Hai đoản khúc suy tư 18 tn-A
Suy tư tuần thứ 18 mùa thường niên năm A, lại thấy có giòng thơ những ngâm rằng:
“Tôi với hồn hoa vẫn nín thinh,”
Ngấm ngầm trao đổi những ân tình.
Để thêm ấm áp nguồn tơ tưởng,
Để bóng trời khuya bớt giật mình.”
Thơ ngâm rồi, người lại hát những câu ca mà người hát mãi:
“Hỡi anh yêu xin anh đừng buồn,”
Có đôi khi em hay giận hờn,
Để cho anh quên đi ngày dài
Với bao đêm suy-tư miệt mài.”
Thế đó, có ngâm thơ và hát nhạc mãi cũng để bảo rằng: đời mình và đời người vẫn có những khoảnh-khắc để ta cứ bảo nhau: Xin anh, xin em đừng buồn! Nhưng hãy cứ quên đi ngày dài, với bao đêm suy-tư miệt-mài, những ý-tứ và ý-từ của bài thơ hay giòng nhạc, rất thân thương.
Thế đó, còn là tâm tình xin được gửi đến người anh, người chị trong họ ngoài làng, ở Nước Trời Hội thánh rất thân thương.
Mai Tá
www.giadinhanphong.com
Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ 18 mùa Thường niên năm A 03-8-2014
“Tôi với hồn hoa vẫn nín thinh,”
Ngấm ngầm trao đổi những ân tình.
Để thêm ấm áp nguồn tơ tưởng,
Để bóng trời khuya bớt giật mình.”
(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Mt 14: 13-21
Nhà thơ xưa bỗng giật mình, với bóng trời khuya, với những hồn hoa vẫn nín thinh. Nhà Đạo hôm nay rày tơ tưởng, để thêm ấm áp những ân-tình ngầm đổi trao. Ân-tình ấy, còn là tình-ân nhung-nhớ buổi rời xa, cả Đức Chúa.
Trình-thuật hôm nay, thánh Mát-thêu lại vẫn kể về những ân-tình Chúa để lại với con dân qua sự việc lạ lùng Ngài từng làm qua sự-kiện biến những bánh và cá nhân-bản rất nhiều để con dân Ngài cùng tận-hưởng. Lạ hơn nữa, còn là và vẫn là tình Ngài chan chứa vẫn ở lại để ủi-an cảnh buồn phiền, rất cách ly.
Người xưa có câu: “cách-ly, xa rời Chúa lỗi này do ai?” Câu hỏi này, vẫn luôn hiện đến mỗi khi ta đề cập đến chủ đề được ghi trong bài đọc 2, đại ý thánh Phao-lô viết: “Không có gì tách ta khỏi lòng mến của Đức Kitô”.
Khi chấp nhận hành hình chịu khổ đau, thánh Phao-lô có viết cho cộng đoàn tín hữu ở Rôma để nhắn nhủ các thánh ở đây, rằng: dù có hãi sợ, cách ly, hoặc sầu buồn thế nào đi nữa, không gì có thể cách ly cộng đoàn mình xa rời tình yêu của Đức Chúa.
Điều này cho thấy: mỗi khi ta có cảm giác xa cách Đức Chúa, tức: đã bước xa khỏi nơi Ngài hiện diện. Và, bình thường là qua hành vi đầy huỷ hoại. Hành vi này, thường tạo khoảng cách giữa ta và cội nguồn niềm tin, hy vọng và thương yêu.
Thánh Mát-thêu và tiên tri Isaya đều đã viết cùng một đại ý, nói rằng: không gì có thể cách biệt ta xa rời tình yêu của Thiên Chúa. Sông rộng ngập đầy, ở lời sấm của tiên tri, và câu chuyện 5 tấm bánh và 2 con cá ở Tin Mừng, là tất cả những gì các thánh diễn tả sự sung mãn nơi Vương quốc Đức Chúa. Tức là, sự sung mãn vẫn có nơi tình thương của Chúa.
Rất thường tình, ta hay nhấn mạnh đến phép lạ thật sự tạo biến đổi mà thánh sử đã đề cập trong Tin Mừng do thánh nhân viết, thoạt khi Đức Giê-su “bẻ bánh và phân phát” cho hết mọi người, rất dồi dào. Sung mãn.
Viết như thế, thánh Mát-thêu cũng gợi sự chú ý của mọi người đến các mẩu vụn còn thừa. Thánh sử còn chú trọng hơn phép lạ nhân bản thức ăn, gồm có bánh và cá. Từ con số 5 tấm bánh và 2 con cá, thánh sử Mát-thêu nói đến số 12 giỏ vụn bánh, còn sót lại.
Các con số mà thánh sử viết ở đây, trong Tin Mừng, không là chuyện ngẫu nhiên. May rủi. Trái lại, số 7 là con số biểu tượng cho 7 ngày Thiên Chúa tạo dựng trời đất, mà lúc ấy, mọi người nghe kể, không thể nào không liên tưởng đến.
Truyện kể đây, là kể về việc Đức Giê-su sử dụng hoa quả của nhân trần trái đất làm ra hầu nuôi sống đoàn người đông đảo, lúc bấy giờ. Hệt như thế, 12 giỏ bánh vụn còn sót, là những cơm thừa canh cặn, rơi rớt lại từ bữa ăn no nê, đầy mãn nguyện. Câu truyện đây, vang vọng một dấu chỉ Chúa muốn qui chiếu, qua số 12. 12, là con số ám chỉ các chi tộc Israel, được ghi lại nơi Cựu Ước.
Đối với ta, truyện kể hôm nay còn vang vọng một ủi an. Thánh Mát-thêu kể cho ta nghe việc Đức Giê-su thấy được nhu cầu của từng người. Ngài chẳng khi nào quay mặt bỏ đi. Nhưng, vẫn đến tận nơi ta ở. Gặp ta ngay, vào tình trạng sống, ta kéo dài. Và, Ngài tái tạo con người chúng ta ngang qua sự sung mãn của tình yêu Ngài. Nhờ đó, ta trở thành “dấu chỉ” cho Vương quốc của Ngài, với nhân trần.
Hội thánh của ta cũng thế. Mẹ thánh Giáo hội luôn tin rằng: việc nuôi sống đám đông quần chúng vào buổi ấy, là ảnh hình về Tiệc Thánh Thể, vẫn diễn ra hằng tuần. Với cộng đoàn. Ở nơi đây, ta đón nhận sự sung mãn ứ tràn của Đức Chúa, qua Lời Ngài, trong cuộc sống. Cuộc sống, của cộng đoàn. Trong các sinh hoạt mục vụ. Và, qua việc linh mục biến đổi rượu bánh thành Mình Máu Chúa.
Phụng vụ hôm nay, là phụng vụ về sự sung mãn. Chúa đem đến cho ta, ân sủng dồi dào; để rồi, ta có thể chuyển đạt lại cho thế giới nhân trần những gì Ngài trao ban, ngõ hầu ta biết chăm sóc, hết mọi người. “Ai được nhiều, sẽ bị đòi nhiều”. Nhưng, vấn đề đối với thế giới hôm nay, là: nhiều người trong chúng ta vẫn sở hữu quá nhiều thứ. Rất sung mãn. Thật dư thừa. Trong khi đó, còn quá nhiều người, chẳng có đến bất cứ thứ gì. Dù là vật dụng nhỏ, để độ thân.
Nếu tình trạng này vẫn tiếp diễn, mà ta không thấy bận lòng gì đến việc biến đổi tâm can, hoặc có hành động thích nghi, thì ta chẳng thể nào hiểu được truyện kể mà thánh sử hôm nay viết về lòng Chúa xót thương đám đông quần chúng. Vì, khi Chúa chạnh lòng thương đám đông quần chúng, Ngài không nhắm chỉ riêng ai, hoặc một người nào.
Đôi khi, có người còn nhìn vào cảnh tình nghèo khó hiện xảy ra trên thế giới, rồi tự hỏi: “Nếu Chúa nhân từ, sao lại để việc ấy xảy ra?” Ý nghĩ này, không thể làm ta xa rời Đức Chúa. Nhưng, dưới ánh sáng soi dọi của Chúa như thánh sử ghi lại hôm nay, đoan chắc một điều, là: Ngài ban mọi sự cho chúng ta. Ban một cách sung mãn tràn đầy, để ta có thể sẻ san sự sung mãn ấy, cho mọi người.
Mỗi khi ta có ý nghĩ đặt ra những câu hỏi như thế, và mỗi khi ta có cảm giác rằng mọi sự xảy ra giống như vậy, hãy tự vấn lương tâm, mà hỏi như người xưa, vẫn tự nhủ, rằng: Ai xa rời? rời xa ai? Trả lời được câu hỏi của tiền nhân, tự khắc ta sẽ không còn thắc mắc, nữa.
Cầu Chúa cho ta cảm nhận được các tư tưởng mà thánh sử Mát-thêu viết ra, hôm nay.
Trong tâm-tình nguyện-cầu như thế, ta lại sẽ ngâm thêm lời thơ còn dang-dở, những hát rằng:
“Tôi với hồn hoa vẫn nín thinh,”
Ngấm ngầm trao đổi những ân tình.
Để thêm ấm áp nguồn tơ tưởng,
Để bóng trời khuya bớt giật mình.”
(Hàn Mặc Tử - Huyền Ảo)
Nói cho cùng, việc Chúa làm cho mọi người thường vẫn là những sự việc lạ lùng, ấm áp, đầy ân-tình. Ân-tình và huyền-ảo, vẫn luôn là động-thái Chúa gửi đến để rồi con dân Ngài sẽ mãi mãi trân-trọng, suốt đời mình.
Lm Richard Leonard, sj
Mai Tá lược dịch.
Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 18 mùa Thường niên năm A 03-8-2014
“Hỡi anh yêu xin anh đừng buồn,”
Có đôi khi em hay giận hờn,
Để cho anh quên đi ngày dài
Với bao đêm suy-tư miệt mài.”
(Lê Hựu Hà – Hãy Yêu Như Chưa Yêu Lần Đầu)
(1 Cor 5: 7-8)
Vâng. Đúng thế. Tình yêu vào buổi đầu, tuy có ra sao, cũng vẫn là thứ tình dạt dào nhiều âu yếm, giống chiêm bao. Yêu lần đầu, là thứ tình cứ bảo nhau “đừng buồn”, dù “có đôi khi em hay giận hờn”, “anh quên ngày dài”, hoặc cả hai từng “suy-tư miệt mài”, đến quên chết.
Vâng. Có lẽ đúng như vậy. Bởi, một khi đã yêu thương nhau, thì người kia hay bên nọ vẫn cứ hát các ý/lời đầy thơ, những là:
“Mắt môi đây xin anh đừng chờ
Chiếc hôn kia mong anh từng giờ
Ngón tay kia xin chớ hững hờ
Dắt em đi về trong đợi chờ.
Biết bao ngày đã qua, Biết bao chiều xót xa.
Ngồi đếm những giọt nắng, Rơi rụng trước mái hiên nhà.
Người sao chưa đến với ta, Tình sao chưa thấy ghé qua.
Dù con tim vẫn thiết tha, Mộng xưa cũng vơi theo tháng ngày.
(Lê Hựu Hà – bđd)
Vâng. Thi-ca và âm-nhạc ngoài đời vẫn có ý-tứ và lời-lẽ ra như thế, suốt một đời. Nhưng còn, thực-tế cuộc đời nay lại có vấn-đề nổi cộm được báo chí ở Úc từng cảnh-giác, rất như sau:
“Mới đây, tác giả của bài báo trên tờ The Telegraph có viết rằng: có vị trước đây là luật gia tên là Chris Sevier vừa đệ đơn xin một giấy chứng hôn-thú để ông có thể lầm thân với vi-tính có tên là Mac – book. Trong cố gắng biện-hộ cho vụ án của chính mình, ông Sevier giải-thích rằng ông đã thành người ghiền dâm-thư qua máy vi-tính của chính mình. Và, rất nhiều khi, ông đã thấy mình bắt đầu thích những màn làm tình trên vi-tính hơn ăn nằm với phụ nữ thực-thụ.
Nhật báo The Telegraph tường trình rằng: luật sư Sevier tìm cách lập nên vụ-việc để chống việc hợp-thức-hoá “hôn nhân giữa người đồng-tính luyến-ái”. Ông Sevier có nói trước toà rằng: “Nếu đúng là, ngày nay ta thực-sự có nguy-cơ đặt ra cho hôn-nhân theo truyền-thống nam nữ và con cái, thì các cặp phối ngẫu giữa nam-nam hoặc nữ-nữ và giữa con người và máy móc cũng đề ra một sự thể hệt như thế”. Và ông luật-sư này cứ thế biện-luận rằng: nếu ta quyết bảo vệ quyền-lợi cho đồng-đều, thì ắt hẳn sẽ không thiếu lý-do để hỗ-trợ cho đường-lối/chính-sách ngăn-ngừa hôn-nhân giữa các cặp phối-ngẫu giữa con người và máy móc đâu thua kém hôn-nhân đồng phái-tính...
Thêm vào trường hợp luật-sư Chris Sevier đưa ra về hôn-nhân giữa người và máy, các nhà khảo-sát/nghiên-cứu còn cho biết rằng các dâm-thư hoặc phim ảnh kích-dục cũng có thể gây nên quan-hệ yêu-đương với người khác làm cho chính con người ít hài lòng thoải mái, hơn trước đó. Ngoài chuyện thường xuyên xem dâm-thư và phim ảnh kích-dục có thể khiến cho tâm-não con người bị có vấn đề. Mọi người nay cũng không lấy làm lạ là mấy khi biết rằng: những người mê man xem dâm-thư và/hoặc phim ảnh kích-dâm như luật sư Chris Sevier lại cứ thích để máy móc kích-thích mình về chuyện dục-tình hơn đàn bà phụ nữ, cũng rất nhiều.
Nói gì thì nói, các khảo sát nghiên-cứu mới đây còn cho biết: mê dâm-thư hoặc phim ảnh kích-dục cũng giống như mê ma-túy hoặc chích choác, thôi. Tất cả những thứ này đều huỷ-diệt hôn nhân cùng một kiểu như ma-túy hoặc các thứ thuốc bất-hợp-pháp, vậy. Đó là một trong các khám-phá mới đây của hai nhà phẫu-thuật-gia thuộc Trung Tâm Khoa-học Y-tế trường Đại học Texas, Hoa Kỳ”. (x. Nicole M. King, Porn addiction is as serious as drug addiction, MercatorNet 25/6/2014)
Người đời nói thì nói thế, còn nhà Đạo đôi lúc lại vẫn bảo ban nhiều điều theo cách-thế tinh-tế, nhè nhẹ rất như sau :
“Đức Thánh Cha Phanxicô lên tiếng tố-giác những tư tế hư hỏng, thay vì trao bánh sự sống cho dân thánh của Chúa, thì lại cho những lương thực có thuốc độc!
Đức Thánh Cha đưa ra nhận định trên đây trong bài giảng thánh lễ lúc 7 giờ ngày 16-1-2014 tại nguyện đường nhà trọ thánh Matta ở Vatican: “Đoạn Kinh thánh này (1 Sam 4: 11) làm cho chúng ta suy nghĩ xem quan-hệ của chúng ta với Thiên Chúa, với Lời Chúa như thế nào: phải chăng đó chỉ là một quan-hệ hình-thức, hời hợt, một quan-hệ xa lạ? Lời Chúa có đi vào, có thay đổi tâm-hồn chúng ta hay không? Nhưng, tâm hồn lại khép kín đối với Lời Chúa. Điều này làm chúng ta nghĩ đến bao nhiêu thất bại trong Giáo hội, bao nhiêu chiến-bại chỉ vì họ không cảm thấy Chúa, không tìm thấy Chúa, không để cho Chúa tìm họ! Và rồi sau khi thảm-trạng xảy ra, người ta cầu nguyện: Lạy Chúa, làm sao điều ấy xảy ra được? Chúa đã làm cho chúng con bị các lân bang coi rẻ...Chúa biến chúng con thành sự nhạo cười của những dân quanh chúng con”.
Đề cập đến những gương mù, những xì căn đan trong Giáo Hội, Đức Thánh Cha đặt câu hỏi: “Chúng ta có xấu hổ không? Có bao nhiêu gương mù mà tôi không muốn nêu riêng rẽ ở đây, nhưng tất cả chúng ta đều biết và chúng ta biết chúng ở đâu. Nhưng xì căng đan mà một số người đã bắt phải trả bao nhiêu tiền... Thật là một ô nhục cho Giáo Hội. Chúng ta xấu hổ vì những xì căng đan, những chiến-bại của các linh mục, giám mục, giáo dân? Lời Chúa trong những xì căng đan ấy thật là hiếm hoi! Họ không có quan hệ với Thiên Chúa! Họ có một địa vị trong Giáo Hội, một địa vị quyền lực, và thoải mái. Nhưng Lời Chúa thì họ không có. Họ biện minh: ‘Nhưng tôi có huy chương mà! Tôi có mang thánh giá mà!.. Đúng vậy, cũng như những người Israel xưa kia mang hòm bia Giao ước vậy! Nhưng, họ không có quan hệ sinh động với Thiên Chúa và Lời Chúa’.
Đức Thánh Cha nói: “Tôi nghĩ đến Lời Chúa Giêsu nói về những kẻ gây gương mù gương xấu... và nơi đây xì căng đan đã xảy ra: tất cả sự sa đoạ của dân Chúa, cho đến sự yếu nhược, sự hư hỏng của các tư tế”, (x. G. Trần Đức Anh O.P, Đức Thánh Cha tố giác những tư tế hư hỏng, www.Vietcatholic.com 17/01/2014)
Vâng. Nói như đấng bậc tối cao nhà Đạo, là nói lời khuyên bảo dân con mình hãy về với Lời Chúa từng nhủ khuyên, ban bảo để rồi vẫn mang nặng thứ tình yêu thương trong trắng, không xì căng đan, hoặc tì vết.
Vâng. Nói lời yêu đương như nghệ sĩ ngoài đời, là còn nói bằng câu ca rất như là:
“Hãy cho em môi hôn nồng nàn,
Lỡ mai sau duyên ta muộn màng,
Sẽ không ai cho ta vội vàng.
Mới yêu đây nay nhưng sao phũ phàng,
Hãy yêu như chưa yêu lần nào,
Hãy cho nhau môi hôn ngọt ngào.
Hãy đưa em về nơi cuối trời,
Giấc mơ yêu cùng anh trọn đời.”
(Lê Hựu Hà – bđd)
Vâng. Vấn-đề là: đã có tình-yêu trong trắng tức “Hãy yêu như chưa yêu lần nào” , và rồi: “Hãy đưa em về nơi cuối trời!”, để rồi ở nơi đó, anh và em sẽ có “Giấc mơ yêu cùng anh trọn đời” cứ yêu nhau, cách trong trắng. Ở nơi đó, sẽ chẳng có “xì căng đan” nào khiến anh và em đến phải “xấu hổ” với Lời Chúa, với mọi người.
Vâng. Cũng một chiều-hướng đó, đấng thánh hiền nhà Đạo cũng từng dặn dò bảo ban những người anh người chị trong thánh Hội Nước Trời vào thời đó, rất như sau:
“Anh em hãy loại bỏ men cũ
để trở thành bột mới,
vì anh em là bánh không men.
Quả vậy,
Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua
của chúng ta.
Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ,
là lòng gian tà và độc ác,
nhưng hãy lấy bánh không men,
là lòng tinh tuyền và chân thật,
mà ăn mừng đại lễ.”
(1 Cor 5: 7-8)
Lòng tinh tuyền, không chỉ là “men” trong bột cũng rất mới, mà thôi, nhưng còn là ý-nghĩa cuộc sống của hết mọi người, chí ít là dân con của Đức Chúa.
Lòng tinh tuyền, lại cũng là lòng chân-thành của dân con nhà Đạo trong ứng-xử với mỗi người và mọi người. Ứng-xử ấy, vẫn là lòng-thành chân-chất Chúa từng tỏ-bày với con người từ thuở tạo-dựng cho đến hôm nay và mãi mãi suốt mọi thời.
Ứng-xử tử-tế với người trong Đạo hay “ngoài luồng” vẫn là lối ứng và xử của các đấng bậc trong Đạo diễn-giải thêm như sau:
“Thực tế đời người, ta thấy Chúa “ứng xử” tử tế với mọi sự, mọi người. Ngài ứng xử tử tế cả với đất đá, bông hoa, thú vật cùng loài người. Mỗi động tác, đều thể hiện trạng huống xuất từ một nguồn duy nhất. Ứng xử tử tế, là quan hệ với Bản Thể Chúa theo cung cách thi đua/khác biệt, có khi còn đối kháng. Nhưng mỗi loài và mọi loài, đều đáp ứng thích-hợp với quà-tặng Chúa ban, hầu trở thành “vũ trụ” hợp nhất mang ý nghĩa rất chung tình.
Ứng xử gây kinh ngạc ở trời mới/đất mới, là ứng xử tử tế giữa hai bản thể tuy riêng rẽ/khác biệt, nhưng lại vẫn chọn sống chung và sống cùng cả triệu năm. Chọn cách sống, nếu không sống chung sống cùng, sẽ không thể sống tốt đẹp. Chọn cách sống ứng xử,hỗ tương khá lạ kỳ, là công việc Chúa vẫn làm với dân gian người phàm, mãi đến hôm nay...
...Các lý lẽ khiến có sự gãy đổ, thoái thác và thu hồi sự hỗ tương nam nữ trong hôn nhân không được chấp nhận ở Kinh Sách. Đó là vi phạm kết hợp hài hoà rất nền tảng. Là, phá vỡ giao-ước có từ thuở đầu. Cũng thế, giả như ta phá bỏ/huỷ hoại bí mật và thực trạng phối kết nam nữ do Chúa lập như luật Torah nói “cho phép ly dị”, và họ có làm thế cũng chỉ như một trong các thể-lệ được Chúa cho phép, chứ chẳng vì họ muốn làm. Dĩ nhiên, việc này tạo nỗi buồn sâu sắc trong lòng Chúa. Và, việc này có xảy đến cũng do con tim của nam-nhân và nữ-phụ đã chai đá, cứng cỏi. Sự cứng cỏi, do tâm can/tự sự vẫn muốn thoải mái hơn là chấp nhận quà của Chúa, tức mãi mãi sống chung cùng nhau, vui bên nhau.
Những lý do khiến truyền thống Giáo Hội qui trách nhiệm lên những người không có khả năng tiếp tục cuộc sống lý tưởng. Truyền thống Giáo Hội không ngần ngại gọi tình cảnh rẽ chia là “tội” hoặc “lỗi” mang tính khách quan. Bởi, tội lỗi vẫn là cách ly. Ân lộc mới nối kết. Chính vì lý do này, mà truyền thống Giáo Hội nói hôn nhân là ân lộc. Là, bí tích thánh thiêng, huyền nhiệm, vinh hiển.
Quan-hệ nam-nữ trong hôn-nhân đã chứng tỏ Thiên-Chúa đích-thực là sự kết hợp hài-hoà. Đó là mạc khải về sự kết-hợp nơi Chúa Ba Ngôi. Chính sự kết-hợp thánh-thiêng này nói lên điều Chúa muốn nói, là: Thiên-Chúa thực-tình phối-kết với nhân loại mà không muốn cách chia, phân rẽ. Hôn nhân đích thực là dấu hiệu của bí nhiệm này. Chính nhờ vào ánh sáng của phối kết, con người hiểu được thể nào là “nhập thể” và thế nào là “biến hình”. Nhờ đó, cũng hiểu được chính mình.
Sẽ không quá đáng nếu nghĩ rằng: chính sự tháp-nhập vào với nhau để nên một, xứng-hợp với ý-tưởng “thành trẻ bé”. Điều đó nói lên rằng: có thấy bất-xứng mới không hãi-sợ chuyện gần-gũi người kia/người khác và khám phá ra rằng sự sống đích thực nằm ở sự việc này.
Thánh Phaolô yểm-trợ cho ý-tưởng này và ngài còn tiến xa hơn thần-học Do-thái về vấn đề đó. Thánh-nhân thấy rõ sự kết-hợp hỗ-tương nơi hôn-nhân là gia-nhập/hiệp thông với đối-tác cả vào sự thể mà ta thường gọi là sự mỏng dòn/dễ vỡ nhưng lại mang tính Phục-sinh nơi người phối ngẫu phiá bên kia. Nam-nhân và nữ-phụ, cả hai đều sợ chết, nhưng mỗi người nam-nữ phiá bên kia mới bảo đảm mình không sợ chết, mà chỉ bắt đầu trỗi dậy, nên yên-tâm. Thánh Phaolô thấy nơi người phiá bên kia không như người khác, mà như là thành-phần của Thân mình Chúa sống lại.
Thật phức-tạp khi nhận ra rằng: thái-độ của thánh Phaolô về thân xác, dục tình, thịt da nơi người nam và nữ “phía bên kia” không tiếp-tục đi sâu và trọn-vẹn vào sự Đạo đang diễn-tiến. Họ bao gộp sự tự-do và cảm-thông hỗ-tương mà ngày nay ít người phổ-biến. Riêng các sử-gia lại nghĩ: từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 5, Hội thánh đã từ từ lấy lại từ người La Mã và văn-hoá ngoại-giáo thái-độ “phải lẽ” với thân xác, gia-đình, hôn-nhân, cùng trinh-tiết và cả việc tiết-giảm dục-tình nữa. Điều này, khác với động-cơ thúc đẩy và cung-cách thực-hiện vẫn có do trường-phái kiểu thánh Phaolô mang tới.
Có lẽ, Kitô-hữu thời tiên-khởi không giống cộng-đoàn Phaolô, tức không có tự-do đủ để vui-hưởng cuộc sống như thánh-nhân dạy. Có lẽ đây là lý-do khiến họ tiến tới khuynh-hướng khắc-kỷ, tức nghiêng về đạo-giáo Đông phương; và từ đó, kéo theo chuyện các Kitô-hữu nay thành người ghét bỏ xác thịt, dục tính và tình dục; và coi thường người khác phái “phía bên kia”. Nhà thần học luân lý nào đặt nặng tính lịch sử vào đạo-giáo sẽ làm rõ nghĩa vấn đề này hơn.
Thánh Phaolô chú-tâm nhiều về việc hai người nam-nữ san-sẻ sự mỏng-dòn trước sự chết và sống lại, nên đã lạc-lõng cách nào đó. Lạc-lõng, cả trong thần-học Đạo Chúa, mãi sau này. Thần-học ấy, quyết nhấn mạnh rằng: cá-nhân con người vẫn làm được điều tốt đẹp cho mình nếu biết tự mình giúp mình. Qua nhận-thức sự mỏng-dòn, họ thường tự cho mình là người chín-chắn, trưởng-thành, chẳng cần lo. Nhưng lại không hiểu rằng chính mình cũng mỏng-dòn với người khác và mọi người”. (x. Lm Kevin O’Shea CSsR, Lời Chúa Sẻ San năm B, nxb Hồng Đức 2014 tr.217-218)
Quả là, trong quan-hệ giữa hai người và nhiều người, luôn có sự mỏng-dòn rất đáng sợ. Nếu không cẩn-trọng, hẳn mọi đối-tác trong quan-hệ này, sẽ rơi vào tình-huống khó-khăn, rất khó tránh. Tình-huống tương-tự nơi đấng-bậc phạm-pháp được dẫn ở trên, mà không có sự chỉnh-sửa, sẽ còn gây tai-hại đến nhiều người, nhiều thời ở nhà Đạo nữa.
Sự thể ở nhà Đạo lúc này đây, bây giờ, vẫn là tình-huống cần được chỉnh-sửa. Chỉnh-sửa không chỉ bằng việc trang-trải hoặc thanh-toán bằng tiền bạc là xong; nhưng chắc chắn phải nhờ vào quyết-tâm của người trong cuộc cũng như thành-phần dân Chúa, muốn hỗ-trợ.
Thành thử ra, vấn-đề đặt ra cho ta, không thể như thái độ của quan-chức chỉ mỗi “cưỡi ngựa xem hoa”, xong rồi rồi thôi. Nhưng còn là nhận-thức trước đã, sau đến sẽ tra tay hành-động cho đúng cách, mới thành-công.
Nhận định thế rồi, tưởng cũng nên đi vào với thế-giới văn-chương truyện kể để tìm ra cho mình và cho người một bài học để đời, rất vui tươi:
“Truyện rằng:
Một hôm, Tô Đông Pha đến chơi chùa, cùng ngồi thiền với nhà sư, trong khi ngối thiền thấy an-lạc xuất-hiện. Xả thiền xong, Tô Đông Pha rất vui vẻ hỏi nhà sư:
-Ngài thấy tôi ngồi thiền như thế giống cái gì?
-Trông ngài giống như Đức Phật...
Tô Đông Pha nghe thế vui lắm. Thiền sư hỏi lại:
-Thế ngài thấy tôi ngồi thiền giống cái gì?
Tô Đông Pha đáp:
-Trông ngài ngồi thiền giống một đống phân bò.
Thiền-sư nghe thế cũng hứng-chí lắm. Tô Đông Pha cười suốt dọc đường về, nghĩ bụng hôm nay ta đã thắng lão hoà-thượng đó một phen rồi. Bị ta nói là đống phân bò mà không bẻ lại được câu nào cả. Tô Đông Pha về khoe với em gái là Tô tiểu muội:
-Hôm nay anh đã qua mặt được lão sư già đó rồi.
Tô tiểu muội hỏi chuyện gì, thì Tô Đông Pha hào-hứng kể lại. Tô tiểu-muội cười ồ lên, Tô Đông Pha càng hào-hứng. Hỏi mãi, Tô tiểu-muội mới nói:
-Muội cười là cười huynh đó, huynh lại thua lão hoà-thượng ấy rồi.
Tô Đông Pha ngạc-nhiên hỏi thế nào, thì Tô tiểu-muội đáp:
-Tâm của lão hoà-thượng là tâm Phật, nên thấy huynh cũng giống như Phật. Còn tâm của huynh thì toàn phân-bò, nên huynh thấy hoà-thương như đống phân bò thôi. Tâm của huynh như thế làm sao mà bằng được tâm của lão hoà-thượng được cơ chứ!”
Đọc truyện kể ở trên, chắc hẳn bạn cũng như tôi, ta đâu thấy có gì nối kết với vấn-đề mình đang bàn. Rất đúng. Thế nhưng, ở đây, người kể lại cứ muốn diễn-giải thêm đôi chút để câu truyện có lý-chứng nói về tình-huống rất không phải ở nhà Đạo hoặc ngoài đời. Tình-huống con người xử-sự có đúng và phải Đạo hay không cũng tuỳ tâm tùy tánh của mỗi người.
Quả là, có tâm Phật hoặc tâm-can con của Chúa, mới ứng-xử tốt với tha-nhân mọi người ở đời. Chí ít là người đối-tác ở đời phía bên kia, rất phái-tính.
Giả như bạn và tôi, ta vẫn thấy không mấy thuyết-phục với lý-chứng do người kể vừa đưa ra, thì đây xin mời bạn và mời tôi, ta lại xem thêm một truyện “tưởng-như-đùa” hoặc “chuyện phiếm” khác, rất như sau:
“Nhân-viên nọ, tới sở làm trong tình-huống hai tai bị băng bó. Ông Trưởng sở của anh ấy thấy vậy, bèn dò hỏi xem chuyện gì vừa xảy ra, hôm qua. Anh trả lời:
-Chả là: hôm qua, đang lúc tôi ủi chiếc ao sơ mi trắng nõn, thì chuông điện-thoạt bất chợt reo lên. Tôi vội chụp lấy bàn ủi điện ấy lên thay vì ống nói điện-thoại rồi áp vào tai mà trả lời.
Ông trưởng-sở bèn có ý-kiến phản-hồi rằng:
-Rồi xong! Điều này giải-thích được về một bên tai bị phỏng. Thế, còn tai bên kia, thì tại sao?
-Đó là do bởi cái thằng ngu bên kia lại gọi một lần nữa, thế mới chết!”
Thật ra thì cũng chẳng chết thằng Tây nào hết ráo trọi. Bởi lẽ, cả nhân-viên ở sở làm cũng như ngài Tô Đông Pha của ta, đâu biết rằng cuộc đời mình vẫn có những thứ và những sự rất tréo cẳng ngỗng! Bởi không thận-trọng và khôn-khéo thì rồi ra ai cũng có thể là nạn-nhân hoặc phạm-nhân của bất cứ sự việc nào trên đời, cả.
Nhận-định thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta kết-thúc chuyện phiếm hôm nay bằng lời ca trên do người viết nay thành người thiên-cổ, ra như vẫn còn khốn-khó với ca-từ rằng:
“Biết bao ngày đã qua,
Biết bao chiều xót xa.
Ngồi đếm những giọt nắng,
Rơi rụng trước mái hiên nhà.
Người sao chưa thấy ghé qua.
Dù con tim vẫn thiết tha,
Mộng xưa cũng vơi theo tháng ngày.”
(Lê Hựu Hà – bđd)
Thật đúng thế. Giấc mộng lớn/giấc mộng nhỏ, của con người, nay cứ “vơi theo tháng ngày” đã qua, “dù con tim vẫn thiết tha” vào “biết bao chiều xót”, giống như người “ngồi đếm những giọt nắng, rơi rụng trước mái hiên nhà”. Nhà, của tôi và của người vẫn còn đó trên đời.
Trần Ngọc Mười Hai
Rất muốn cảm thông
với mỗi người và mọi người
ra như thế.
Chuyện Phiến Đạo đời Chúa Nhật thứ 18 Thường Niên Năm A 31.07.2011
“Rồi đây, mây xám bay qua rồi”
“Trong gió reo hẹn ước, không thôi”
Là lúc, tin yêu lên ngôi
Ta hát, khúc chung đôi.”
(Lê Trọng Nguyễn – Chiều Bên Giáo Đường)
(1Cr 10: 25 -27)
Bên giáo đường, vào buổi chiều, mà lại thấy “mây xám bay qua rồi”, và những là: “tình yêu lên ngôi”, “ta hát khúc chung đôi”, thì ôi thôi, thật quá đẹp! Tuy là thế, nét đẹp ấy còn nhân lên thêm rất nhiều lần, khi người người hát câu tiếp:
“Vàng rơi, bên gót chân son mềm,
Trên lối đi về xứ hoa duyên
Tà áo trinh nguyên tung bay, nụ cười thân ái.”
(Lê Trọng Nguyễn – bđd)
“Nụ cười thân ái” ấy, hôm nay đây, không chỉ thấy có ở giáo đường, vào buổi chiều. Nhưng, sẽ còn thấy dài dài, khi “tà áo trinh nguyên tung bay’, “trên lối đi về xứ hoa duyên”, có “gót chân son mềm”, ánh vàng rơi.
Phải thế không anh? Có đúng không chị? Hỡi người anh/người chị của tôi và của bạn, vẫn cứ lân la bên giáo đường, những buổi chiều? Hỏi là hỏi thế, chứ bần đạo đây, nay biết chắc một điều, là: nhiều người/nhiều vị, dù đã có tuổi hay chỉ mới có tên ở xứ đạo lền khên bên nhà, vẫn thích mục “khi-ly-khi-tô” ở nơi nào, hơn là đến “bên giáo đường”, mà nguyện cầu!
Dĩ nhiên, đây chẳng là xác quyết của một ai. Nên, cũng không cần bằng chứng. Bởi, tìm bằng chứng mà làm gì, khi trên trang mạng ngày nay vẫn thấy đầy những truyện kể rất dễ nể, như sau:
“Truyện rằng: Có cô vợ trẻ, thuờng đi làm về trễ, nên chồng ở nhà cũng không thấy có gì để lo lắng. Nhưng một hôm, cô về trễ hơn mọi ngày nên nghĩ rằng chồng mình ở nhà sẽ rất lo, bèn vội báo cáo ngay khi vào tới cửa:
-Hú hồn! Thoát rồi anh ạ!
-Thoát, là thoát gì thế, em?
-Thoát chết đấy! Tối nay trên đường về, em gặp một tên vô lại nó dí dao vào cổ em rồi quát tháo: Yêu thì tha, kêu la thì chết!
-Trời ơi! Thế rồi làm sao? Em giải quyết thế nào?
-Em xin tha. Thế là nó tha, chẳng cần yêu iếc gì hết….”
“Chẳng cần yêu”, ý nghĩa câu nói ở trên là thế nào, làm sao biết? Chỉ biết mỗi điều, là: chắc cô vợ và tay tệ nạn cũng chỉ hiểu ý nghĩa chữ “yêu”, không theo lẽ Đạo, nên mới thế? Chắc, người người ở đời vẫn hiểu tình yêu theo nghĩa chữ, ở bên dưới:
“Theo hoá học, tình yêu là phản ứng hoá học sinh ra axít.
Theo vật lý, tình yêu là lực hút mạnh hơn lực của trái đất, vẫn cứ hút.
Theo toán học, thì tình yêu là phép trừ của túi tiền, phép chia của trái tim, phép nhân của cộng đồng nhân loại, và phép cộng của rắc rối, trong cuộc đời.
Theo văn học, thì tình yêu là cuốn sách dầy đọc từ đầu trang đến cuối trang, vẫn không hiểu gì cả!…”
Vâng “yêu” là như thế. Cả người nói lẫn người nghe vẫn chẳng hiểu gì, như ca từ ta cứ hát:
“Hồi chuông thiêng sức loang mây trời
Rung nắng Xuân chiều xuống chơi vơi
Lời hát vang đưa cô liêu bên giáo đường yêu.”
(Lê Trọng Nguyễn – bđd)
Không hiểu gì, là bởi: làm gì có chuyện “đưa cô liêu bên giáo đường yêu.” Giáo đường bao giờ mà chẳng rất “yêu”, chứ nào có cô liêu. Cô đơn. Hay cô độc! Có cô liêu chăng, chỉ gồm những bạn gặp phải tình buồn, chốn yêu đương thần thánh, có giáo đường thần thiêng đồng đạo vẫn yêu Chúa. Yêu người. Nên, đâu dám hát lời ca buồn, sau đây:
“Nguyện cầu gục đầu bên hoa mắt, ướt nhòa
Hồn anh buồn trống duyên anh còn sống đời bềnh bồng
Nguyện cầu gục đầu bên nhau mắt, ráo sầu
Xa dần đen tối tìm màu Xuân mới, trên làn môi.”
(Lê Trọng Nguyễn – bđd)
Mắt em và mắt tôi, dù có “ướt nhoà”, “sầu buồn”, “hồn anh (có) buồn trống”, “sống đời bềnh bồng” gì đi nữa, thì “màu Xuân mới” vẫn cứ đến “trên làn môi” của anh và của tôi, vẫn đang cười. Rất nở rộ. Và, hồn anh/hồn tôi, cũng như hồn mọi người dù khô cứng, đọng ngưng, vẫn hy vọng tình Chúa đỡ đần. Giùm giúp. Cũng chóng thôi.
Hồn khô cứng, rất ngưng đọng, là tâm trạng của dân con đi Đạo vào mọi thời. Chí ít, là thời có nhiều thứ hấp dẫn hơn chuyện “Chiều bên giáo đường”, kể ở trên. Giáo đường hôm nay, còn nhiều người vẫn ưu tư/thắc mắc về động thái/hành xử ở giáo đường, mỗi sáng chiều. Vì ưu tư/thắc mắc, nên có vị đã phải chạy đến với đấng bậc để hỏi han, lan man một tình tiết rất như sau:
“Thưa cha. Con cũng chẳng biết những gì đang xảy đến với con vào lúc này. Nhưng, sao con cứ thấy tâm hồn khô khan, nguội lạnh mỗi khi đọc kinh cầu nguyện không giống như dạo trước. Tức là, độ này con không còn thấy sốt sắng đi nhà thờ đọc kinh, hoặc chầu Mình Thánh Chúa nữa. Và, con cảm thấy như Chúa đang ở nơi nào đó, rất xa vời đối với con. Nhiều lúc, con lại nghĩ là: không biết mình có nên tiếp tục đọc kinh cầu nguyện không, khi lòng mình ra chai đá, cả vào lúc này. Theo cha nghĩ thì con nên làm gì đây, bây giờ? (Một giáo dân thắc mắc rất nhiều điều)
“Thắc mắc rất nhiều điều”, đâu có là tâm trạng của anh/của chị, rất hôm nay. Không thắc mắc, mới là chuyện lạ. Bởi, bình thường thì đấng bậc nhà mình đâu còn gì để làm, hoặc để phán nếu chẳng có ma nào thắc mắc, với hỏi han! Cụ thể như đấng bậc ở Sydney này những mong và đợi xem có người anh/người chị nào thắc mắc rất như thế, để còn thưa. Và đấng bậc, nay thưa rằng:
“Có thể nói, chị là người thứ hai trong vòng có một tháng trời, vẫn hỏi tôi những câu như thế. Và, tôi tin chắc crằng òn nhiều người khác nữa, cũng thắc mắc những điều tương tự, do bối rối. Bởi thế nên, chúng tôi mới có mục giải đáp các thắc mắc cho bà con, ở cột này.
Điều mà chị hoặc ai đó đang kinh qua cảm nghiệm này, là điều mà nhiều người từng trải, mà chúng ta có thói quen gọi đó là sự khô khan, nguội lạnh về đàng thiêng liêng, đạo đức. Bởi, hay rơi vào trạng huống này, người người đều thấy rằng mình ít sốt sắng hoặc chẳng sốt sắng chút nào hết. Vẫn cứ lo ra/chia trí cách nào đó, không còn thấy mình gần gũi Chúa nữa.
Nhìn vào thời xưa cũ, nhiều người thấy mình không còn như trước nữa. Tức, không dễ dàng tập trung nguyện cầu, gần gũi Chúa. Nay thì khác. Người người vẫn tự hỏi: không biết ta có nên cầu nguyện nữa hay không? Bởi, có nguyện cầu cho lắm, thì cũng đâu làm Chúa hài lòng được nữa.
Thật ra, đây là tâm trạng chung mà nhiều người đang mắc phải. Ngay đến các thánh cũng thấy những trường hợp tương tự. Ai cũng biết, Mẹ Têrêxa thành Calcutta cũng từng kinh qua điều mà mẹ gọi là “những đêm tối trời của linh hồn”, vào những lúc như thế, mẹ Têrêxa thấy như Chúa đang xa rời mình, quá đỗi.
Hệt như thế, thánh nữ Têrêxa thành Avila cũng từng mô tả thời gian dài đằng đẵng, khí đó thánh nữ như cảm thấy rất đau khổ vì sự khô khan/nguội lạnh, khi nguyện cầu. Thánh nữ viết: “Tôi nghĩ, với tôi, thật khó lòng bền đỗ suốt 18 năm liền, phải chịu thử thách như thế. Vẫn cứng lòng tin, là do tôi không thể tập trung suy tư, được. Trong thời gian này, ngoại trừ những lúc rước Mình Thánh Chúa vào lòng, còn ngoài ra, tôi chẳng thể nào dám cầu nguyện mà lại không dùng đến sách kinh. Linh hồn tôi lúc ấy thật đáng khiếp sợ chả dám cầu điều gì nếu; không sao đánh đuổi lũ quỷ cứ chực rình rập mình sơ hở. Bởi, thông thường thì, tôi ít khi gặp phải nỗi khổ chịu cảnh khô kha/nguội lạnh. Điều này chỉ xảy đến, khi tôi không có sách kinh, ở trong tay. Khi ấy, lập tức hồn tôi đâm bối rối; và đầu óc tôi cứ thế rong chơi. Kịp đến khi tôi bắt đầu đọc kinh, thì mọi tư tưởng mới tụ hội trở lại. Như thế, sách kinh đóng vai trò móc mồi câu linh hồn của mình.” (x. Cuộc đời #4)
Khô khan nguội lạnh về đường thiêng liêng/đạo đức có thể chỉ kéo dài một thời gian ngắn thôi. Có thể chỉ vài ngày. Hay vài tuần. Cũng có thể kéo dài cả tháng hoặc nhiều năm. Nếu phải kinh qua tình huống ngặt như thế, ta nên làm gì?
Trước tiên, là nên tiếp tục cuộc sống chuyên chăm nguyện cầu, chẳng cần biết mình thấy lòng trí ra sao. Bởi, ác thần/sự dữ vẫn muốn ta suy nghĩ rằng: nếu thấy mình không còn gần Chúa được nữa, thì cầu nguyện làm gì cho mệt xác. Nếu thế, ta lại càng không nên chào thua để chúng tung hoành mà phá phách.
Từ đó, phải nhận rằng: lời cầu nguyện của ta càng làm đẹp lòng Chúa hơn nếu ta cầu nguyện mà lòng trí lại thấy khô khan, nguội lạnh. Chúa ban cho ta lòng trí sốt sắng để thấy mình gần gũi Ngài như thể Ngài đang đoái hoài nhìn xuống mà cứu giúp, thì khi ấy việc cầu nguyện lại càng dễ hơn. Trường hợp này, ai cũng có thể làm được.
Thế nhưng, khi thấy mình khô khan, khó có thể gần gũi Chúa, thì mình càng phải cố gắng cầu nguyện hơn. Có như thế, càng quý giá trước mặt Ngài. Khi đó, có cầu nguyện cho lung, ta càng làm đẹp lòng Chúa chứ chẳng phải để làm vui lòng mình đâu chứ.
Ta biết chắc một điều, là: Chúa vẫn đánh giá cao động thái nguyện cầu như thế. Nếu ta có khuynh hướng nói rằng mình cũng chẳng muốn cầu nguyện vì thấy khô khan/nguội lạnh và không làm sao thoát khỏi tình huống này, thì khi ấy Chúa sẽ phán: “Ta không đánh giá lời cầu của con bằng cách xem con có ra khỏi cảnh khô khan/nguội lạnh được hay không, mà chỉ xem con có cố gắng đưa vào đó những gì của phần mình, thôi.”
Quả thế. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cho biết là cầu nguyện bao giờ cũng đòi hỏi phấn đấu: “Cầu nguyện vừa là quà tặng/ân huệ, vừa là quyết tâm đáp trả, từ nơi ta. Cầu nguyện bao giờ cũng cần cố gắng. Các hình ảnh về việc nguyện cầu trong sách Cựu Ước, trước thời Chúa xuống thế làm người, cũng như lời cầu nguyện của Mẹ Đức Chúa và các thánh, và của chính Đức Giêsu, đều dạy ta điều này: cầu nguyện quả là sự phấn đấu. Phấn đấu kình chống ai? Chống lại mình! Chống mọi chước cám dỗ nào khiến ta xa rời việc cầu nguyện và rời xa, không còn hiệp thông với Chúa nữa.” (x GLHTCG #2725)
Cuối cùng thì, khi thấy mình ra khô khan/nguội lạnh, là lúc ta có dịp tập dượt lại niềm tin trong nguyện cầu. Sách Giáo Lý cũng viết: “Khô khan nguội lạnh, là cung cách chiêm niệm nguyện cầu khi lòng trí ta xa vời Chúa, không cò vị ngọt của tư tưởng, ký ức và cảm xúc. Cả đến xúc cảm thiêng liêng, đạo đức nữa. Đây là thời khắc có niềm tin gắn bó với Chúa khi Ngài ở trong cơn hấp hối, với mộ phần. Thấy khô khan, là do ta thiếu bám rễ sâu. Là, do lời cầu của ta đã rơi xuống đá sỏi, nên cuộc chiến đấu đòi ta hồi hướng trở về.” (x.GLHTCG #2731)
Tóm lại, khô khan/nguội lạnh về đường thiêng liêng, đạo đức có thể có điều lợi là ta dễ đặt mình vào tình huống có ân huệ Chúa ban. Và, có thể có lợi về đường thiêng liêng, đạo đức do sự việc như thế đem đến. Cuối cùng, thì điều quan trọng vẫn là: chớ nên ngưng nguyện cầu bao giờ, dù thấy khó” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly 05/6/2011 , tr. 10)
Nghe lời khuyên răn/tâm sự từ đấng bậc vị vọng ở trên, tựa như nghe bài giảng thuyết, cũng rất quen. Quen từ hồi, tôi và bạn, ta học giáo lý ở nhà thờ. Rất chuyên chăm. Thầm lặng. Nghe và học như thế, có nghĩa là mình cũng từng nghe, nhưng quên lãng. Thế thì, những người chưa từng nghe và học biết, thì sao? Làm thế nào hiểu được những lời cao siêu/mầu nhiệm, rất cô đọng? Câu trrả lời, có lẽ nên để các thánh nam nữ của Giáo hội, vẫn có thừa phương cách để trả lời, và trả vốn.
Bần đạo đây, vốn đã bần và phần đạo lại lạo xạo chỉ được dăm ba chữ, nên chẳng dám có ý kiến/“ý cò” gì. Chỉ dám trích câu Kinh (rất) thánh qua đó, thánh Gioan từng có thị kiến rất “Khải huyền”, như sau:
“Phần Ta, mọi kẻ Ta yêu mến,
thì Ta răn bảo dạy dỗ.
Vậy, hãy nhiệt thành và hối cải ăn năn!
Này đây Ta đứng trước cửa và gõ.
Ai nghe tiếng Ta và mở cửa,
thì Ta sẽ vào nhà người ấy,
sẽ dùng bữa với người ấy,
và người ấy sẽ dùng bữa với Ta.”
(Kh 3: 19-20)
Về với thói quen rất cố hữu khi có những lời hỏi han khá “hóc búa” như trên, bần đạo lại cứ từ từ trở về với ca từ của nghệ sĩ trên để hát thêm lới ca cuối, có đoạn kết, rằng:
“Rồi đây mây xám bay qua rồi,
trong gió reo hẹn ước không thôi.
Là lúc tin yêu lên ngôi,
ta hát khúc chung đôi.”
(Lê Trọng Nguyễn – bđd)
Khúc chung đôi, là khúc hát của tôi, chứ không hẳn bạn, vẫn muốn hát. Vào lúc này.
Trần Ngọc Mưới Hai
nhiều lúc vẫn muốn hát
vì hát là nhân đôi lời nguyện cầu.
Ở bất cứ nơi đâu.
Mai Tá,
July 26, 2014
Suy Niệm Chúa Nhật thứ 18 Thường niên Năm A 31.07.11
“Mưa bay! Mưa bay! Ấm cúng trong này.”
“Một hôm trời bão, Em vào chơi đây.”
(dẫn từ thơ Đinh Hùng)
Mt 14: 13-21
Mưa bão hôm ấy, cộng đoàn dân Chúa cũng đã hay tin về cái chết của thánh Gioan Tẩy Giả. Rất nghiệt ngã. Ấm cúng nơi này, lòng người cũng đã được Chúa sưởi ấm bằng phép lạ nhân rộng bánh/ cá cho mọi người. Rất lạ thường. Lạ, như trình thuật thánh Mátthêu ghi lại, rất hôm nay.
Trình thuật hôm nay, thánh Mátthêu ghi về sự kiện rất đặc biệt trong đời Chúa. Nhưng không dễ, để diễn tả xem đó là sự kiện gì. Và không dễ, để áp dụng vào đời sống của ta hôm nay.
Sự kiện hôm ấy, có Đấng Mêsia ra ngoài trời rảo bộ đã thấy cả ngàn người Do thái đi theo Ngài. Chạnh lòng thương, Chúa đã nuôi ăn cả ngàn người chỉ với 5 tấm bánh và hai con cá. Vẫn hiểu rằng, đây là phép lạ do Chúa làm. Phép lạ duy nhất trong cả bốn sách Tin Mừng. Nhưng được nhắc đến những 6 lần: riêng thánh Máccô và Mátthêu mỗi vị ghi chú đến 2 lần; thánh Luca và thánh Gioan mỗi vị chỉ một lần. Các thánh đều coi đó như biến cố lớn trong đời hoạt động công khai, của Chúa.
Nhờ thánh Mátthêu, ta được biết Hêrôđê cũng đã tổ chức một bữa tiệc cho người giàu có và trong đó có cả người nghèo nhưng không hèn, là thánh Gioan Tẩy Giả vừa trả giá rất đắt, bằng đầu mình. Cho bữa tiệc. Trái nghịch lại buổi tiệc đầy tai tiếng ấy, là tiệc ngoài trời do Chúa khoản đãi những kẻ đói/nghèo, thôi. Người giàu khi ấy, đâu biết rằng mình đã bỏ lỡ cơ hội đến tham dự.
Thế rồi, điều thực sự xảy đến cũng đã đến, đó là yếu tố buổi tiệc Chúa dọn, lại diễn ra ở nơi hiu quạnh. Có cỏ xanh làm chiếu đất cho dân ngồi. Có thể là, tiệc Chúa dọn xảy đến vào mùa Xuân. Tức, mùa Vượt qua của người Do thái. Có thể, cũng không xa là mất chốn biển hồ Galilê, khiến Chúa phải lên đò như Ngài vẫn thường làm, hầu tránh con mắt dòm ngó của vua quan thời đó vẫn chực rình những ai qui tụ đám đông quần chúng quyết đi theo.
Đám đông quần chúng, vẫn có thói quen tụ tập quanh Ngài, ở gần hồ. Họ lắng nghe Lời Ngài diễn giải, suốt cả ngày. Và, còn được Ngài chữa lành. Ngài chạnh lòng thương và xử thế rất nhanh chóng kẻo rồi tình thế trở nên xấu xa, không kịp cho dân chúng thoát nạn. Sự thể là: dân chúng hôm ấy chẳng có gì để ăn. Làng mạc lại ở xa. Thấy vậy, đồ đệ Chúa mới xin Ngài ra tay làm động tác ngoại lệ, để giúp họ. Nhưng Ngài nói rõ: “Các ngươi hãy giúp họ…” Điều cần nhấn mạnh ở đây, là cụm từ “các ngươi” được thánh sử dùng đến. Cứ sự thường, mỗi lần có khó khăn, người người đều yêu cầu Chúa giải quyết. Hoặc, họ chỉ xin, chứ không tự mình tìm cách giải quyết.
Đồ đệ thấy thế, bèn kể Chúa nghe: “Ở đây, chúng tôi cũng chẳng có gì, chỉ một vài thứ…” không đủ cho vài người. Làm sao phân phát cho quảng đại quần chúng. Nói thế, có nghĩa: đồ đệ Chúa ở vào tình cảnh rất hãn hữu cũng đành bó tay. Tuyệt vọng. Chẳng làm gì được, hoặc có làm thì cũng không ra hồn. Đó, chính là vấn đề đặt ra cho dân con đồ đệ: luôn thấy mình bất tài. Vô vọng. Nên làm sao giúp ích nhiêu người được. Đó sự thường, mọi chuyện đều thế.
Và, đó là lúc Chúa ra tay làm thay cho đồ đệ. Ngài truyền cho đồ đệ bảo dân chúng ngồi xuống. Rồi Ngài cầm lấy thức ăn. Ngẩng mặt lên mà chúc tụng. Bẻ bánh ra. Và truyền lệnh phân phát cho dân chúng ăn. Trong hầu hết các sách Tin Mừng, ở đề mục, người đọc vẫn chỉ thấy những cụm từ, nào là: nhân rộng, hoá bánh thành nhiều. Nhưng chỉ mỗi bản Bẩy Mươi gốc Hy Lạp, là không thấy những chữ như thế. Trái lại, chỉ gồm mỗi động từ “phân phối”. Tức san sẻ những gì mình có. Cho mọi người.
Có thể là, chính Chúa gia tăng lượng thực phẩm, như ta nghĩ. Cũng có thể, phép lạ này, không chỉ là sự lạ của người trần. Do người trần làm ra, để người phàm trần biết mà san sẻ những gì mình có. Làm được thế, của cải trên thế giới mới đủ cho mọi người, quanh ta. Thật ra, người phàm trần vẫn đói nhiều kiến thức và quyền lợi đồng đều, hơn điều mình cần có, như cơm/bánh hằng ngày.
Và, khi ta đã biết sẻ san của cải thiêng liêng, như: tình yêu, lòng kính trọng và nhận biết những người sống chung quanh, thì khi đó ta sẽ không mất đi điều gì. Bởi khi ấy, ta càng được yêu. Càng được kính trọng và nhận biết từ những người được ta san sẻ. Ta tặng họ những thứ họ cần, như tình yêu. Nói cách khác, sẻ san cơm/bánh rồi cũng sẽ cạn dần thức ăn. Bởi, ai cũng đều có phần. Còn, san sẻ tình yêu, thì khác.
Ngoại trừ ngày hôm ấy, xảy ra phép lạ vật chất, rất có thật -và, chắc rằng ai trong chúng ta cũng đều tin như thế- thì điều này cũng không quan trọng bằng những điều hệ trọng ở đây, hôm nay: là chính việc sẻ san. Phân phối. Không phải việc sản sinh cơm/bánh mới rất cần, mà là sự sẻ san, cho đi.
Đó, là điều mọi người trông đợi nơi người Do thái. Nơi, dân con Đạo Chúa vẫn được coi là tốt đẹp, lành thánh. Trông đợi mọi người sẻ san những gì mình đang có, đặc biệt ở bữa tiệc, là thức ăn. Trình thuật hôm nay, không thấy ghi về nỗi ngạc nhiên trước sự “lạ” nhận thấy được nơi quần chúng, hoặc đồ đệ, về việc Chúa làm. Bởi, dưới nhãn quan của họ, đó là những việc cần phải làm. Và nên làm. Dù, họ không thấy nhiều người thường vẫn làm như thế. Những gì xảy đến là việc phải đến. Xem thế thì, sẻ san/phân phối mới là ý chính của trình thuật.
Nay lại hỏi, trình thuật truyện kể hôm nay áp dụng cho ai đây? Điều gì cần áp dụng?
Nếu chỉ nhìn một phía, hẳn ta sẽ thấy trình thuật vẫn gói trọn tín thư rất khích lệ. Tín thư đây, đề nghị mọi người hãy ra ngoài trời mà tổ chức những buổi sinh hoạt, nhưng đừng mang nhiều, cho mọi người. Cứ cầu xin thật nhiều, tự khắc Chúa sẽ làm phép lạ lớn lao, để thuận ban cho ta, hầu mãn nguyện. Phải đó là việc Chúa vẫn làm vào các buổi tụ tập, rất đông người? Ai là người khả dĩ lập lại cùng một phép lạ khi con dân Ngài hết của ăn/thức uống, mà trời thì tối. Lại xa phố xá cùng phố chợ?
Nhìn vào thế giới, nếu người người biết sẻ san những gì mình hiện có cho người khác, nhất là những người thiếu thốn hoặc chẳng có gì để sống còn, thì thực chất của vấn đề thực ra không phải chỉ là việc “nhân rộng” hoặc “hoá bánh thành nhiều”, cho mọi người. Mà là, thế giới hôm nay đã có quá nhiều thứ, cho mình dùng. Có nhiều hơn tình trạng bình thường mình vẫn có. Trong khi đó, có những thứ mình có thì lại ít hơn phải có, đó là: lòng lân tuất. Chính trực. Và, nhớ rằng: ngưới khác cần nhiều hơn mình.
Quyết sẻ san, là: nhất quyết giảm đi những gì ta đang có. Giảm, niềm vui vì có của dư của để, và sự thoải mái cho bản thân. Như thế, mới gia tăng của cải và sự thoải mái cho người còn thiếu thốn được. Phải chăng, đó là điều Chúa muốn ta làm ngay, lúc này? Thánh Phaolô có lần nói: “Quả thật, anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2Cr 8: 9-10)
Quả có thế. Khi ta có rất ít để có thể sống sót, thì lúc đó ta sẽ tìm cách trở nên người khác, không phải để có được sự thoải mái mình vẫn sống trước đây, nhưng còn phải hơn trước, rất nhiều. Phải chăng đó là điều Chúa dạy ta phải như thế, qua phép lạ “sẻ san”, cho đi này?
Ngày nay, ta không thể sửa đổi cái nghèo của thế giới bằng cách tổ chức những bữa ăn ngoài trời, cho nhiều người. Mà là, đổi thay cơ cấu kinh tế/chính trị của thế giới, tận thâm căn. Ngày nay, phải chăng cơm áo gạo tiền, là những gì thâm căn nơi kính tế thế giới? Của ăn và thức uống có là khó khăn của những người bị mất việc. Những kẻ sống vô gia cư, chết vô địa táng? Vẫn cứ lang thang ngoài phố chợ?
Và cứ thế, các vấn đề khúc mắc cứ mãi đặt ra. Có là điều bức bách đối với người không điện thoại di động? Không thẻ tín dụng. Không an sinh? Những người không có, là không có gì? Phải chăng cơm áo, gạo tiền là vấn đề bức bách nhất? Tại sao người nghèo đói lại là người dễ bị SIĐA nhất?
Tại sao ta vẫn được bảo cho biết: phân nửa dân số thế giới hôm nay vẫn cứ than phiền là mình không đủ ăn? Tại sao phân nửa số người còn lại, chỉ phàn nàn về tham vọng. Dục vọng. Và, khát vọng? Có lẽ, đã đến lúc ta nên ngồi lại mà tái thẩm định hệ thống giá trị, để rồi sẽ làm được điều gì đó, cho mọi người. Chí ít, là những người còn thiếu thốn. Nghèo hèn. Khá bức bách.
Phải chăng trình thuật hôm nay chỉ kể đến bẩy thứ, như cá và bánh Chúa ban cho những người theo chân Ngài, mà nghe giảng? Không. Tám thứ mới đúng. Bởi, ở buổi Tiệc Ly, chính Chúa cũng ban cho ta Thân Mình Ngài, để ta nhận lấy mà ăn. Giả như, ta thực sự nuôi sống bằng sự hiện diện của Ngài. Bằng, hệ thống giá trị Ngài ban cho, có lẽ thế giới mình đang sống, sẽ khác. Hẳn là, khi ấy, ta mới thực sự có được bữa tiệc ngoài trời, Chúa tổ chức. Theo kiểu của Ngài. Mới đúng.
Trong tâm tình đó, cũng nên ngâm câu thơ để ngỏ của nhà thơ viết về sự “Ấm cúng”, như:
“Em bớt lạnh chưa?
Lòng tôi kề đó,
Một ngọn đèn đỏ,
Đôi lòng đêm xưa.
Em ngồi em nhớ,
Tôi ngồi tôi mơ:
Một đời nho nhỏ,
Một phòng xinh xinh,
Cảnh trời mưa gió,
Và hai chúng mình.”
(Đinh Hùng - Ấm Cúng)
Với nhà thơ, bớt lạnh chỉ mỗi hai chúng mình. Nhưng với nhà Đạo, người bớt lạnh,chỉ khi nào ta biết sẻ san nhưng cơm, cùng áo. Với gạo tiền. Đó cũng là ý nghĩa của trình thuật, rất hôm nay. Và mai ngày. Ở nơi đây.
Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh –
Mai Tá lược dịch.
dongcongnet-sưu tầm 27-7-2011