm 20 thường niên năm A
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
**************
LÒNG TIN (2014)
(Is 56, 1. 6-7; Rm 11, 13-15. 29-32; Mt 15, 21-28)
Lời rao giảng của các tiên tri trong thời Cựu Ước được dành cho người Do-thái trước tiên. Họ là Dân đã được Thiên Chúa chọn để cưu mang ơn cứu độ cho nhân loại. Dân Do-thái là một dân tộc văn minh có lề luật hướng dẫn và có cơ cấu tổ chức chu đáo. Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn lại hơn hai ngàn năm về trước, cuộc sống của dân làng rất đơn sơ mộc mạc. Ngày đó, họ chưa có các phương tiện văn minh kỹ thuật về các phương diện khoa học trong đời sống. Nhất là về vấn đề thông tin, in ấn và truyền thông. Các tiên tri đã nỗ lực rao giảng và luôn nhắc nhở con dân quay về với Thiên Chúa: Đây Thiên Chúa phán: Hãy giữ luật và thực thi công bình, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới và sự công chính của Ta sẽ tỏ hiện (Is 56, 1). Sự rao giảng bằng cách truyền đạt rỉ tai và âm thầm loan truyền sứ điệp một cách rất chậm rãi qua các thế hệ. Lời rao giảng được ghi chép bằng tay cuộn thành từng cuốn sách được cất giữ và lưu truyền.
Lịch sử ơn cứu độ đi vào hành trình cuộc sống cụ thể của xã hội. Dân bị ảnh hưởng bởi văn hóa và tín ngưỡng của các dân tộc lân bang tôn thờ các tượng thần gỗ đá vô cảm. Các vị Thần này do con người làm nên, tặng ban và phong thần để có thể đáp ứng thỏa mãn mọi nhu cầu đòi hỏi của bản năng. Nhiều người đã ưa thích chạy theo thói đời dễ dãi, buông thả và thụ hưởng. Các Vị Thần như các bình phong để con người tự điều khiển theo ý muốn của mình. Các nhà cầm quyền dựa vào uy tín của thần minh để thống trị và cai quản dân chúng. Các tôn giáo ngoại bang chủ trương thờ cúng các thần minh theo nhu cầu của cuộc sống, tạo nên các thần mưa, gió, bão, núi, sông, mặt trời, mặt trăng, thần bò vàng, thần cây cối… và các thần vô danh. Gọi chung là Đa Thần Giáo. Các nghi lễ cúng bái thờ lạy các Thần chỉ là những hình thức bề ngoài trống rỗng. Các Thần chỉ là gỗ đá, có mắt mà không nhìn, có tai mà không nghe và chỉ trơ trọi như một xác không hồn.
Trong bài phúc âm kể câu truyện người đàn bà quê ở Canaan, vùng đất của dân ngoại, đến kêu van Chúa Giêsu trừ quỷ cho con gái của bà. Con người thường bị ma quỷ quấy phá và ám ảnh. Tự sức con người đành bó tay. Các Thần Minh cũng chẳng có quyền hành gì trên ma quỷ. Người đàn bà đã chạy đến với Chúa xin cứu giúp: Bà kia đến lạy Người mà nói: Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi (Mt 15, 25). Chúa đã thử thách bà về lòng tin. Bà tỏ ra có đủ sự khiêm nhượng để nhận ra quyền năng của Thiên Chúa. Bà không ngại nhận mình chỉ là ‘chó con’, cũng được thừa hưởng ân lộc của Thiên Chúa: Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy. Và ngay lúc ấy, con gái bà đã được lành (Mt 15, 28). Tuy sống chung đụng giữa những người dân ngoại, nhưng không phải mọi người đều lệ thuộc hay tỏ lòng thờ kính những vị Thần vô tri vô giác. Nhiều người vẫn muốn đi tìm sự thật và nguyên nhân cùng đích của cuộc đời. Trên thực tế, có biết bao nhiêu người bị hướng dẫn lầm lạc trong vấn đề niềm tin tôn giáo. Họ tôn thờ những vị thần mà họ không biết. Thật đáng thương!
Dân tộc Do-thái được Thiên Chúa mạc khải và hướng dẫn sống trong lề luật và huấn lệnh. Chúng ta biết rằng sống trong khuôn khổ của các giới răn cũng không phải là dễ dàng. Vì tấm lòng con người mong muốn được cuộc sống tự do không bị ràng buộc. Trải qua lịch sử ơn cứu độ, chúng ta thấy Thiên Chúa đã thực hiện biết bao sự lạ lùng và ưu đãi dân hết mực, vậy mà dân chúng cứ chứng nào tật đó. Sự cám dỗ của cuộc sống vô thần hay đa thần giáo luôn kéo lôi con người trở lại sự vô tri. Vì nhiều người tin vào Đa Thần sẽ tự tìm thỏa mãn mọi khát vọng thấp hèn của bản năng, mà không bị lương tâm cắn rứt. Nhưng dân Do-thái được hướng dẫn để đặt niềm tin vào Thiên Chúa độc thần. Một Thiên Chúa có uy quyền và yêu thương con dân của Người. Thiên Chúa nhân từ, công bằng và thưởng phạt công minh.
Qua hai ngàn năm, Tin mừng tiếp tục được rao truyền khắp nơi. Số người tin Chúa có gia tăng nhưng so với dân số thế giới, số tín hữu không tăng thêm. Giáo Hội có nhiều phát triển không đồng đều như những sóng triều khi thịnh khi suy tùy thuộc vào mỗi địa phương, văn hóa, chủng tộc và ngôn ngữ. Khi chúng ta nhìn chung chung qua những sinh họat của Giáo Hội Công Giáo tại Giáo Đô, tại các Nước thứ ba và trong các Nước đang phát triển, chúng ta thấy có tia hy vọng và lạc quan. Các cuộc tổ chức Đại hội, đại lễ và các cuộc hành hương rất hoành tráng, qui tụ đông người và long trọng. Các nhà thờ tiếp tục được xây dựng mới và sửa chữa tu bổ rất khang trang. Số giáo dân vẫn sinh hoạt sầm uất và mỗi năm có thêm nhiều các tân tòng. Có nhiều ơn gọi dâng mình cho Chúa trong các Dòng tu đạo đời.
Tuy nhiên, thực tế tại các nước văn minh, nhất là Âu Châu, niềm tin tôn giáo đã dần bị phai mờ. Ngay tại nơi Chúa Giêsu giáng trần, con số Kitô hữu rất khiêm nhượng. Tại Belem, Giêrusalem và Nazarét, những nơi thánh trở thành các di tích làm chỗ cho khách hành hương kính viếng. Các đền thờ, nhà thờ và hội đường ít người lui tới. Giáo dân thưa thớt và bị chia năm sẻ bảy, mỗi nhóm tôn giáo sở hữu một khu vực. Đa số các tín hữu bị ảnh hưởng bởi các trào lưu trong xã hội. Nhiều người đang chạy theo cuộc sống thực tế mong tìm cái ăn, cái uống, hưởng thụ và thỏa mãn mọi nhu cầu đòi hỏi. Không còn quan tâm nhiều đối với đời sống tâm linh và sự sống ngày sau.
Đôi khi chúng ta cảm thấy hơi bi quan vì nhiều người Kitô hữu không còn muốn thực hành đạo. Các nhà thờ bị trống vắng nhiều. Con số tín hữu tham dự lễ Chúa Nhật giảm sút đáng kể. Thờ ơ với các Bí Tích nhất là Bí tích Thánh Thể và Hôn Phối. Ơn gọi dâng hiến phục vụ thiếu hụt. Nhiều nhà thờ bị đóng cửa vì thiếu tài chánh nâng đỡ. Tin đạo, nhưng không muốn sống và thực hành các giới răn của Chúa hay huấn quyền. Rất nhiều tín hữu cấp tiến đồng ý chấp nhận những điều nghịch với giáo huấn của Giáo Hội về đạo đức luân lý như vấn đề công bằng xã hội, quyền sự sống, quyền lao động, về hôn phối của các cặp đồng tính, ngừa thai, phò phá thai, trợ tử và tử hình... Có nhiều tín hữu không chống đối hay từ bỏ niềm tin, họ vẫn mang danh Kitô hữu, nhưng sống theo chủ nghĩa tương đối. Quan niệm sống đạo một cách cởi mở và dễ dàng. Đây là vấn đề nhức nhối trong mục vụ. Một số các thành viên vẫn tham dự đầy đủ các sinh họat tôn giáo, nhưng không muốn thay đổi cuộc sống nội tâm. Nhất là sự liên hệ trong đời sống gia đình như ly dị, tái hôn và sống chung bất hợp pháp. Đời sống luân lý bị tụt dốc gây rất nhiều những khó khăn trong vấn đề giáo dục con cái và xây dựng gia đình, cộng đoàn.
Thiên Chúa chọn dân tộc Do-thái để thể hiện ơn cứu độ. Chúa tiếp tục ban ơn: Vì Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc (Rm 11, 29). Dân Do-thái vẫn được Thiên Chúa chúc phúc qua các thế hệ. Người Do-thái có một sức mạnh phi thường. Họ phải đối đầu với cả khối Ả-Rập ở Trung Đông, nhưng vì sống còn, họ vẫn hiên ngang chiến đấu. Họ là những người đi tiên phong trong các lãnh vực về chính trị, kinh tế, xã hội và khoa học. Dân Do-thái là dân tộc thông minh và mạnh mẽ. Nguồn gốc của Đạo Công Giáo do chính người Do-thái dựng xây. Chúng ta có Đức Maria, Phêrô, các Tông đồ, môn đệ và các Giáo đoàn tiên khởi đều là người Do-thái. Chúng ta hãy luôn cầu nguyện cho họ, vì đôi khi: Thiên Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người (Rm 11, 32). Thánh Phaolô đã có những suy tư rất chân thật và hoàn toàn đặt niềm tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa.
Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con. Giữa cơn phong ba bão tố của niềm tin, cậy và mến, xin cho chúng con biết chạy đến với Chúa xin ơn phù trợ. Chúa có lời ban sự sống đời đời.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Bronx, New York
August 9, 2017