Suy Niệm Chúa nhật 34 thường niên, năm A

 

ĐẤNG XÉT XỬ
Chúa nhật Kitô Vua 2020

Thiên Chúa là Đấng Thánh duy nhất, và Ngài “có toàn quyền trên muôn loài.” (1 Cr 15:28) Thật vậy, sau khi phục sinh, chính Chúa Giêsu đã hiện ra với 11 môn đệ tại Galilê và xác nhận: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” (Mt 28:18)

Chúa Giêsu được toàn quyền, nghĩa là Ngài cũng là Thẩm Phán xét xử trong ngày chung thẩm. Ngài xét xử đầy lòng thương xót nhưng cũng rất thẳng thắn, công minh. Kinh Thánh cho biết: “Đức Chúa là Đấng xét xử, Người chẳng thiên vị ai.” (Hc 35:12; Đnl 10:17-18; Lc 20:21; Cv 10:34; Rm 2:11; Gl 2:6; Ep 6:9) Kinh Thánh còn cho biết chi tiết với cách nói mạnh mẽ hơn: “Chúa Tể muôn loài không bao giờ vị nể, kẻ quyền cao chức trọng, Người cũng chẳng kiêng dè. Sang hay hèn đều do Người tạo tác, đều được Người chăm sóc hệt như nhau, nhưng kẻ quyền cao sẽ bị tra vấn nghiêm nhặt.” (Kn 6:7-8)

Đó là luật công bằng, như Chúa Giêsu đã xác định: “Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.” (Lc 12:48) Tuy nhiên, bản chất vốn dĩ là tình yêu nên Thiên Chúa có đặc điểm bất biến: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (1 Sb 16:34 và 41; 2 Sb 5:13; 2 Sb 7:3 và 6; Er 3:11; Tv 100:5; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4 và 29; Tv 136:1-26) Nếu Thiên Chúa chấp tội thì chẳng ai có thể đứng vững trước Tôn Nhan Ngài. (Tv 130:3) Thật vậy, “Ngài không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm.” (Tv 103:10)

Trong xã hội loài người, các lãnh thổ khác nhau chia thành năm châu lục, mỗi châu lục gồm nhiều quốc gia, mỗi quốc gia có một vị đứng đầu với quyền tối thượng, phàm ngôn gọi là nguyên thủ quốc gia – thay đổi tùy thời: Chúa Thượng, Hoàng Thượng, Hoàng Đế, Vua, Nữ Hoàng, Quốc Vương, Quốc Trưởng, Tổng Thống,... Riêng Công giáo gọi vị đó là Giáo Hoàng – người kế vị Thánh Phêrô cai quản Giáo Hội tại thế.
Người ta có câu: “Quan nhất thời, dân vạn đại.” Dĩ nhiên đó là nói về thế gian. Các nguyên thủ quốc gia cũng chỉ tạm thời chứ không vĩnh viễn, kể cả quyền lực, chỉ có Thiên Chúa là duy nhất, vĩnh viễn, bất biến, và có quyền tối thượng, kể cả “quyền ném vào hoả ngục.” (Lc 12:5) Khi bị thế lực trần gian áp chế, Chúa Giêsu vẫn thẳng thắn nói với Philatô là người có toàn quyền trong tay: “Ngài KHÔNG có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài.” (Ga 19:11) Rất rõ ràng.
Theo chiết tự chữ Hán, chữ Vương (vua, 王), ba “gạch ngang” tượng trưng cho Thiên, Nhân, Địa, và được nối kết bằng một “gạch đứng” với ý nghĩa “vua là người nối kết trời, đất và con người.” Đúng theo nghĩa đó thì trọng trách nặng nề lắm, nhưng vua trần gian chẳng mấy người như vậy, đôi khi họ còn ngược ngạo, hống hách, làm khổ dân mà thôi. Tương tự, gần gũi chữ Vương (王) là chữ Chủ (主), cũng có nghĩa là Chúa, viết như chữ Vương và có thêm “ngọn lửa” ở trên, với ý nghĩa: Chúa cũng là vua nhưng có đức độ, gần gũi với con người, đốm lửa trên đầu ngài là ánh sáng soi sáng cuộc đời chúng ta, thúc bách chúng ta đi theo ngài, và đó là ý nghĩa của cuộc đời chúng ta. Hán tự thật thâm thúy, đúng là chữ phải có nghĩa.
Đệ Nhất Thiên Vương là Chúa Giêsu, vì Ngài là Vua các vua và Chúa các chúa, thế nhưng Ngài lại hạ mình đến tận cùng vì yêu thương các thần dân. Có điều rất kỳ lạ: Vua chúa trần gian có mọi thứ, còn Chúa Giêsu là Vua Đa Không: KHÔNG ngai, KHÔNG đăng quang, KHÔNG vương miện, KHÔNG vương trượng, KHÔNG long bào, KHÔNG quần thần, KHÔNG dinh thự, KHÔNG văn phòng làm việc, KHÔNG nghi thức, KHÔNG thiết triều,... Thậm chí Ngài còn SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang.
Tại sao như vậy? Chính Chúa Giêsu minh định với tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này.” (Ga 18:36) Tuy nhiên, Ngài lại có quyền tối thượng: “Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử. Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người.” (Ga 5:22, 26-27)
ĐỨC VUA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT
Thật khủng khiếp với quyền sinh sát trong tay vua chúa trần gian: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.” Vì họ tự nhận là Thiên Tử – Con Trời, hét ra lửa, mửa ra quyền. Còn Chúa Giêsu khác hẳn, khi Philatô hỏi Ngài có phải là vua không, Ngài thản nhiên: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” (Ga 18:37) Là Vua các vua, nhưng Chúa Giêsu luôn động lòng trắc ẩn, chạnh lòng thương xót. Ngài đến thế gian để cứu những gì đã mất, và Ngài nhắn nhủ: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11:29) Là Thiên Vương nhưng Vua Kitô Giêsu là Vua Thương Xót, luôn nhân hậu, nhân ái và từ tâm.
Chính Đức Chúa là Chúa Thượng đã tuyên phán: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt.” (Ed 34:11-12) Thật vậy, khi chúng ta tưởng mình cô đơn thì Ngài đang ở ngay bên; khi cuộc đời êm trôi, Ngài đồng hành với chúng ta; khi cuộc sống như ở trong ngõ cụt, Ngài không chỉ đồng hành mà còn vác chúng ta trên vai để chúng ta được an toàn. Thực sự như thế, nhưng vì phàm nhân yếu đuối, chúng ta đã từng có những lúc bị dao động, chao đảo, vì đức tin còn yếu kém.
Là Đấng tạo dựng nên chúng ta, Thiên Chúa biết rõ chúng ta thế nào, và Ngài đã xác định: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng. Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê.” (Ed 34:15-17) Ngài không bỏ qua bất cứ ai, người nào càng đau khổ thì càng được Ngài thương xót. Thật vậy, Ngài không phân biệt, chấp nhận bỏ lại 99 con chiên béo tốt để tìm cho được 1 con chiên xấu xí, ốm yếu, hôi tanh. (x. Mt 18:12-14; Lc 15:4-7) Phàm ngôn không đủ từ ngữ để diễn đạt lòng thương xót mầu nhiệm như vậy.
May thay, hiếm nhưng vẫn có: Các vua chúa trần gian ít có người đích thân vi hành như Hoàng đế Khang Hi (Kangxi, 1654-1722) đời nhà Thanh của Trung Hoa. Ông là vua tốt lành, thương dân suốt hơn 60 năm trị quốc. Có bao giờ Tổng thống đến khu dân cư nghèo để thấy sinh hoạt cực khổ của người dân? Có đến thì chỉ ở “trung tâm” rồi tiệc tùng, và nghe “báo cáo,” liệu có bao nhiêu phần trăm trung thực? Bởi vậy, người dân mới thở dài rồi nói: “Ôi dào! Làm láo, báo cáo hay!” Ngay cả tỉnh trưởng hoặc quận trưởng cũng vậy, chẳng mấy người thật lòng muốn biết nỗi niềm của người dân. Đạo cũng không khác lắm, có bao nhiêu giám mục hoặc linh mục tận tình đến thăm giáo dân để hiểu được nỗi lòng của họ, cả đời thường lẫn tâm linh? Có chức nên có quyền, đủ lý lẽ biện hộ, khó mà thản nhiên trả lời ngay. ĐGH Phanxicô cũng thường thẳng thắn dám nói tới những điều “nhạy bén” như vậy, có lẽ nhiều người cũng cảm thấy “dị ứng” lắm. Đúng là “sự thật mất lòng” mà.
Quả thật rất ấn tượng với Đức cố Giám mục Jean Cassaigne (1895-1973), gọi thân thương là Cha Sanh, nhà truyền giáo của dân tộc Kơ Ho, chết vì lây bệnh cùi tại Trại Phong Di Linh, được mệnh danh là Tông Đồ Người Cùi. Khi còn là Giám mục GP Saigon, ngài thường dùng chiếc xe vespa cọc cạch đi thăm dân chúng vùng Chợ Lớn. Một người Pháp mà quên mình, dấn thân và hòa nhập với người Việt, đặc biệt là những người dân tộc và các bệnh nhân phong cùi. Không yêu thương làm sao sống được vậy? Đó là phong cách của thánh nhân, ngài đã sống đúng khẩu hiệu giám mục của ngài: “Caritas et Amor – Bác Ái và Yêu Thương.”
Cuộc đời luôn có những ngịch lý: Biết nhiều thì khổ nhiều; thấy nhiều thì chán nhiều; nghe nhiều thì nóng máu. Làm ngơ thì người ta nói mình sợ, nói ra thì bị ghét. Thẳng thắn sẽ va chạm, chỉ khổ mình thôi. Thế nhưng không thể làm ngơ, ai nhát đảm thì dễ vào hùa, đồng lõa. Thật may còn có Chúa là Bến Yêu Thương cho chúng ta trú ẩn. Thánh Vịnh gia chia sẻ cảm nghiệm tâm linh: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-3) Mỗi tín nhân đều khả dĩ trải nghiệm đức tin tuyệt vời như vậy thì hạnh phúc biết bao!
Chắc chắn đức tin phải được tôi luyện trong gian truân thì mới có thể dần dần trở nên tinh ròng, và lúc đó người ta mới có thể xác tín: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa.” (Tv 23:4-5) Thánh Vịnh gia chia sẻ thêm: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:6) Thật là hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc đó không thể có nếu cứ sống tà tà. Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13) Ngài không bao giờ “chợp mắt ngủ quên” hoặc nỡ lòng để chúng ta lâm vào ngõ cụt, bởi vì bản chất của Ngài là tình yêu, (1 Ga 4:8 và 16) mà tình yêu thì bất diệt.
Chúa Giêsu là Để Nhất Thiên Vương, nhưng là Đệ Nhất Hàn Vương: SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, CHẾT trên đồi hoang. Ngài là Vua mà cuộc sống như vậy, chúng ta không thể sống khác nếu muốn đi theo Ngài.
Ngài là Vua của người sống chứ không là Vua của kẻ chết. Thật vậy, dù Ngài bị người ta ghen ghét đến nỗi giết Ngài, nhưng Ngài đã từ cõi chết sống lại, và cai trị cả Tử Thần. (x. 1 Cr 15:25) Thánh Phaolô cho biết chi tiết: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha.” (1 Cr 15:20-24)
Chúa Giêsu đã đau khổ tột cùng nên hoàn toàn hợp lý khi Ngài có toàn quyền: “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Mà khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô.” (1 Cr 15:25-27) Đức Kitô là Chúa Con, Ngôi Hai Thiên Chúa, mà Chúa Cha với Chúa Con chỉ là MỘT: “Lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.” (1 Cr 15:28)
Thời quân chủ, vua cho sống thì được sống, vua bảo chết thì phải chết, cái chết đó được coi là trung thành. Có những trung thần đã dám xin được chết để minh chứng lòng trung thành với vua. Người ta không được phép nhìn mặt vua và phải tránh những chữ có “liên quan” nhà vua, phải đọc “trại” đi (trường – tràng, sinh – sanh, bảo – bửu,...), thậm chí muốn tâu bẩm cũng phải tránh né: “Muôn tâu bệ hạ!” – tức là tâu cái bệ rồng của vua ngồi mà thôi. Ôi, cái ghế vua ngồi còn đáng giá hơn thần dân. Nhưng với Vua Giêsu thì không sợ “phạm húy,” cứ thân thưa thẳng thắn: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con! Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài.”
ĐỨC VUA CÔNG MINH CHÍNH TRỰC
Thiên Chúa “xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người, và xét xử muôn dân theo lẽ công bình.” (Tv 96:13 và Tv 98:9)
Trình thuật Mt 25:31-46 nói về thời điểm Vua Kitô xét xử nhân loại. Về cuộc phán xét chung, Chúa Giêsu dùng hình ảnh thực tế: Chiên và Dê. Hình ảnh gần gũi với đời sống. Chiên là loài động vật hiền, mỗi lần bị xén lông rất đau nhưng nó không hề kêu hoặc phản ứng và có hình dáng “bắt mắt,” còn dê là loài động vật có thể phản ứng dữ dội và có hình dáng “khó nhìn.” Chiên là người lành, dê là kẻ dữ. Rất dễ hiểu.
Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha và chịu chết để cứu độ nhân loại, thế nên Ngài có quyền phân xử, nhưng hoàn toàn công minh chính trực. Khi Ngài đến thế gian lần thứ hai có các thiên sứ theo hầu, và Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Ngài tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê. Ngài cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Thiên Vương Giêsu nói với những người ở bên phải: “Nào những người được Cha Tôi chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho quý vị ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã cho ăn; Tôi khát, quý vị đã cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã cho mặc; Tôi đau yếu, quý vị đã thăm viếng; Tôi ngồi tù, quý vị đã đến hỏi han.” (Mt 25:34-37)
Nghe Vua Kitô nói vậy, họ ngạc nhiên vì họ chưa hề thấy Chúa gặp hoạn nạn mà giúp đỡ, nhưng Chúa Giêsu xác định: “Mỗi lần quý vị làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Tôi, là quý vị đã làm cho chính Tôi vậy.” (Mt 25:41) Thật lạ lùng quá chừng!
Tương tự, Đức Vua nói với những người ở bên trái những điều như đã nói với những người bên phải, chỉ khác chữ KHÔNG. (Mt 25:42-44) Và họ cũng ngạc nhiên và phân bua, nhưng Ngài nói thẳng: “Mỗi lần quý vị KHÔNG làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là quý vị đã KHÔNG làm cho chính Tôi vậy.” (Mt 25:46) Hết lý lẽ để biện minh, họ đành lủi thủi ra đi để chịu cực hình muôn kiếp. Đó là công bình: Tốt được thưởng, xấu bị phạt. Có điều lạ là không thấy Chúa đề cập tội này hay tội nọ, Ngài chỉ thẩm vấn HAI điều: Sử dụng vốn sống thế nào để sinh lời, (Mt 25:14-30) và thực hành đức ái. (Mt 25:31-46)
Đức Vua không thiên vị ai, không thể lấy cớ mình là “ông này” hay “bà nọ” để được ưu tiên. Có lẽ chúng ta nghe nhiều và nhàm tai, rồi cứ tưởng Chúa vui tính, thích đùa dai. Số phận thành Sôđôma và Gômôra bị thiêu rụi đã quá hiển nhiên, rồi hằng năm có nhiều vụ “thiên tai” nhưng người ta vẫn “bình chân như vại,” thích những “sự lạ” chứ không muốn hiểu “triệu chứng” của một căn bệnh trầm kha bất trị. Thiên tai hay nhân tai? Việt Nam cũng không loại trừ. Người ta cứng lòng, tự mãn, hay giả mù sa mưa?
Thực sự không hề dễ để có thể nhận ra Chúa nơi người khác, nhưng đó là điều Chúa Giêsu đề cao: Mỗi lần chúng ta giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện cho người khác,… đó là chúng ta làm cho chính Thiên Chúa. Người khác là tha nhân, là bất kỳ ai, dù không quen biết, thậm chí là kẻ thù. Thật tuyệt vời với cách suy luận của đại văn hào Victor Hugo: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã cho Thượng đế vay.”
Yêu thương là xót thương, Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta đến cùng, (Ga 13:1) Ngài không phạt nhãn tiền vì Ngài nhẫn nại chờ chúng ta sám hối, đợi chúng ta tín thác vào Lòng Thương Xót vô biên và sâu thẳm của Ngài, điển hình là qua Bí tích Hòa giải và Thánh Thể. Không được tha thứ là tại chúng ta cố chấp mà thôi. Alfred Mortier nói: “Mọi người đều nói đến quyền lợi, không mấy ai nói đến bổn phận.” Thật vậy, chúng ta van xin Chúa ban “miễn phí” cho chúng ta đủ điều, nhưng lại không muốn hy sinh, chỉ muốn tránh né “cái khó” càng nhiều càng tốt. Như vậy thì chúng ta không công bằng với Chúa, cũng có nghĩa là chúng ta bất công với Ngài.
Chúa Giêsu là Vua các vua nhưng không được tiền hô hậu ủng, không xa giá, chỉ một lần duy nhất được tung hô vạn tuế khi Ngài cưỡi lừa vào thành Giêrusalem trước dịp lễ Quá Hải (Vượt Qua), thế nhưng chỉ vài ngày sau là họ lật mặt mau hơn trở bàn tay: “Đóng đinh nó vào Thập Giá.” (Mt 27:22-23; Mc 15:13-14; Lc 23:21; Ga 19:6; Ga 19:15) Quả thật, chúng ta cũng chẳng hơn gì dân xưa.
Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng, suốt ba năm hoạt động công khai, hằng ngày Ngài đích thân rong ruổi khắp mọi nẻo đường, đến tận các hang cùng ngõ hẻm để giáo huấn và chia sẻ nỗi đau khổ của những người nghèo khổ nhất, đặc biệt là Ngài luôn tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của mọi người. Là Vua với đầy quyền lực trong tay, nhưng Ngài đã thực hiện đúng như đã nói: “Ai làm lớn phải phục vụ.” (Mt 20:24-28; Mc 10:40-45) Ngài không cậy quyền, không ỷ thế, nói và làm gì cũng dựa trên nền tảng yêu thương, ngôn hành luôn song song, thậm chí Ngài còn làm nhiều hơn nói. Thật diễm phúc khi chúng ta là thần dân của Vua Kitô Giêsu!
Lạy Đức Vua Kitô Giêsu, xin tỏ cho con thấy tình thương của Ngài và ban ơn cứu độ cho con. (Tv 85:8) Xin Ngài nhớ đến con bởi lòng thương dân Ngài, xin ngự đến viếng thăm mà ban ơn cứu độ. (Tv 106:4) Xin Ngài đứng dậy mà xét xử địa cầu, vì chính Ngài làm chủ muôn dân. (Tv 82:8) Xin thương tha thứ, nâng đỡ, che chở, độ trì, soi sáng và hướng dẫn con trong Chân Lý và Tình Yêu cao cả. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, hằng sinh, đồng hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.


TRẦM THIÊN THU 2020

 

ĐIỂM KẾT THÚC GẦN KỀ
Một số người cho rằng chúng ta đang sống trong thời kỳ cuối cùng như đã được tiên báo trong sách Khải huyền.
Năm 1978, Thánh GH Gioan Phaolô II gợi ý: “Bây giờ chúng ta đang phải đối mặt với cuộc đối đầu cuối cùng giữa Giáo Hội và những kẻ chống Giáo Hội, giữa Tin Mừng và phản Tin Mừng. Cuộc đối đầu này nằm trong kế hoạch của Chúa Quan Phòng; đó là một thử thách mà toàn thể Giáo Hội, đặc biệt là Giáo Hội Ba Lan, phải gánh chịu. Đây là một thử thách không chỉ đối với quốc gia và Giáo Hội, mà theo một nghĩa nào đó, là một thử thách của 2.000 năm văn hóa và văn minh Kitô giáo với tất cả các hậu quả của nó đối với nhân phẩm, quyền cá nhân, quyền con người và quyền của các quốc gia.”
Nhưng các dấu hiệu cứ trêu ngươi chúng ta và có vẻ cứ đến rồi đi. Thật may, đế chế Liên Sô sụp đổ, Ba Lan và các quốc gia bị giam cầm khác đã được giải thoát, và chúng ta mong đợi sẽ sống hạnh phúc mãi mãi. Sự khải huyền đã ngăn chặn. Không quá nhanh chóng.
Trong khi nhiều người trong chúng ta ngủ nghỉ thoải mái, xã hội tiêu dùng của chúng ta áp dụng phần lớn cách tiếp cận của cộng sản. Nhiều người Mỹ nhìn vào lịch sử với sự khinh miệt theo chủ nghĩa Mác, thay vì cố gắng học hỏi từ lịch sử. Các trường đại học của chúng ta trở thành trại cải tạo của chủ nghĩa Mác một cách hiệu quả. Các trường công lập của chúng ta đang quảng bá “quyền phá thai,” toàn bộ chương trình nghị sự của LGBTQ [Lesbian – Đồng tính nữ, Gay – Đồng tính nam, Bisexual – Lưỡng tính, Transgender – Chuyển giới, Queer – Đa dạng tính dục (không xác định dị tính hay chuẩn giới)], và kỳ thị những người bất đồng chính kiến khỏi giáo điều thế tục. (Hãy hỏi bất kỳ bậc cha mẹ nào không muốn con mình tham gia các chương trình về “đời sống gia đình”.) Vì vậy, không lạ gì tại sao chúng ta ngày càng bầu chọn các ứng cử viên chính trị không tin có Chúa, những người cổ vũ quan điểm đạo đức quái dị và theo chủ nghĩa xã hội. Đó không phải là nền kinh tế, thật ngu ngốc. Đó là văn hóa của chúng ta, và là sự uể oải của chúng ta.
Tuy nhiên, thời gian của chúng ta ngắn hơn ngày hôm qua, vì vậy chúng ta cần có kế hoạch:
1. Tái Khám Phá Bí Tích Hòa Giải
Nhiều năm trước, trong một buổi diễn tập đám cưới, tôi đã chỉ ra rằng sẽ có nhiều thời gian cho những bức hình sau đám cưới; sau đó tôi đi giải tội theo lịch hẹn thường xuyên. Mẹ của cô dâu vô cùng tức giận và yêu cầu: “Cha đã lên lịch giải tội vào đúng ngày này?!” Tôi nói: “Vâng, thưa bà, chúng tôi lên lịch giải tội vào thứ Bảy hằng tuần.” Bà nói: “Nhưng đây là ngày cưới của con gái con, chuyện chỉ có một lần trong đời!” Câu trả lời của tôi là tự phát, thiếu sáng suốt – nhưng chắc chắn là đúng: “Thưa bà, đối với một số người, xưng tội cũng là chuyện chỉ có một lần trong đời.” Đã quá muộn để mong quyên góp đám cưới cho giáo xứ, nhưng cũng chưa muộn để chúng ta trở về với Bí tích Hòa Giải.
2. Cầu Nguyện Và Các Bí tích Phải Nâng Đỡ Và Hướng Dẫn Chúng Ta, Chứ Không Ngược Lại
Chúng ta phải cầu nguyện theo điều kiện của Chúa, chứ không theo điều kiện của chúng ta. Có một truyện vui cười cho thấy chúng ta có thể lạm dụng lời cầu nguyện như thế nào: Sau khi đột nhập, tên trộm đang tìm kiếm trong bóng tối thì có một giọng nói nhỏ khiến anh ta lo lắng: “Chúa Giêsu đang theo dõi bạn.” Giọng nói của một con vẹt. Cảm thấy nhẹ nhõm, tên trộm hỏi con vẹt: “Tên mày là gì?” Con vẹt trả lời: “Môsê.” Tên trộm nhếch mép: “Loại người ngớ ngẩn nào lại đặt tên cho con vẹt là Môsê thế nhỉ?” Con vẹt nói: “Cũng chính những người đó đặt tên cho chó sục Pit Bull là Giêsu đấy.”
Nhiều người trong chúng ta mong đợi Chúa Giêsu là Pit Bull của chúng ta, thực hiện các chỉ thị cầu nguyện một cách nghiêm túc. Nhưng chúng ta không gửi cho Chúa Giêsu trong lời cầu nguyện. Ngài sai chúng ta đi làm việc tông đồ và ban ân sủng cho để chúng ta hoàn thành công việc của Ngài: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:18-20)
3. Hãy Bận Rộn Với Công Việc Của Chúa
Phẩm giá mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta trong ngày Lễ Ngũ Tuần biến đổi lời cầu nguyện của chúng ta theo cách hoàn toàn mới. Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức kết hợp chúng ta vào Nhiệm Thể Chúa Kitô. Sự kết hợp bí tích với Chúa Giêsu giải thích nhận xét lạ lùng này của Thánh Athanasiô: “Vì Con Thiên Chúa đã trở thành người để chúng ta có thể trở thành Thiên Chúa.” Sau Lễ Ngũ Tuần, Thiên Chúa chiến đấu vì chúng ta qua chúng ta. Khi cầu xin Chúa giúp về sự bền bỉ và chiến thắng cuối cùng, chúng ta cầu xin có những ân sủng để củng cố chúng ta và người khác trong nhiệm vụ Kitô giáo. Thiên Chúa dùng chúng ta như khí cụ thánh của Ngài. Vì vậy, hãy chú ý đến nhiều cơ hội để loan truyền Chúa Giêsu.
4. Không Thể Tránh Nên Hãy Làm Quen Với Thập Giá
Trong ngày đầu tiên của Trận Shiloh năm 1862, quân liên bang mất hơn 13.000 người, và quân liên minh mất hơn 10.000 người. Đêm sau cuộc tàn sát, Tướng Sherman đã sẵn sàng từ bỏ: “Này, Grant, chúng ta đã có ngày khủng khiếp, phải không?” Grant kiên quyết trả lời: “Đúng, hãy đánh chúng vào ngày mai.”
Câu trả lời của Grant là một ví dụ rõ ràng cho tinh thần chiến đấu lành mạnh của Kitô hữu. Các Kitô hữu sẽ luôn có kẻ thù bởi vì Chúa Giêsu đã nói: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước.” (Ga 15:18) Vì vậy, với ơn Chúa, chúng ta vác thập giá của mình, đi theo Ngài, đôi khi chịu đánh đập, và chúng ta tiếp tục chiến đấu như khi cụ thánh của Ngài, quyết tâm với tư cách là Kitô hữu rằng “chúng ta không sợ những kẻ giết chết thể xác nhưng không thể giết chết linh hồn.” (x. Mt 10:28)
Có phải chúng ta đang sống trong thời kỳ cuối cùng? Tốt hơn thì hãy hỏi thế này: Tôi đã sẵn sàng cho thời điểm cuối cùng mà mỗi chúng ta chắc chắn sẽ phải đối mặt hay chưa? Lần xưng tội cuối cùng của tôi là khi nào? Tôi có đang ở trong tình trạng ân sủng? Tôi có cầu xin sức mạnh của ơn Chúa? Tôi có đang chiến đấu trong cuộc chiến tốt đẹp vì Phúc Âm?
Những trận chiến xứng đáng đối với Kitô hữu là gì? Bảo vệ con cái chúng ta khỏi chương trình Giáo dục Đời sống Gia đình của Trường học bị lạm dụng? Phản đối lời hứa phá thai độc hại của Joe Biden? Đối đầu với sự bê bối gian lận cử tri rõ ràng hay thực sự? Chúa Nhật XXXIII thường niên, năm A, bài Tin Mừng là trình thuật Mt 25:14-30, nói về dụ ngôn về các nén bạc – nén tài năng. Chúng ta có những nén nào để phục vụ Chúa? Hãy rõ ràng và dứt khoát!
LM JERRY POKORSKY
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ CatholicCulture.org)
Đêm Thứ Sáu, 13-11-2020

VUA TÌNH YÊU
(Chúa Nhật XXXIV TN, năm A – Lễ Chúa Kitô Vua 2014)

Xã hội trần gian được phân chia thành năm châu lục, mỗi châu lục gồm nhiều quốc gia. Mỗi quốc gia có một vị đứng đầu với quyền tối thượng, gọi là nguyên thủ quốc gia. Tùy thời mà người ta gọi vị đó bằng các danh từ khác nhau: Chúa Thượng, Hoàng Thượng, Hoàng Đế, Vua, Nữ Hoàng, Quốc Vương, Quốc Trưởng, Tổng Thống,... Các nước cộng sản gọi vị đó là Chủ Tịch Nước. Riêng Công giáo gọi vị đó là Giáo hoàng.

Quan nhất thời, dân vạn đại. Nguyên thủ quốc gia cũng chỉ tạm thời chứ không vĩnh viễn, kể cả quyền lực, chỉ có Thiên Chúa là vĩnh viễn, thường tồn, bất biến, và có quyền tối thượng, kể cả “quyền ném vào hoả ngục” (Lc 12:5). Khi bị thế lực trần gian áp chế, Chúa Giêsu vẫn thẳng thắn nói với Philatô là người có toàn quyền trong tay: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19:11).

Trong Hán tự, chữ 王 [wáng] là vương (vua). Ba “gạch ngang” tượng trưng cho Thiên – Nhân – Địa, và được nối kết bằng một “gạch đứng”, ý nói “vua là người nối kết trời, đất và con người”. Hán tự thâm thúy quá!

Vua trần gian còn như vậy, huống chi Vua Kitô. Vâng, Chúa Giêsu là Đệ Nhất Thiên Vương, Vua các vua và Chúa các chúa, thế nhưng Ngài lại hạ mình đến tận cùng vì yêu thương các thần dân. Thật lạ, vì Ngài là Vua-đa-không, hoàn toàn trái ngược với các vua chúa trần gian: KHÔNG ngai, KHÔNG đăng quang, KHÔNG vương miện, KHÔNG vương trượng, KHÔNG long bào, KHÔNG quần thần, KHÔNG dinh thự, KHÔNG văn phòng làm việc, KHÔNG nghi thức, KHÔNG thiết triều,... Thậm chí Ngài còn SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang. Tại sao vậy? Chính Chúa Giêsu đã xác định với Tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36). Tuy nhiên, Ngài lại có quyền tối thượng: “Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử. Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người” (Ga 5:22, 26-27).

VUA NHÂN LÀNH

Vua chúa trần gian là Thiên Tử, là Con Trời, hét ra lửa, có quyền sinh sát trong tay: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Khủng khiếp quá! Còn Chúa Giêsu khác hẳn, khi Philatô hỏi Ngài có phải là vua không, Ngài trả lời: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Vua Giêsu luôn chạnh lòng thương, luôn động lòng trắc ẩn, giàu lòng thương xót, đến thế gian để cứu những gì đã mất, và Ngài đưa ra lời khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29). Là Thiên Vương nhưng Vua Kitô Giêsu lại là Vua Nhân Lành, là Mục Tử Nhân Hậu, là Người Cha từ tâm, là Quan Tòa nhân ái.

Quả thật, Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt” (Ed 34:11-12). Khi chúng ta tưởng mình cô đơn thì Ngài đang ở bên chúng ta. Khi cuộc đời chúng ta êm trôi, Ngài đồng hành với chúng ta; khi cuộc đời chúng ta như lâm vào ngõ cụt, Ngài không chỉ đồng hành mà Ngài còn vác chúng ta trên vai để chúng ta được an toàn. Thực sự là vậy, nhưng vì phàm nhân yếu đuối, thế nên chúng ta đã từng có những lúc bị dao động, chao đảo!

Thiên Chúa đã nói rất rạch ròi: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng. Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê” (Ed 34:15-17). Ngài không “bỏ qua” bất cứ ai, người nào càng bất hạnh càng được Ngài thương xót nhiều. Thật vậy, Ngài không so đo hơn thua, chấp nhận bỏ lại 99 con chiên béo tốt để rong ruổi tìm cho được MỘT con chiên xấu xí, ốm yếu, hôi tanh (x. Mt 18:12-14; Lc 15:4-7).

Trong số các vua chúa trần gian, có mấy người đích thân vi hành để biết dân tình ra sao? Mấy ai được như Hoàng đế Khang Hi (Kangxi, 1654-1722) đời nhà Thanh của Trung Hoa? Ông là vị vua thật tốt lành, thương dân suốt hơn 60 năm trị quốc. Có bao giờ Tổng thống đến khu dân cư nghèo để thấy sinh hoạt cực khổ của người dân? Đến nơi nào thì chỉ ở “trung tâm” rồi tiệc tùng, và nghe “báo cáo”, liệu có bao nhiêu phần trăm trung thực? Bởi vậy, người dân mới thở dài rồi nói: “Ôi dào! Làm láo, báo cáo hay!”.

Ở cấp thấp hơn cũng chẳng khá hơn, tỉnh trưởng hoặc quận trưởng, trong số đó có bao nhiêu người thật lòng muốn biết nỗi niềm của người dân? Rồi giám mục hoặc linh mục, trong số đó có bao nhiêu người tận tình đến thăm giáo dân để hiểu được nỗi lòng của họ, cả đời thường lẫn tâm linh? Có chức nên có quyền, đủ lý lẽ biện hộ, khó mà thản nhiên trả lời ngay. ĐGH Phanxicô cũng thường thẳng thắn dám nói tới những điều “nhạy bén” tương tự như vậy, chắc hẳn nhiều người cũng cảm thấy “dị ứng” lắm!

Thật ấn tượng với Đức cố Giám mục Jean Cassaigne (1895-1973), gọi thân thương là Cha Sanh, nhà truyền giáo của dân tộc Kơ Ho, chết vì lây bệnh cùi tại Trại Phong Di Linh, được mệnh danh là Tông Đồ Người Cùi. Khi còn là Giám mục GP Saigon, ngài thường dùng chiếc xe vespa cọc cạch đi thăm dân chúng vùng Chợ Lớn. Một người Pháp mà quên mình, dấn thân và hòa nhập với người Việt Nam, đặc biệt là những người dân tộc và các bệnh nhân phong cùi. Không yêu thương làm sao sống được vậy? Đó là phong cách của thánh nhân!

Biết nhiều, khổ nhiều; thấy nhiều, chán nhiều, nghe nhiều, “nóng gáy” nhiều. Làm ngơ thì người ta nói mình “sợ”, nói ra thì người ta “không ưa”. Thẳng thắn sẽ “va chạm”, chỉ khổ mình, nhưng không thể làm ngơ, ai nhát đảm thì dễ “vào hùa” lắm. May mà có Chúa là Bến Yêu Thương cho chúng ta trú ẩn. Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ cảm nghiệm tâm linh: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3). Ước gì mỗi chúng ta đều khả dĩ trải nghiệm đức tin tuyệt vời như vậy!

Đức tin phải được tôi luyện trong nhiều nỗi gian truân hoặc đoạn trường thì mới có thể dần dần trở nên “tinh ròng”, và lúc đó chúng ta mới có thể xác tín: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa” (Tv 23:4-5). Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ thêm: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:6). Hạnh phúc quá! Nhưng hạnh phúc đó không thể cứ sống tà tà mà có được. Vâng, Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13), Ngài không bao giờ “chợp mắt ngủ quên” hoặc nỡ lòng để mặc chúng ta lâm vào ngõ cụt. Tại sao? Vì bản chất của Ngài là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), mà tình yêu là bất tử.

VUA HẰNG SINH

Như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu là Vua, nhưng là Đệ Nhất Hàn Vương: SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang. Ngài là Vua mà cuộc sống như vậy, làm sao chúng ta có thể sống khác?

Chúa Giêsu là Vua của người sống chứ không là Vua của kẻ chết. Thật vậy, dù Ngài bị người ta ghen ghét “tới bến” và đã giết Ngài chết thê thảm, nhưng Ngài đã từ cõi chết sống lại, cai trị cả Tử thần (x. 1 Cr 15:25), và trở thành Vua Hằng Sinh. Thánh Phaolô nói chi tiết: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:20-24).

Chúa Giêsu đã đau khổ tột cùng nên Ngài có toàn quyền. Thánh Phaolô cho biết: “Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Mà khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô” (1 Cr 15:25-27). Đức Kitô là chính Chúa Con, Ngôi Hai Thiên Chúa, mà Chúa Cha với Chúa Con chỉ là MỘT mà thôi: “Lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15:28).

Thời quân chủ, vua cho sống thì được sống, vua bảo chết thì phải chết, không muốn cũng phải tuân lệnh. Cái chết đó được coi là trung thành. Có những trung thần đã dám xin được chết để minh chứng lòng trung thành với vua. Người ta không được phép nhìn mặt vua và phải tránh những chữ có “liên quan” nhà vua, phải đọc “trại” đi (trường – tràng, sinh – sanh,...), thậm chí muốn tâu bẩm cũng không được tâu thẳng với vua: “Muôn tâu bệ hạ” – tức là tâu cái bệ rồng của vua ngồi mà thôi. Ui da! Cái ghế vua ngồi còn đáng giá hơn thần dân. Nhưng với Vua Giêsu, không sợ “phạm húy”, cứ thưa thẳng: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con! Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài”.

Chúa Giêsu là Vua nhưng Ngài không hề được tiền hô hậu ủng, không hề xa giá, chỉ một lần duy nhất được tung hô vạn tuế khi Ngài cưỡi lừa vào thành Giêrusalem trước dịp Lễ Quá Hải (Vượt Qua), thế nhưng chỉ vài ngày sau là họ lật mặt nhanh hơn trở bàn tay: “Đóng đinh nó vào Thập Giá” (Mt 27:22-23; Mc 15:13-14; Lc 23:21; Ga 19:6; Ga 19:15). Lạy Chúa tôi! Chúng ta cũng chẳng hơn gì đâu!

Suốt những năm hoạt động mục vụ, hàng ngày Ngài đích thân rong ruổi khắp mọi nẻo đường, đến tận các hang cùng ngõ hẻm để giáo huấn và chia sẻ nỗi đau khổ của những người cùng đinh nhất, đặc biệt là Ngài luôn tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của bất kỳ ai. Là vua, trong tay đầy quyền lực, nhưng Ngài đã thực hiện đúng như lời Ngài nói: “Ai làm lớn phải phục vụ” (Mt 20:24-28; Mc 10:40-45). Ngài không cậy quyền, không ỷ thế, nói và làm gì cũng dựa trên nền tảng yêu thương, ngôn hành luôn song song, thậm chí Ngài còn làm nhiều hơn nói. Ngài không chỉ là Vua Nhân Lành, Vua Hằng Sinh, Vua Tình Yêu, Vua Lòng Thương Xót, mà Ngài còn là Vua Công Bình. Vô cùng may mắn khi chúng ta là thần dân của Vị Vua này!

VUA CÔNG BÌNH

Phụng vụ lễ Chúa Kitô Vua năm A dùng trình thuật Mt 25:31-46 nói về ngày Chúa quang lâm xét xử nhân loại. Chúa Giêsu dùng hình ảnh thực tế, dễ hiểu và gần gũi: Chiên và Dê. Chiên là loài động vật hiền, mỗi lần bị xén lông rất đau nhưng nó không hề kêu hoặc phản ứng và có hình dáng “dễ thương”; dê là loài động vật có thể phản ứng dữ dội và có hình dáng “không bắt mắt”. Chiên là người lành, dê là kẻ dữ.

Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha và chịu chết để cứu độ nhân loại, thế nên Ngài có quyền phân xử, nhưng hoàn toàn công minh chính trực. Khi Ngài đến thế gian lần thứ hai có các thiên sứ theo hầu, và Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Ngài tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê. Ngài cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Thiên Vương Giêsu nói với những người ở bên phải: “Nào những người được Cha Tôi chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho quý vị ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã cho ăn; Tôi khát, quý vị đã cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã cho mặc; Tôi đau yếu, quý vị đã thăm viếng; Tôi ngồi tù, quý vị đã đến hỏi han” (Mt 25:34-37).

Họ ngạc nhiên họ chưa một lần thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, là khách lạ mà tiếp rước, trần truồng mà cho mặc, đau yếu hoặc ngồi tù mà thăm viếng giúp đợ. Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Mỗi lần quý vị làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Tôi, là quý vị đã làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:41).

Rồi Đức Vua nói với những người ở bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia, đi cho khuất mắt Tôi mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã không cho ăn; Tôi khát, quý vị đã không cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã không tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã không cho mặc; Tôi đau yếu và ngồi tù, quý vị đã chẳng thăm viếng” (Mt 25:42-44).

Họ cũng ngạc nhiên và phân bua, nhưng Ngài nói thẳng: “Mỗi lần quý vị không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là quý vị đã không làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:46). Hết cách phân minh, họ đành lủi thủi ra đi để chịu cực hình muôn kiếp. Đó là công bình: Tốt được thưởng, xấu bị phạt. Có điều lạ là không thấy Chúa đề cập tội này hay tội nọ, Ngài chỉ thẩm vấn HAI điều: Sử dụng vốn sống thế nào để sinh lời (Mt 25:14-30), và thực hành đức ái (Mt 25:31-46).

Ngài không thiên vị ai, không thể lấy cớ mình là “ông này” hoặc “bà nọ” để mong được “ưu tiên”. Có lẽ chúng ta nghe nhiều hóa nhàm tai, rồi cứ tưởng Chúa “vui tính”, thích đùa dai. Số phận thành Sôđôma và Gômôra bị thiêu rụi đã quá hiển nhiên, rồi hằng năm có nhiều vụ “thiên tai” nhưng người ta vẫn “bình chân như vại”, thích những “sự lạ” chứ không muốn hiểu “triệu chứng” của một căn bệnh trầm kha bất trị. Thiên tai hay nhân tai? Việt Nam cũng không ngoài danh sách. Cứng lòng hay tự mãn?

Nhìn thấy Chúa trong người khác là điều không dễ, nhưng đó là điều Chúa Giêsu đề cao: Mỗi lần chúng ta giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện cho người khác,… đó là chúng ta làm cho chính Thiên Chúa. Người khác là tha nhân, là bất kỳ ai, dù không quen biết, thậm chí là kẻ thù. Thật tuyệt vời với cách suy luận của đại văn hào Victor Hugo: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã cho Thượng đế vay”.

Lòng thương xót cũng chính là tình yêu thương, Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13:1), Ngài không phạt nhãn tiền vì Ngài nhẫn nại chờ đợi chúng ta sám hối, đợi chúng ta tín thác vào Lòng Thương Xót vô biên và sâu thẳm của Ngài, điển hình là đến với Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể. Không được tha thứ là tại chúng ta quá cố chấp mà thôi! Alfred Mortier nói: “Mọi người đều nói đến quyền lợi, không mấy ai nói đến bổn phận”. Thật vậy, chúng ta van xin Chúa ban “miễn phí” cho chúng ta đủ điều, nhưng lại không muốn hy sinh, chỉ muốn tránh né “cái khó” càng nhiều càng tốt. Vậy là chúng ta không công bằng với Chúa đấy!

Lạy Thiên Vương Giêsu Kitô, xin thương tha thứ, nâng đỡ, che chở, độ trì, soi sáng và hướng dẫn chúng con trong Cung Đường Tình Yêu cao cả và tuyệt đối của Thiên Chúa. Ngài là Đấng Cứu Độ hằng sinh, đồng hiển trị cùng Thiên Chúa Chúa, hiệp nhất với Thiên Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

TRẦM THIÊN THU

November 18, 2014

 

VUA LÒNG THƯƠNG XÓT
(Lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ – CN XXXIV TN/A – Mt 25:31-46)

Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ được Giáo hội mừng kính tước hiệu Chúa Kitô Vua – Vua các vua và Chúa các chúa.

Vua Lòng Thương Xót

Thời quân chủ, vua là người có quyền tối thượng: Quân xử, thần bất tử, bất trung. Không muốn cũng phải tuân lệnh, dù phải chết. Và người ta hiểu trung thần là dám chết để minh chứng lòng trung thành với vua. Với vua, người ta không được phép nhìn mặt và phải tránh những chữ có “liên quan” nhà vua, thậm chí muốn tâu bẩm cũng không được tâu thẳng với vua: “Muôn tâu bệ hạ” – tức là tâu cái bệ rồng của vua ngồi. Như vậy, cái ghế vua ngồi còn đáng giá hơn thần dân. Nhưng khi Philatô hỏi Chúa Giêsu có phải là vua hay không, Ngài đã trả lời ngay: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36), và Ngài cho phép chúng ta “phạm húy”, dùng ngay tên Ngài mà không cần tránh né: “Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài”.

Chúa Giêsu là Thiên Vương, là Vua vũ trụ, nhưng cũng là “vua nghèo” nhất. Tại sao? Một vị Thiên hoàng mà sinh ra ở nơi bần cùng nhất là một hang chiên lừa hôi tanh. Chắc hẳn không ai nghèo bằng Ngài.

Không chỉ vậy, Ngài còn là vị vua không tiền hô hậu ủng, không xa giá, chỉ một lần duy nhất Ngài cưỡi lừa vào thành Giêrusalem. Còn ngoài ra, suốt 3 năm hoạt động mục vụ, hàng ngày Ngài đích thân rong ruổi khắp mọi đường xa, đến tận các hang cùng ngõ hẻm để giáo huấn và chia sẻ nỗi đau khổ của mọi người cùng đinh nhất, Ngài luôn tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của bất kỳ ai. Là vua, trong tay đầy quyền lực, nhưng Ngài đã làm gương đúng như lời Ngài dạy: “Ai làm lớn phải phục vụ” (Mt 20:24-28; Mc 10:40-45). Ngài không cậy quyền, ỷ thế, không có ngai vàng, nói và làm gì cũng dựa trên nền tảng yêu thương, luôn ngôn hành song song. Quả thật, Ngài là Vua Lòng Thương Xót. Bạn đã may mắn thấy vị nguyên thủ quốc gia nào hoặc chủ chăn nào thực hiện như “vua nghèo” Giêsu chưa? Nếu bạn đã thấy, bạn thật hạnh phúc!

Vua Công Bình

Phụng vụ lễ Chúa Kitô Vua năm A dùng đoạn Phúc âm Mt 25:31-46 nói về ngày Chúa quang lâm xét xử nhân loài. Chúa Giêsu dùng hình ảnh thực tế, dễ hiểu và gần gũi: Chiên và Dê. Chiên là loài động vật hiền, mỗi lần bị xén lông rất đau nhưng nó không hề kêu hoặc phản ứng và có hình dáng “dễ thương”; dê là loài động vật có thể phản ứng dữ dội và có hình dáng “không bắt mắt”. Chiên là biểu tượng của người lành, dê là biểu tượng của người dữ.

Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha và chịu chết để cứu độ nhân loại, thế nên Ngài có quyền phân xử công minh. Ngài đến trong vinh quang, có các thiên sứ theo hầu, và Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Ngài tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê. Ngài cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Thiên Vương Giêsu ôn tồn nói với những người ở bên phải: “Nào những người được Cha Tôi chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho quý vị ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã cho ăn; Tôi khát, quý vị đã cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã cho mặc; Tôi đau yếu, quý vị đã thăm viếng; Tôi ngồi tù, quý vị đã đến hỏi han” (Mt 25:34-37).

Bấy giờ những người công chính ngạc nhiên và khiêm nhường thân thưa: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?” (Mt 25:38-40). Chúa Giêsu xác định: “Mỗi lần quý vị làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Tôi, là quý vị đã làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:41).

Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi cho khuất mắt Tôi mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã không cho ăn; Tôi khát, quý vị đã không cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã không tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã không cho mặc; Tôi đau yếu và ngồi tù, quý vị đã chẳng thăm viếng” (Mt 25:42-44).

Bấy giờ những người ấy cũng sẽ phân bua là không hề thấy Chúa đói, khát, là khách lạ, trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà họ lại đành lòng không phục vụ Chúa (Mt 25:45). Nhưng Ngài xác định: “Mỗi lần quý vị không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là quý vị đã không làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:46). Họ “bó tay”, không tự biện hộ được gì, “mắt chữ O và miệng chữ A”, đành cúi đầu ra đi để chịu cực hình muôn kiếp. Còn những người công chính thì vui sướng bước vào sự sống muôn đời. Mỗi người “xứng đáng” với cách sống của mình: Tốt được thưởng, xấu bị phạt.

Chúa không hỏi gì về những tội này hay tội kia, mà Chúa thẩm vấn 2 điều: Sử dụng vốn sống thế nào để sinh lời (Mt 25:14-30), và thực hành đức ái (Mt 25:31-46).

Ngài hoàn toàn công minh và chính trực, không thiên vị ai – chứ đừng nghĩ mình là “ông này, bà nọ” mà được “ưu tiên”. Vả lại Chúa đã nhiều lần cảnh báo, chứ Ngài không hề hứng chí làm sảng mà không báo trước. Có lẽ chúng ta nghe nhiều hóa nhàm tai, rồi cứ tưởng Chúa “vui tính”, thích đùa dai. Nước đến chân nhảy cũng không kịp. Số phận thành Sôđôma và Gômôra bị thiêu rụi đã quá hiển nhiên, rồi mới đây, ngày 11-3-2011, Sóng thần đã là “điểm đen” gây kinh hoàng ở Nhật Bản, và hiện nay Thái Lan cũng đang “nhức đầu” vì lụt lội. Có bao nhiêu người coi những dạng như vậy là “triệu chứng” của một căn bệnh trầm kha bất trị? Thiên tai hay nhân tai?

Nhìn thấy Chúa trong người khác là điều không dễ, nhưng đó là điều kiện “ắt có và đủ”, vì Chúa Giêsu đã xác định: Mỗi lần chúng ta giúp đỡ người khác – dù chỉ một chén nước lã, yêu thương người khác, có ánh mắt thiện cảm với người khác, vui cười với người người khác, nói dễ nghe với người khác, cư xử tốt với người khác, chia sẻ vui buồn với người khác, cầu nguyện cho người khác,… đó là chúng ta làm cho chính Thiên Chúa. Người khác là bất kỳ ai, dù không quen biết, ngay cả chính kẻ thù. Ngay cả đại văn hào Victor Hugo cũng đã quả quyết: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã cho Thượng đế vay”. Nếu không làm được vậy thì chúng ta không thể tự biện hộ, vì Chúa đã “ghi âm” và “ghi hình” ngay lúc chúng ta hành xử – và “thước phim” đó sẽ trình chiếu lại khi chúng ta trình diện Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là Vua Lòng Thương Xót vì Ngài đã yêu thương chúng ta đến giọt máu cuối cùng, giọt nước cuối cùng, và hơi thở cuối cùng. Ngài luôn nhẫn nại chờ đợi chúng ta đến với Lòng Thương Xót vô biên và sâu thẳm của Ngài – tức là đến với Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể. Ngài vẫn từng giây phút âm thầm mỏi mòn chờ đợi chúng ta hồi tâm, Ngài không hề muốn phạt ai, chỉ tại chúng ta quá cố chấp!

Alfred Mortier nói: “Mọi người đều nói đến quyền lợi, không mấy ai nói đến bổn phận”. Chúng ta cũng vậy, chúng ta van nài Chúa ban “miễn phí” cho chúng ta điều này hoặc điều nọ, càng nhiều càng tốt, nhưng lại không muốn hy sinh, chỉ muốn tránh né bổn phận càng nhiều càng tốt. Thật là phi lý!

Điều Chúa yêu cầu rất đơn giản nhưng rất quan trọng và hoàn toàn có lợi cho chính chúng ta: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng toàn thiện” (Mt 5:48) và “hãy có lòng nhân từ như Cha là Đấng nhân từ” (Lc 6:36).

Lạy Thiên Vương Giêsu Kitô, xin thương xót mà gia ân cho chúng con – những thần dân vô dụng của Ngài. Nhưng chúng con luôn vững tin Ngài đang ở với chúng con, Ngài không để chúng con cô đơn (x. Ga 8:29), vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương (Tv 136). Xin che chở, phù trợ và hướng dẫn chúng con dù “mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7). Chúng con cầu xin nhân danh Thiên Vương Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU 2011

 

THẨM PHÁN NHÂN HẬU

(Chúa Nhật XXXIV TN, năm A – Lễ Chúa Kitô Vua)

Thẩm phán là người có quyền xét xử tại một phiên tòa, cũng gọi là quan tòa. Tại một số quốc gia, quyền hạn của thẩm phán được chia sẻ với bồi thẩm đoàn hoặc hội thẩm. Tòa án cũng có nhiều cấp khác nhau, cao nhất là tòa án tối cao.

Thiên Chúa Cha không xét xử ai, mà Ngài trao mọi quyền xét xử cho Thiên Chúa Con (x. Ga 5:22). Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã từng minh định với các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18). Chúa Giêsu là Vua của các vua, là Chúa của các chúa, nhưng Ngài không là Vua như người ta tưởng, bởi vì chính Ngài đã xác định với ông Philatô rằng Vương Quốc của Ngài không thuộc về thế gian này (x. Ga 18:36), tức là thuộc về Cõi Trời, nơi mà phàm nhân không hề biết, không phải như cung trăng hoặc một nơi xa lạ nào đó mà thiên văn học đã phát hiện.

Như chúng ta biết, xã hội trần gian được phân chia thành năm châu lục, mỗi châu lục gồm nhiều quốc gia. Trong mỗi quốc gia có một vị đứng đầu với quyền tối thượng, gọi là nguyên thủ quốc gia. Tùy thời mà người ta gọi vị đó bằng các danh từ khác nhau: Chúa Thượng, Hoàng Thượng, Hoàng Đế, Vua, Nữ Hoàng, Quốc Vương, Quốc Trưởng, Tổng Thống,... Các nước cộng sản gọi vị đó là Chủ Tịch. Riêng Công giáo gọi vị đó là Giáo Hoàng.

Người ta có câu: “Quan nhất thời, dân vạn đại”. Nguyên thủ quốc gia cũng chỉ tạm thời chứ không vĩnh viễn, kể cả quyền lực, chỉ có Thiên Chúa là vĩnh viễn, thường tồn, bất biến, và có quyền tối thượng, kể cả “quyền ném vào hoả ngục” (Lc 12:5; x. Mt 10:28). Khi bị thế lực trần gian áp chế, Chúa Giêsu vẫn thẳng thắn nói với Philatô là người có toàn quyền trong tay: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19:11). Quyền xét xử của Philatô chỉ trong thời điểm đó, có quyền vì còn chức, tạm thời thôi.

Xét về từ ngữ và ý nghĩa, trong Hán tự có chữ 王 [wáng], nghĩa là vương (vua). Về chiết tự, ba “gạch ngang” tượng trưng cho Thiên – Nhân – Địa, và được nối kết bằng một “gạch đứng”, ý nói “vua là người nối kết trời, đất và con người”. Ý nghĩa thật thâm sâu, và với ý nghĩa này thì vua phải là người cao thượng, thế nhưng người ta thường lạm quyền thái quá. Chỉ là vua trần gian mà còn là “mối liên kết” như vậy thì huống chi Chúa Giêsu Kitô, Thiên Vương của vũ trụ.

Gần gũi với chữ 王 (vương) là chữ 主 [Zhǔ], nghĩa là “Chủ” hoặc “Chúa”, viết giống như chữ Vương nhưng có thêm “ngọn lửa” ở trên: Chúa cũng là vua nhưng có đức độ, gần gũi với con người, đốm lửa trên đầu Ngài là ánh sáng soi sáng cuộc đời chúng ta, thúc bách chúng ta đi theo Ngài, và đó là ý nghĩa của cuộc đời chúng ta. Hán tự là chữ tượng hình mà hàm súc thâm thúy quá!

Vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, Chúa Giêsu là Đệ Nhất Thiên Vương, thế nhưng Ngài lại hạ mình đến tận cùng vì yêu thương các thần dân. Thật là quá đỗi lạ lùng, Ngài là Vua của các vua và là Chúa của các chúa nhưng lại hoàn toàn trái ngược với các vua chúa trần gian, vì Ngài là Vua-đa-không: KHÔNG ngai, KHÔNG đăng quang, KHÔNG vương miện, KHÔNG vương trượng, KHÔNG long bào, KHÔNG quần thần, KHÔNG dinh thự, KHÔNG văn phòng làm việc, KHÔNG nghi thức, KHÔNG thiết triều,... Thậm chí Ngài còn SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang. Tại sao vậy? Câu trả lời được chính Chúa Giêsu xác định với Tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36). Tuy nhiên, Ngài lại có quyền tối thượng: “Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử. Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người” (Ga 5:22, 26-27).

NHÂN HẬU và KHIÊM NHƯỜNG

Vua chúa trần gian tự nhận là Thiên Tử, là Con Trời, hét ra lửa, và có trọn quyền sinh sát: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Khủng khiếp quá! Còn Chúa Giêsu khác hẳn, khi Philatô hỏi Ngài có phải là vua không, Ngài thản nhiên trả lời: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Vua Giêsu luôn chạnh lòng thương, luôn động lòng trắc ẩn, giàu lòng thương xót, đến thế gian để cứu những gì đã mất, và Ngài đưa ra lời khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29). Là Thiên Vương và cũng là Thẩm Phán Tối Thượng nhưng Chúa Giêsu lại vô cùng hiền lành, nhân hậu, từ tâm. Ngài là Quan Tòa khiêm nhường và nhân ái.

Quả thật, chính Đức Chúa là Chúa Thượng đã tuyên phán: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt” (Ed 34:11-12). Ngay khi chúng ta tưởng mình cô đơn thì Ngài vẫn đang hiện diện ở bên chúng ta. Khi cuộc đời chúng ta êm trôi, Ngài đồng hành với chúng ta; khi cuộc đời chúng ta như lâm vào ngõ cụt, Ngài không chỉ đồng hành mà Ngài còn vác chúng ta trên vai để chúng ta được an toàn. Thực sự là vậy, nhưng vì phàm nhân yếu đuối, thế nên chúng ta đã từng có những lúc bị dao động, chao đảo!

Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã tuyên phán rạch ròi: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng. Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê” (Ed 34:15-17). Chắc chắn Ngài không “bỏ qua” bất cứ ai, đặc biệt là người nào càng bất hạnh thì càng được Ngài thương xót và chăm sóc nhiều hơn. Thật vậy, Ngài không so đo hơn thua, chấp nhận bỏ lại 99 con chiên béo tốt để rong ruổi tìm kiếm cho được MỘT con chiên xấu xí, ốm yếu, hôi tanh (x. Mt 18:12-14; Lc 15:4-7).

Tìm kiếm trong số các vua chúa trần gian, nếu không là “hàng hiếm” thì cũng chẳng thấy nhiều người vì dân, vì nước, đích thân vi hành để biết dân tình ra sao. Mấy ai được như Hoàng đế Khang Hi (Kangxi, 1654-1722) đời nhà Thanh của Trung Hoa? Ông là vị vua thật tốt lành, thương dân suốt hơn 60 năm trị quốc. Có bao giờ Tổng thống đến khu dân cư nghèo để thấy sinh hoạt cực khổ của người dân? Đến nơi nào thì chỉ ở “trung tâm” rồi tiệc tùng, và nghe “báo cáo”, liệu có bao nhiêu phần trăm trung thực? Bởi vậy, người dân mới thở dài rồi nói: “Ôi dào! Làm láo, báo cáo hay!”. Quan trên, quan dưới vô vàn – Ít quan thật tốt, nhiều quan tham tàn! Tuy ít nhưng có những người đáng nể phục là cố TT G.B. Ngô Đình Diệm, và một số tổng thống của Hoa Kỳ, đó là sự thật mang tính lịch sử, không thể chối cãi.

Cấp nào cũng đa dạng. Ở cấp thấp hơn cũng chẳng khá hơn, tỉnh trưởng hoặc quận trưởng, trong số đó có bao nhiêu người thật lòng muốn biết nỗi niềm của người dân? Rồi giám mục hoặc linh mục, trong số đó có bao nhiêu người tận tình đến thăm giáo dân để hiểu được nỗi lòng của họ, cả đời thường lẫn tâm linh? Có thực sự tìm chiên lạc, chiên yếu, chiên bệnh, hay chỉ thân với chiên béo? Có chức nên có quyền, họ đủ lý lẽ biện hộ, khó mà thản nhiên trả lời ngay. ĐGH Phanxicô cũng thường thẳng thắn dám nói tới những điều “nhạy bén” tương tự như vậy, chắc hẳn nhiều người cũng cảm thấy “dị ứng” lắm!

Phải chân nhận rằng thực sự ấn tượng với Đức cố GM Jean Cassaigne (1895-1973), người ta thường thân thương gọi ngài là Cha Sanh, nhà truyền giáo của dân tộc Kơ Ho, chết vì lây bệnh cùi tại Trại Phong Di Linh, được mệnh danh là Tông Đồ Người Cùi. Khi còn là Giám mục của GP Saigon, ngài thường dùng chiếc xe vespa cọc cạch đi thăm dân chúng vùng Chợ Lớn. Một người Pháp mà quên mình, dấn thân và hòa nhập với người Việt Nam, đặc biệt là những người dân tộc và các bệnh nhân phong cùi. Không yêu thương làm sao sống được vậy? Đó là phong cách của thánh nhân!

Biết rồi, khổ lắm, nói mãi! Cuộc sống thật nhiêu khê, biết nhiều thì khổ nhiều, thấy nhiều thì chán nhiều, nghe nhiều thì “nóng gáy” nhiều: “Càng nhiều khôn ngoan, càng nhiều phiền muộn; càng thêm hiểu biết, càng thêm khổ đau” (Gv 1:18). Làm ngơ thì người ta nói mình “sợ”, nói ra thì người ta “không ưa”. Thẳng thắn sẽ “va chạm”, chỉ khổ mình, nhưng không thể làm ngơ, ai nhát đảm thì dễ “vào hùa” lắm. May mà có Chúa là Bến Yêu Thương cho chúng ta trú ẩn. Thánh Vịnh gia chia sẻ cảm nghiệm tâm linh: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3). Ước gì mỗi chúng ta đều khả dĩ trải nghiệm đức tin tuyệt vời như vậy!

Cái gì cũng cần khổ luyện. Đức tin cũng vậy, phải được tôi luyện trong nhiều nỗi gian truân hoặc đoạn trường thì mới có thể dần dần trở nên “tinh ròng”, và lúc đó chúng ta mới có thể xác tín: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa” (Tv 23:4-5). Thánh Vịnh gia chia sẻ thêm: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:6). Hạnh phúc quá! Nhưng hạnh phúc đó không thể cứ sống tà tà mà có được. Vâng, Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13), Ngài không bao giờ “chợp mắt ngủ quên” hoặc nỡ lòng để mặc chúng ta lâm vào ngõ cụt. Tại sao? Vì bản chất của Ngài là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), mà tình yêu là bất tử.

HẰNG HỮU và HẰNG SINH

Như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu là Vua, là Đệ Nhất Thiên Vương, nhưng không phải là Phú Vương mà là Hàn Vương: SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang. Ngài là Vua mà cuộc sống như vậy, làm sao chúng ta có thể sống khác Ngài?

Và có điều đặc biệt: Chúa Giêsu LÀ Vua của người sống chứ KHÔNG LÀ Vua của kẻ chết. Thật vậy, dù Ngài bị người ta ghen ghét “tới bến” và đã giết Ngài chết thê thảm, nhưng Ngài đã từ cõi chết sống lại, cai trị cả Tử thần (x. 1 Cr 15:25), và trở thành Vua Hằng Sinh. Thánh Phaolô nói chi tiết: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:20-24).

Chúa Giêsu là Vua Hằng Hữu và Hằng Sinh, nhưng Ngài đã chịu đau khổ tột cùng, thế nên Ngài có toàn quyền. Hoàn toàn hợp lý. Thánh Phaolô cho biết: “Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Mà khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô” (1 Cr 15:25-27). Đức Kitô là chính Chúa Con, Ngôi Hai Thiên Chúa, mà Chúa Cha với Chúa Con chỉ là MỘT mà thôi: “Lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15:28).

Vào thời quân chủ ngày xưa, vua cho sống thì được sống, vua bảo chết thì phải chết, không muốn cũng phải tuân lệnh, bất tuân là bất trung. Chính cái chết minh chứng lòng thành của tôi trung. Đã từng có những trung thần đã dám xin được chết để minh chứng lòng trung thành với vua. Còn nữa, người ta không được phép nhìn mặt vua và phải tránh những chữ có “liên quan” nhà vua, phải đọc “trại” đi (trường – tràng, sinh – sanh,...), thậm chí muốn tâu bẩm cũng không được tâu thẳng với vua, mà chỉ được tâu “cái bệ rồng” của vua ngồi mà thôi: “Muôn tâu bệ hạ”. Ui da! Cái ghế vua ngồi còn đáng giá hơn thần dân. Nhưng với Vua Giêsu, không sợ “phạm húy”, Ngài cho phép chúng ta cứ thân thưa thẳng thắn: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con! Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài!”.

Chúa Giêsu là Vua nhưng Ngài không hề được tiền hô hậu ủng, không hề xa giá, chỉ một lần duy nhất được tung hô vạn tuế khi Ngài cưỡi lừa vào thành Giêrusalem trước dịp Lễ Quá Hải (Vượt Qua), thế nhưng chỉ vài ngày sau là họ lật mặt nhanh hơn trở bàn tay: “Đóng đinh nó vào Thập Giá” (Mt 27:22-23; Mc 15:13-14; Lc 23:21; Ga 19:6; Ga 19:15). Lạy Chúa tôi! Chúng ta cũng chẳng hơn gì đâu!

Ròng rã suốt những năm tháng hoạt động mục vụ, hàng ngày Ngài đích thân rong ruổi khắp mọi nẻo đường, đến tận các hang cùng ngõ hẻm để giáo huấn và chia sẻ nỗi đau khổ của những người cùng đinh nhất, đặc biệt là Ngài luôn tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của bất kỳ ai. Là vua, trong tay đầy quyền lực, nhưng Ngài đã thực hiện đúng như lời Ngài dạy người khác làm: “Ai làm lớn phải phục vụ” (Mt 20:24-28; Mc 10:40-45). Ngài không cậy quyền, không ỷ thế, nói và làm gì cũng dựa trên nền tảng yêu thương, ngôn hành luôn song song, thậm chí Ngài còn LÀM NHIỀU HƠN NÓI. Ngài không chỉ là Vua Nhân Lành, Vua Hằng Sinh, Vua Tình Yêu, Vua Thương Xót, mà Ngài còn là Vua Nhân Ái và Công Bình. Vô cùng may mắn khi chúng ta là thần dân của Vị Vua này. Deo gratias – Tạ ơn Thiên Chúa!

NHÂN ÁI và CÔNG BÌNH

Nhân ái và công bình là nền tảng vững chắc của cuộc sống. Tin Mừng hôm nay là trình thuật Mt 25:31-46, cho biết về cuộc tái lâm và cách xét xử của Chúa Giêsu – Thiên Vương Chí Thánh và Thẩm Phán Tối Thượng. Chúa Giêsu đã sử dụng hình ảnh thực tế, gần gũi đời thường và dễ hiểu: Chiên và Dê. Chiên là loài động vật hiền, mỗi lần bị xén lông rất đau nhưng nó không hề kêu hoặc phản ứng và có hình dáng “dễ thương”; dê là loài động vật có thể phản ứng dữ dội và có hình dáng “không bắt mắt”. Chiên là hình ảnh của Người Lành, dê là hình ảnh của Kẻ Dữ. Hai hình ảnh đối nghịch nhau!

Tuyệt đối vâng lời Chúa Cha, Chúa Giêsu đã bằng lòng chịu chết để cứu độ nhân loại, vì thế Ngài cũng có toàn quyền phân xử, nhưng hoàn toàn công minh chính trực và đầy tình xót thương. Khi Ngài đến thế gian lần thứ hai, Ngài được các thiên sứ theo hầu, và Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Ngài tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê. Ngài cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Thiên Vương Giêsu nói với những người ở bên phải: “Nào những người được Cha Tôi chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho quý vị ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã cho ăn; Tôi khát, quý vị đã cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã cho mặc; Tôi đau yếu, quý vị đã thăm viếng; Tôi ngồi tù, quý vị đã đến hỏi han” (Mt 25:34-37). Hạnh phúc thay cho những ai được Ngài cười và nói như vậy!

Khi nghe Ngài nói vậy, họ ngạc nhiên vì họ chưa một lần thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, là khách lạ mà tiếp rước, trần truồng mà cho mặc, đau yếu hoặc ngồi tù mà thăm viếng giúp đợ. Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Mỗi lần quý vị làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Tôi, là quý vị đã làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:41).

Rồi Đức Vua nói với những người ở bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia, đi cho khuất mắt Tôi mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã không cho ăn; Tôi khát, quý vị đã không cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã không tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã không cho mặc; Tôi đau yếu và ngồi tù, quý vị đã chẳng thăm viếng” (Mt 25:42-44).

Họ cũng ngạc nhiên và phân bua, nhưng Ngài nói thẳng: “Mỗi lần quý vị không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là quý vị đã không làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:46). Hết cách phân minh, họ đành lủi thủi ra đi để chịu cực hình muôn kiếp. Đó là công bình: Tốt được thưởng, xấu bị phạt. Có điều lạ là không thấy Chúa đề cập tội này hay tội nọ, Ngài chỉ thẩm vấn HAI điều: Sử dụng vốn sống thế nào để sinh lời (Mt 25:14-30), và thực hành đức ái (Mt 25:31-46).

Ngài không thiên vị ai, không thể lấy cớ mình là “ông này” hoặc “bà nọ” để mong được “ưu tiên”. Có lẽ chúng ta nghe nhiều hóa nhàm tai, rồi cứ tưởng Chúa “vui tính”, thích đùa dai. Số phận thành Sôđôma và Gômôra bị thiêu rụi đã quá hiển nhiên, rồi hằng năm có nhiều vụ “thiên tai” nhưng người ta vẫn “bình chân như vại”, thích những “sự lạ” chứ không muốn hiểu “triệu chứng” của một căn bệnh trầm kha bất trị. Thiên tai hay nhân tai? Việt Nam cũng không ngoài danh sách. Cứng lòng hay tự mãn?

Nhìn thấy Chúa trong người khác là điều không dễ, nhưng đó là điều Chúa Giêsu đề cao: Mỗi lần chúng ta giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện cho người khác,… đó là chúng ta làm cho chính Thiên Chúa. Người khác là tha nhân, là bất kỳ ai, dù không quen biết, thậm chí là kẻ thù. Thật tuyệt vời với cách suy luận của đại văn hào Victor Hugo: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã cho Thượng đế vay”. Một cách nhận định chứa đầy niềm tin Kitô giáo.

Lòng thương xót cũng chính là tình yêu thương, chính Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13:1), Ngài không phạt nhãn tiền vì Ngài nhẫn nại chờ đợi chúng ta sám hối, đợi chúng ta tín thác vào Lòng Thương Xót vô biên và sâu thẳm của Ngài, điển hình là đến với Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể. Không được tha thứ là tại chúng ta quá cố chấp mà thôi! Alfred Mortier nói: “Mọi người đều nói đến QUYỀN LỢI, không mấy ai nói đến BỔN PHẬN”. Thật vậy, chúng ta van xin Chúa ban “miễn phí” cho chúng ta đủ điều, nhưng lại không muốn hy sinh, chỉ muốn tránh né “cái khó” càng nhiều càng tốt. Mâu thuẫn. Vậy là chúng ta không công bằng với Chúa đấy!

Lạy Thiên Vương Giêsu Kitô, xin thương tha thứ, nâng đỡ, che chở, độ trì, soi sáng và hướng dẫn con trong Cung Đường Tình Yêu cao cả và tuyệt đối của Thiên Chúa. Lạy Thẩm Phán nhân hậu, xin dủ lòng thương xót con – kẻ tội lỗi khốn nạn. Con tín thác vào Ngài, Đấng Cứu Độ hằng sinh, đồng hiển trị cùng Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Thiên Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

TRẦM THIÊN THU
Xem thêm:

1. Chữ T Định Mệnh: https://tramthienthu.blogspot.com/2016/11/chu-t-inh-menh.html

2. Vua Giêsu Là Thiên Chúa: https://tramthienthu.blogspot.com/2016/11/vua-giesu-la-thien-chua.html

 

November 17, 2020