dongcong.net
 
 

Hai đoản khúc suy tư

 

Suy tư tuần này, lại thấy có giòng thơ những ngâm rằng: 
 “Ở đây châu báu vô tri hết,”
Pho sách quần phương lộ ý nhiều.”
 Thơ ngâm rồi, người lại hát:
“Sàigòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời,”
Sàigòn ơi, thôi đã hết thời-gian tuyệt vời.
Giờ còn đây, những kỷ-niệm sống trong tôi,
Những nụ cười nát trên môi, những giọt lệ ôi sầu vắng.”
Thế mới biết, có ngâm thơ hoặc có hát hò cho lắm, đôi lúc vẫn thấy vương vấn đôi giòng chảy cũng rất buồn và khó quên. Dù khó thế nào đi nữa, cũng xin bạn và xin tôi, ta vẫn cứ suy-tư liên hồi để rồi sẽ có quyết-định riêng cho đời mình. Vâng. Trên đây là tâm-tình của người viết và cũng là người dịch xin được gửi đến người anh người chị ở Nước Trời Hội thánh, rất hôm nay.
Mai Tá
www.giadinhanphong.com


Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ 19 mùa Thường niên năm A  10-8-2014 

“Ở đây châu báu vô tri hết,”
Pho sách quần phương lộ ý nhiều.”
(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử) 

Mt 14: 22-33 
            Châu báu vô tri của nhà thơ, nay lộ ý nhiều ở pho sách quần phương, rất lộ ý. Trân châu báu vật của nhà Đạo, lâu nay vẫn thể-hiện nơi tình người đi Đạo, rất chân phương, thân tình, nhiều ý-nghĩa          
            Tình người chân-phương/thân tình, nay diễn-tả ở trình-thuật được thánh Mát-thêu ghi rõ, đã thấm-nhuần nhiều truyện dân-gian đời thường, rất được ưa chuộng. Dân-gian truyện đời thường hôm nay, lại thấy có câu truyện về vai-trò của nữ-lưu phụ-trách công-cuộc mục-vụ ở tôn-giáo bạn, cũng là tôn-giáo đặt nặng Tình Chúa rất thương-yêu con người,  
Tại làng chài vùng ven nọ, các anh em trong Giáo hội Tin Lành luôn cố gắng kiếm tìm cho được một chủ chăn mới thay cho vị mục sư cao-niên đã đến cõi. Sau nhiều chống đối từ các tín-đồ trong đó có Jimmy trong vai người chủ chốt. Cuối cùng thì, Hội thánh sở tại lạ đã mời được vị nữ-lưu tên Gayle phụ-trách vai-trò chủ chăn rất sáng-giá.
Nữ chủ chăn tên là Gayle lúc đầu hơi ngỡ ngàng, nhưng sau nhiều tuần quen dần với công-tác mục-vụ, cũng dễ dàng. Mùa nghỉ đã đến, thành-viên cộng-đoàn do anh Tom điều động, đã tổ chức chuyến đi câu nhằm mục-đích mời vị chủ-chăn tham quan, có dịp thư giãn cùng thưởng-ngoạn niềm an vui, rất mục-vụ.
Jimmy được yêu-cầu cho mượn xuồng để bà con có dịp thăm viếng miền sông nước. Jimmy rất đồng ý, nhưng Anh ra điều-kiện đòi làm hướng-dẫn-viên cho buổi vui này. Và thế là, mọi người lên xuồng, để ra đi. Đi được một quãng ngắn, bà con chợt nhận ra là mồi câu còn để trên bờ. Có người đề nghị quay trở lại lấy mồi.
Nhưng, chủ chăn là chị Gayle không đồng ý. Chị bước xuống khỏi xuồng, bỏ đi vào bờ. Jimmy thấy vậy, anh cũng chẳng ngạc-nhiên chút nào về khả-năng lội bộ của vị chủ chăn tên Gayle, bèn nói mau: “Quý vị thấy chưa, tôi đã nói là mình không nên nhờ bà ấy lo việc mục-vụ cho giáo-đoàn mình, mới phải. Bà ta nào biết bơi, nên mới thành chuyện.”
Thành thử, bỏ bạn bè đồng cảnh ở lại chơ vơ trên thuyền, lại cũng là kinh nghiệm khó nghĩ, khó xử cần suy tư nhiều, để tìm hiểu. 
Những ai từng xem phim Shrek nhiều tập, hẳn cũng đều đồng ý là bộ phim này có nhiều điều rất hay và rất tuyệt, nhưng nhiều chỗ có hơi khó hiểu. Các nhà phê-bình kịch-bản để làm phim, phải cắt-nghĩa là: tác-giả đã dùng cung-cách được gọi là “nguyên-bản tương-tác” lấy sự-kiện nguyên-bản ở chỗ này, rồi khéo-léo đưa vào bản-văn ở chỗ khác để ông có thể tiếp-tục kể nốt cốt-truyện làm nên cho bộ phim. Làm thế, mới đưa ra được cái hay/cái đẹp của bộ phim.
Trong phim này, có một số điều được rút từ nhiều điển-tích cổ xưa, rất cố-hữu. Thành thử, muốn biết rõ bản-chất mỗi nhân-vật, người xem cần hiểu/biết các điển-tích tuy xưa/cổ đã hàm-ẩn, ở trong phim. Đôi lúc, người thưởng-ngoạn lại có cảm-tưởng là cốt truyện đã bị đảo-ngược không còn giống câu truyện vào lúc ban đầu nữa.
Tuy nhiên, những chuyện như thế đã không làm cho bộ phim nhiều tập Shrek mất đi tính ăn khách, thích thú cần đem đến với người xem. Cuối cùng thì, mọi người vẫn đổ xô, rủ rê nhau xem cho đủ hết mọi tập, dù truyện phim có quá nhiều điển-tích, nhiều chỗ cũng khó hiểu.
Truyện kể về việc Thần Khí Chúa bay là là trên mặt nước cũng tạo yêu-tố gây kinh-ngạc không ít, giống hệt tập phim truyện Shrek. Trong mười một đoạn văn Tin Mừng do thánh Mát-thêu ghi, nhiều chỗ cũng được rút từ nhiều điển-tích rất cổ xưa có sẵn trong Cựu Ước.
Thánh Mát-thêu lại đã đem một số điển-tích ấy vào thể-văn riêng của ngài và diễn-giải thêm cho phù-hợp nhân cách Đức Giêsu Kitô. Ngày hôm nay, đọc trình-thuật của thánh-nhân theo cảm-nghĩ của người đương-thời, hẳn nhiều người sẽ thấy lạc lõng, bơ vơ, không đồng bộ. Họ thưởng thức mỗi cốt truyện, chứ không nắm-bắt được cốt-lõi của bản văn. Thật ra, tín-hữu cộng-đoàn thời tiên-khởi không như thế. Mỗi khi thánh Mát-thêu diễn-giải điều gì ở trình thuật, ai cũng hiểu mọi ý-nghĩa đã kể trong truyện.
Nơi Cựu Ước, tín-hữu kỳ-cựu như ông Giób vẫn thấy văn-bản trình-thuật diễn-tả trọn vẹn ý-nghĩa sự việc Chúa hiện-diện cả trong cơn phong-ba, sóng dồn, vốn là ảnh-hình nói lên các hiểm-họa gặp thấy ở trong đời. Ảnh-hình về “thuyền con” trong trình thuật, là biểu-tượng về Hội-thánh cũng đã gặp nhiều phong-ba/sóng dồn, vào thuở đầu.
           

Với thánh Mát-thêu, các môn-đệ Chúa đều có mặt trong tình-cảnh đó. Hình ảnh Đức Kitô bay là trên mặt nước, là âm-vang cố-hữu về họat-động của Thần-Khí Chúa trong trình-thuật tiên-khởi ở sách Khởi nguyên. Ngay đến việc Đức Kitô từng khiến cho sóng êm, biển lặng cũng để tiếp-nối công-việc mà ngôn-sứ Giô-nah đã làm vào khi trước.
Thành thử, người đọc nào những muốn say-mê tìm-hiểu Kinh-thánh, sẽ thấy nhiều biểu-tượng vẫn đồng-bộ, ăn khớp với các điển-tích được ghi nhiều trong sách Cựu-Ước, vào thời trước.
Trình thuật hôm nay cũng thế, thánh Mát-thêu đã chứng-tỏ biệt tài viết lên Tin Mừng cách độc-đáo qua ngôn-ngữ riêng-tư của chính ông. Đi vào chi tiết, ta sẽ còn thấy thánh-nhân chú-trọng nhiều đến thông-điệp mang tính thần-học hàm-ẩn như sau: Đức Kitô, là Người Con Độc Nhất của Thiên-Chúa-là-Cha, là Chúa tể mọi Tạo dựng, vẫn trung-kiên với đồ-đệ của Ngài. Chẳng cần biết sông/biển có vỡ ào, sóng nước có dồn dập, hoặc dân con/người phàm có khiếp-sợ nguy-cơ tai-biến đến thế nào đi nữa, Chúa vẫn cứu, đem họ về với công-trình tái tạo-dựng nên người mới, vẫn rất mới.
Cũng hệt thế, Hội-thánh Chúa thừa-nhận rằng Ngài đã hoàn-tất công-trình tạo-dựng mà lâu nay toàn-dân Israel hằng trông đợi nơi Ngài. Họ mong được mục-kích và ôm giấc mộng ấy vào trong lòng. Vẫn cảm-thông với công-cuộc cứu-vớt của Đức Chúa, dù đôi lúc nhận thấy nhiều biểu-tượng và điển-tích cũng không mấy dễ hiểu.
Vấn đề là: hôm nay đây, tất cả các truyện cổ, cùng điển-tích ấy có đem đến cho ta điều gì tốt đẹp, nhiều hay không?
Quả thật, chúng ta đều là kẻ kế-thừa lòng tin của thánh sử Mát-thêu, từng tỏ rõ. Hôm nay đây, vốn có mặt trong buổi Tiệc thánh này, là vì ta tin rằng Đức Giêsu, Người Con Độc Nhất của Thiên-Chúa-là-Cha, Đấng đã cứu-vớt ta ra khỏi chính thân-phận người phàm chốn gian-trần của mình, để sẽ không còn bị lớp phong-ba bão-táp cùng sóng dồn ở cuộc đời những miệt mài, đầy hủy hoại là thế.
Đằng khác, thông-điệp thánh-sử chuyển đến cho ta hôm nay, còn nói lên rằng: trong mọi phong ba bão táp từng đe dọa con thuyền cuộc sống của ta, phải chăng ta vẫn gặp được may dù không biết bơi vì Đức Giêsu chẳng bao giờ học-hỏi để biết bơi, hết?
             Cảm-nhận được sự thể như thế, ta lại sẽ ngâm lên lời thơ đang ngâm dở, rằng:
            “Ở đây châu báu vô tri hết,
Pho sách quần phương lộ ý nhiều.
Hãy tìm cho được hoa cung cấm,
Xem thử trong hoa có mỹ miều?”
(Hàn Mặc Tử - Nhớ Thương)

            Châu báu vô-tri ở trong sách, và hoa cung-cấm có mỹ-miều, lại cũng là những thứ ta có thể tìm ra được trong cuộc sống vẫn rất đẹp, “lộ ý nhiều”. Ý rất lộ, được thánh-sử diễn-tả bằng hình-tượng dân-gian đằm thắm, rất mỹ-miều, vẫn không thiếu ở chốn nhân-gian tình người, rất chân-phương.
Lm Richard Leonard sj
Mai Tá lược dịch

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 19 mùa Thường niên năm A 10-8-2014 

“Sàigòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời,”
Sàigòn ơi, thôi đã hết thời-gian tuyệt vời.
Giờ còn đây, những kỷ-niệm sống trong tôi,
Những nụ cười nát trên môi, những giọt lệ ôi sầu vắng.”
(Nam Lộc – Sàigòn ơi vĩnh biệt)

(Mt 10: 34-35)
Nói lời vĩnh-biệt, mà sao anh lại cứ hát: “Sàigòn ơi, tôi xin hứa rằng tôi trở về!”. Hát thế rồi, anh còn cam kết: “Người tình ơi! Anh xin giữ trọn mãi lời thề...” Những lời như thế, đã được ca-sĩ Khánh-Ly hát thay cho tác-giả Nam Lộc khi cả hai vị đều có mặt vào buổi diễn ở hội-trường sân-khấu có tên gọi rất “Belle Vue” ở Bankstown, Sydney hôm 21/6/2014 vừa qua. Nhạc sĩ Nam-Lộc điều-khiển chương-trình nhạc-hội tối hôm đó, đã tuyên-bố: anh viết bài này, cho riêng anh và gia-đình, mà thôi.
Viết cho ai thì viết, chỉ cần biết là: anh đã hứa và đã xin “giữ trọn lời thề”, rất như thế. Riêng bần-đạo bầy tôi đây, trước đó chừng tuần lễ, cũng được đấng bậc vị-vọng là đương-kim Giám mục phó quản-cai giáo phận Vinh có ngỏ ý mời về thăm quê-hương cũ để chứng-kiến xứ sở mình, nay đâu còn những “giọt lệ ôi sầu vắng”, lại vẫn là “thời-gian tuyệt vời” trên cả mức tuyệt-diệu từ xưa nay.
Được lời như cởi tấm lòng, bần-đạo đây chợt nhớ Sàigòn rất “hoa-lệ” của mình và của người vào những ngày thành-phố này được gọi là “Hòn ngọc Viễn-Đông”, nhưng không phải là “Nước mía Viễn-Đông” bên hông Bộ Công Chánh thuở trước cạnh đại-lộ Lê Lợi, lúc mà quán xá chiều hôm cứ bày bán những là phá-lấu với bò bía, gỏi bò khô... thôi thì đủ mọi món hàng ở gần bên.
Sở dĩ bần-đạo dài giòng nhắc lại địa điểm vẫn gợi nhớ dễ như thế, là vì: bản thân mình cũng đã hai lần “rồi đến rồi đi, tôi vẫn xin tạ ơn đời, tạ ơn người, tạ ơn ai đã cho tôi “một thời để nhung nhớ.
Vâng! Đã hai lần, bần đạo từng đến với Sàigòn-hoa-lệ rất “Hòn Ngọc Viễn-Đông” một thời thuở ấy. Lần đầu, là cùng với thân-phụ ghé bến Sàigòn năm 1949 để cụ làm việc vài năm với Nhà Giây Thép Tân Định, rồi sau đó lại đã ra đi trở về Hànội vào năm 1952 khi cụ thân-sinh qua đời. Lần thứ hai, lại cùng thân-mẫu và gia-đình lại đến với Sàigòn năm 1954, để rồi lại đã rời xa Sàigòn dấu yêu vào năm 1991, thật rất nhớ.
Vâng. “Rồi đến/rồi đi” như thế những 2 lần, nên lần này dù được đấng bậc vị vọng ở xứ “Trời Đất đầy Vinh...Quang Chúa” khẩn-khoản mời da diết như thế, bần-đạo chỉ mỗi cười trừ rồi hát tiếp:
 “Dù thời-gian có là một thoáng đam mê,
Phố phường vạn ánh sao đêm,
Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên.”
(Nam Lộc – bđd)

Vâng. Chính là như thế! Rồi đến rồi đi” tuy rất nhiều lần, nhưng làm sao quên được một “Sàigòn-Hoa-Lệ” rất diễm-lệ nhưng lại không đầy những lệ châu rơi lã chã, bao giờ cả.
Vâng, làm sao có thể hết quên rồi hát lời ca đầy hứa-hẹn, những là: “Sàigòn ơi, tôi xin hứa rằng tôi trở về”, rồi còn chêm thêm câu tiếp theo, thật ai-oán là câu: “Người tình ơi! Tôi xin giữ trọn mãi lời thề” được, khi mà ngày mai đây, tôi và bạn lại cũng chẳng biết được mình sẽ ra sao? Có còn “những nụ cười nát trên môi”, hoặc “những giọt lệ ôi sầu đắng...” đi chăng nữa.
Vâng. Cũng thật khó nói lắm, giời ạ! Bởi, bần-đạo đây, bây giờ, cũng giòng giống như tác giả bài ca ai oán ở trên, lại vẫn hát câu âu sầu, tiều-tụy rằng:
 “Tôi giờ như con thú hoang lạc-đàn,
Từng ngày qua, từng kiếp sống quên thời gian
Kiếp tha hương lắm đau thương, lắm chua cay,
Tôi gọi tên ai mãi thôi...”
(Nam Lộc – bđd)            

Vâng. Đúng ra, thì cũng y như thế. Nghĩa là: tâm-trạng của bần-đạo không khác là bao cùng một tâm-trạng của tác-giả là nhạc-sĩ Nam Lộc, có viết nhiều nhạc-bản hoặc có làm thật nhiều câu thơ thật hay, cũng chỉ để viết cho riêng mình. Tức: một mình mình hiểu, một mình mình vui, mà thôi. Hoạ hoằn, được ai thân-thương thông-cảm, cũng coi đó như ân-huệ Trời cho rất to đùng, oai hùng như biển Đông, đáng ghi nhớ.
Vâng. Bần-đạo đây vẫn nhớ như in, rằng: hôm ấy chính mình còn chẳng dám hát hoặc nói lời gì để đời như: “Sàigòn ơi! Tôi xin hứa rằng tôi trở về” với đấng bậc vị vọng là Đấng vị vọng rất Giám mục ở trên, mà chỉ dám cười trừ rồi lắc lư cái đầu như thể “lắc lư con tầu đi”, đi mãi không biết có ngày nào đó đến được bến bờ đại dương có “hòn ngọc viễn đông” năm nào, hay không nữa. Có cười trừ hay thêm vào lời hát nhái, hát đại và hát mãi hay không, cũng chẳng nhớ. Chỉ nhớ có mỗi điều như người viết nhạc từng viết những điều khi xưa đầy nhung nhớ, như:

“Sàigòn ơi, nắng có còn vương trên đường?
Đường ngày xưa, mưa có ướt ngập lối đường về.
Rồi mùa thu, lá còn đổ xuống công viên?
Bóng gầy còn bước nghiêng nghiêng?
Hay đã khóc thương cho người yêu?”
(Nam Lộc – bđd)

Vâng. Có nói nhiều và hát mãi hát dài dài như thế, bần đạo đây thật chỉ muốn nhắn với bạn và tôi rằng: khó có thể hứa điều gì, trong lúc này, vì nhiều lý-do. Thành thử, cứ thế này đi. Thế này, là: cứ để lòng mình rộng mở để Thánh Thần dẫn đưa con tầu mình về chốn nào tuỳ ý Ngài. Nói thế rồi, nay xin trở về với “chuyện phiếm” về cõi đời của người và mình vẫn còn đó rất nhiều vấn-đề.
Đời mình, thì đã có vấn-đề là như thế. Còn đời người, thì như: còn có những vấn-đề đặt ra rất thời-thượng như sau:

“Cách nay không đầy một năm, tên tuổi của con người nổi tiếng mang tên Nigella Lawson từng tạo ánh nhìn khá quyến rũ với giới thưởng ngoạn chương-trình truyền-hình thuộc hạng sang gửi đến khán-giả thích nấu-nướng hầu tạo cho gia đình cuộc sống hài hoà, êm ả rất đáng sống.

Nay thì vấn-đề tạo nguyên-nhân cho để cô ly-dị người chồng nổi tiếng với kỹ-nghệ quảng-cáo là trùm khuyến-mại có tên là Charles Saatchi được lên ảnh phổ biến khắp thế-giới với hàng chữ dùng làm đề-tựa khiến mọi người sửng sốt đến chết ngạt, như: “Saatchi và đôi tay xiết chặt cổ họng người đẹp Negelia”, đã làm cô chết lặng, chẳng nói được một lời.

Chết lặng hơn cả, là tập phim truyện truyền-hình nói nhiều về các nhóm người vẫn còn đang chiến đấu chống lại cảnh bạo-hành trong gia-đình. Những điều lâu nay còn ẩn- tàng bên dưới lớp sương mù ảnh hình không để lộ cho khán-giả biết nhiều về những điều mà lâu nay thiên hạ cứ cho rằng: bạo-hành trong gia-đình là chuyện của xã-hội trọng nam khinh nữ cứ để đàn ông xài xể phụ nữ hoặc những người thuộc phái yếu...

Vừa qua, một chuyên-gia lão luyện trong địa hạt nghiên-cứu khảo-sát có dấy lên một cao-trào để mọi người ở Úc thấy được rằng vấn-đề bạo-hành trong gia-đình không chỉ là vấn-đề của phụ-nữ hay thành-viên nào đó trong cộng-đoàn nhỏ thôi, nhưng còn là chuyện của hết mọi người, nam cũng như nữ. Và, tác-giả nhấn mạnh rằng: thật ra nạn-nhân lại chính là nam-nhân nhiều hơn nữ-giới...

Tác-giả đưa ra lời xác chứng với nhận-định, rằng: lâu nay các nghiên-cứu khảo-sát đều không ngừng cho thấy đa phần thì phụ-nữ là nạn-nhân của bạo-hành trong một xã-hội gồm các đàn ông chuyên thống-lĩnh. Nói như thế, hẳn người đọc tin cứ đinh-ninh là như vậy rồi vội tin. Nhưng, sự thật không thế. Bạo-hành xảy đến với người phối-ngẫu không chỉ nghiêng về phía phụ-nữ hoặc về một giới tính, mà ngay đến phụ-nữ cũng từng sách-nhiễu nam-giới cũng rất nhiều. Các khảo-sát mới đây ở Úc cho thấy có khoảng một phần ba nạn-nhân của các vụ này là đàn ông, con trai.

Dự án có tên là Nhận-thức Sách-nhiễu Người Phối Ngẫu viết tắt là PASK thực hiện với 1700 người ở Mỹ, do tạp-chí mang tên The US Journal Partner Abuse cho biết trong thời gian từ tháng Tư năm 2012 đến tháng Tư năm 2013, cho thấy hầu hết các vụ sách-nhiễu này là do phụ-nữ là thủ phạm và hầu hết nam giới mới là nạn-nhân. Kết quả được tóm-tắt như sau:

-24% cá-nhân những người bị người phối-ngẫu bên kia tấn công ít nhất một lần trong đời mình (23% do phụ nữ chủ chốt và 19.3% do nam-giới gây ra).
-25.3% trong số những người sách-nhiễu người phối-ngẫu của mình, thì tỉ-số phụ nữ vi-phạm nhiều hơn nam-giới.
-80% những người có kinh-nghiệm bị sách-nhiễu về tình-cảm và chủ-động đáp trả mọi khiêu-khích hoặc có chiến-thuật khống-chế hoặc đe-doạ người phối-ngẫu của mình. Qua nghiên cứ/khảo sát, thì 40% là phụ-nữ (trong sách-nhiễu cảm-xúc) còn phía nam-nhân chỉ đếm được có 32% thôi. Về sách-nhiễu mang tích miễn cưỡng thì 41% thuộc phái nữ và 43% thuộc phái nam.
-Đa số các vụ bạo-hành đều tương-tác cả hai phía. Nếu tính các nước có số dân đông đúc, thì việc bạo-hành giữa vợ-chồng được tường-trình là có đến 57% về cả hai phái nam/nữ. 41% chỉ một phái bị và trong số này thì 13.8% là do nam-giới chủ-động đối với nữ-giới, 28.3% do nữ-giới chủ-động đối với nam-giới.
-Cả hai phái nam lẫn nữ đều là thủ-phạm chủ-động trong các cuộc bạo-hành trong gia-đình là do cùng một động lực như nhau, trước nhất thường là về cảm-xúc do bị căng-thẳng thần-kinh hoặc ghen tương; hoặc do cảm-xúc tức-giận và những lý do nào khác mà tự họ không thể dùng lời nói hoặc cách-thức trao-đổi cùng đối-thoại để kéo sự chú ý của người phối-ngẫu phía bên kia.

Các khám phá từ khảo-sát/nghiên-cứu này đều nói cách chung chung rất rộng nghĩa, nhưng cũng đủ để thách-đố các nhận-định thông-thường cho thấy nam-giới là thủ-phạm trong các baọ-hành ở gia-đình. Thế thì, tại sao không kể về những cái tát tai, đấm vào mặt hoặc bắt nạt về tâm-lý do phụ-nữ đối-xử với phái nam, trong cuộc sống. Lý-do là vì phụ-nữ thường bị thương-tích nhiều hơn nam-giới trong các vụ cãi cọ, ẩu đả xảy ra trong gia-đình, đến độ phải đi nhà thương cấp-cứu. Nói tóm lại, khảo-sát này chú trọng nhiều đến nạn-nhân các vụ bạo hành-trong gia-đình hơn lý-lẽ bênh-vực phái này hoặc phái khác...” (x. Carolyn Monahan, The Fearful Symmetry of Family Violence, (MercatorNet 23/5/2014).           

Thật ra thì, ý-kiến trên đây về bạo-hành trong gia-đình, không cần đặt lại xem ai là nạn nhân ai là thủ-phạm, ai chịu nhiều thiệt-thòi, vv. Là của tác-giả bài viết dẫn ở trên, chứ không của bần-đạo, đâu đấy. Bởi lẽ, đặt vấn-đề về bạo-hành trong gia-đình hoặc nội-bộ cộng-đoàn mình chung sống, là bàn về những điều không hay và không phải. Hoặc, như người nghệ-sĩ vẫn cứ gọi đó bằng câu hát: “Tôi đã mất người trong cuộc đời”, hoặc “thôi đã hết thời gian tuyệt vời”, rồi lại hát: “Tôi như con thú hoang lạc đàn...”
Hoặc ít nhất cũng là: “Những kỷ niệm sống trong tôi”, nay không còn “những nụ cười nát trên môi” , hoặc “những giọt lệ ôi sầu đắng.” Sầu và đắng, là bởi những người đang sống trong cảnh bạo hành ở nhà hoặc trong cộng-đoàn, nay cảm thấy “Kiếp tha hương, lắm đau thương, lắm chua cay...” để rồi: “Tôi gọi tên ai mãi thôi...!”
Sầu và đắng, trong cuộc sống ở cộng đoàn nhỏ là gia-đình xào xáo, cãi tranh, tranh giành này nọ đã khiến nguời người lại nhớ lời vành Kinh Sách từng loan báo:

“Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất;
Thầy đến không phải để đem bình an,
nhưng để đem gươm giáo.
Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ
giữa con trai với cha,
giữa con gái với mẹ,
giữa con dâu với mẹ chồng.
Kẻ thù của mình chính là người nhà.”  
(Mt 10: 34-35)

Lời Chúa báo động thì như thế. Nhưng, vấn-đề đặt ra để bạn và tôi, ta suy-tư vào những ngày trời đẹp hoặc mây mù u ám vây quanh có những câu hỏi được bạn Đạo đưa ra về việc sống thực Lời Chúa, ghi nhận như sau:

“Hỏi: làm sao thày lại đoan quyết rằng: lời thánh-sử viết Tin Mừng không có ý trích-dẫn Lời Chúa nói như sự thật đã hoặc sẽ xảy ra? Vậy thì ý của thánh-sử khi viết thì thế nào?  

Đáp: Có lẽ người đọc Tin Mừng các thánh Mát-thêu, Mác-cô, Luca và Gioan viết, hầu hết vẫn nghĩ rằng những gì được viết ra là sự-kiện hoặc câu chuyện hoặc lời nói có thật từ Đức Giêsu theo tính lịch sử. Đọc Tin Mừng, ta cần hiểu rõ, rằng: tín-hữu Đạo Chúa thời tiên-khởi từng trải-nghiệm rằng Đức Giêsu vẫn có mặt ở giữa họ cả sau khi Ngài chết đi. Nói như thế, phải hiểu ý-nghĩa về sự có mặt liên-tục của Chúa đã tạo cho người chuyển-giao truyền-thống Phúc Âm một thứ tự-do rất sáng-tạo. Các tác-giả không viết nhiều về Đức Giêsu từng sống thế nào mà chỉ viết về Đức Giêsu đang sống với ta.

Viết như thế, không để diễn-tả xem Đức Giêsu từng nói và từng làm những gì, mà là Ngài đang nói gì và làm gì cho ta và với ta. Thành thử, các tác-giả Phúc Âm đều thấy lúng-túng khi diễn-tả lời nói và hành-xử của Đức Giêsu theo cách ăn-khớp với nhu-cầu tư-riêng của thời đại và cộng đoàn trong đó các ngài từng sống.

Nói như thế, tôi không có ý chối bỏ giá-trị của Phúc Âm như vẫn có. Điều tôi muốn nói là: các truyện được kể trong Kinh Sách không phải là chuyện lịch-sử, cũng không là tiểu-sử được kể lại, nhưng là lối chú-giải về thời buổi, địa điểm và cộng-đoàn nào đó, cách riêng. Thế nên, muốn biết xem Đức Giêsu lịch-sử, phải xem xét những gì tác-giả Tin Mừng muốn nói đến bên sau các chú-giải ấy, mới hiểu được”. (x. Richard G. Watts & John Dominic Crossan, Who is Jesus, Westminster John Knox Press Louisville Kentucky 1996 tr. 6-7)           

            Xem thế thì, sống Lời Chúa là phải sống như thế nào? Có phảo là: sống như thể giữ cho đúng nghi-thức phụng-vụ các ngày lễ trọng-đại mà quên trở về với cuộc sống bình thường và thông-thường ở đời không? Để trả lời, cũng nên nghe thêm lời diễn-giải của đấng bậc thày dạy trong Đạo, có những lời sẻ-san như sau:

“Sống trong đời dù chỉ gặp những điều tầm-thường về “sự việc” hoặc “sự thể” đơn giản chỉ nói về “nó” hoặc “cái đó” thôi cũng là điều tốt, bởi Thiên-Chúa tạo-dựng theo cách như thể để cho ta và Ngài chúc lành cho tất cả, bằng cả đặc-tính tích-cực của Ngài, nữa. Quả là, Thiên-Chúa vui-thích những thứ “đó” và Ngài muốn ta cũng vui-hưởng mọi điều ở trong “đó”. Theo cách này, ta sẽ cảm-nghiệm rằng: ta đang thực-sự triển-nở và đó chính là ý-định của Thiên-Chúa đối với ta, để ta sống.
Thật ra, thánh Mát-thêu biết rằng: có những điều và nhiều điểm không được tốt cho lắm, nhiều lúc còn tồi tệ nữa là đằng khác. Và, cũng có sự việc thật cũng đáng chán như chiếc máy rửa chén. Mọi người đều biết thế, nên vẫn chấp-nhận sống với “nó”. Thế nhưng, thánh-sử Mát-thêu lại để Đức Giêsu kể huỵch-toẹt cho ta biết rằng: ngay vào lúc và nơi chốn có sự thể đáng chán ngán, lại thấy nảy-sinh những khoảnh-khắc rất đáng yêu. Thành thử, ta cũng nên tìm-hiểu xem để biết “nó” như thế nào, mà cảm-kích và vui-thích rồi cảm-tạ ơn Chúa về những thứ Ngài ban cho ta.
Đọc Tin Mừng các thánh, nhất là do thánh Mát-thêu viết, đôi lúc ta vẫn thấy ra như tác-giả cũng rất thích âm-nhạc. Thánh-nhân từng viết về thứ âm-nhạc rền-vang lời vãn-than, trổi lên cùng lúc với nhạc nền của cuộc đời ta đang sống. Và, thánh-nhân lại nhấn mạnh rằng, cùng với Đức Giêsu, vẫn xảy đến các khoảnh-khắc đích-thực có loại nhạc rất trữ-tình. Đó là lúc ta nghiệm ra thế nào là đến với người khác, hăng say/tử-tế, chữa lành nhiều việc. Và Thiên-Chúa vẫn luôn có mặt để hỗ-trợ ta. Và, khi hoạt-động hăng say/năng-nổ, thì đó là lúc ta quên hết những gì đáng chán ở phần nền.

Thế đó, “nó” mới hay. Thế đó, là “sự việc” rất tuyệt-vời. Thế thì, cuộc sống mới đáng sống. Và, Thiên-Chúa cũng thế. Ngài cũng giống như ta, nghĩa là Ngài rất phấn-kích khi ta vui sống. Và, ta vẫn đang sống với và sống cùng Ngài, theo kiểu ấy.
            Ở Tin Mừng ta đọc hôm nay, thánh Mát-thêu viết về bốn thứ nhạc tuyêt-vời nơi Đức Giêsu.
           
Thứ nhất, Chúa nói đến nhạc-điệu an-vui trong đó có: người mù được thấy, người què đi được, người phung được sạch, người điếc nghe được, và người nghèo đói/ thấp hèn được nghe/biết Tin Vui An Bình. Đức Giêsu mừng kính sự sống giống như thế, ở Galilê. Đó là thứ âm-nhạc tuyệt-cú ta gặp được nơi “sự việc” yêu thương người nghèo-khó, có nhu-cầu.
           
Loại nhạc thứ hai, Chúa có thưa: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi-khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn-ngoan thông-thái biết những điều này, nhưng lại mặc-khải cho những người bé-mọn” (Mt 11: 25). Xem thế thì, Đức Giêsu mừng kính sự sống an-lạc cho người bình-thường sống bên dưới những người mà chẳng ai đoái-hoài nhìn ngó, ngoại trừ Chúa. Chúa cũng nói: cuộc sống, thật ra là làn gió mát cho những người như thế, cả khi bị các cấp ở bên trên đối-xử với mình thật không phải. Và, họ nhận ra sự tử-tế, giống Chúa, nằm khuất ở bên dưới, mọi “sự việc”.
           
Loại nhạc thứ ba, là khi Chúa bảo: “Những ai đang vất-vả mang gánh nặng-nề hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ-ngơi, bồi dưỡng” (Mt 11: 28). Nói thế, tức là: Ngài rất bén-nhạy cảm-thông với mọi người và tạo cho họ khả-năng sống cuộc-sống của chính mình, cho thật sống. Chúa mừng kính sự tốt-lành Ngài tạo ban cho những người vẫn lây-lất kéo dài cuộc đời từ ngày này qua tháng nọ, nhưng không chán: bởi nơi đó, có giòng nhạc xuất-phát từ nhạc-bản tươi-vui, an-hoà.
           
Và giòng nhạc cuối, có Chúa nói: “Anh em hãy mang lấy ách của Tôi, và hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền-hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ-ngơi, bồi-dưỡng. Vì ách tôi êm-ái, và gánh tôi nhẹ-nhàng" (Mt 11: 29-30). Nói thế, còn có nghĩa: Chúa trân-trọng mừng sự gần-cận với những ai cùng mang “ách” dịu-hiền của Ngài. Mọi người sẽ thấy được niềm an-vui trong tháng ngày dài cuộc đời gặp đầy phiền-toái, oan khiên.
           
Vâng. Giữa giòng nhạc tươi-vui/êm-đềm, Lời Chúa nói, vẫn có tiếng trống làm nền cho thứ âm-nhạc dịu-nhẹ, hoà-vang, êm-ái. Những người cùng khổ/cật-lực cần được ta đến cảm-kích niềm vui chung. Và, mỗi khi ai đó trổi nhạc vui rồi múa nhảy, hẳn cũng có những người không buồn dời gót ngọc để chung vui với người đó. Một số người sống như thế, cũng chẳng buồn đáp-ứng lại giòng nhạc buồn vào buổi tiễn-đưa người quá-cố, nữa.

Lại có người, vẫn cứ chê-bai chỉ-trích ta, là những người dễ kích-động khi khám-phá ra rằng: cuộc sống cũng tốt đẹp như khi Đức Giêsu và tác-giả Tin Mừng thánh Mát-thêu từng công-nhận như thế. Ta cứ đặt để những lời như thế vào hậu-trường cuộc sống sẽ rất mừng, là: những điều như thế chỉ xuất-hiện ở hậu-trường, mà thôi. Vì, sự thể an-vui/tươi-tắn thực ra ở đâu đó, và những người như thế cũng chẳng thể nào lấy khỏi nơi ta niềm an vui, hài-hoà được.                
           
Đến đây, tưởng cũng nên nói thêm, rằng: khi ta bảo: trong đời, có những sự và những việc vẫn suy-tưởng về Chúa và với Chúa. Tựa hồ như, khi Đức Giêsu trả lời câu hỏi “ai đó” của thánh Phêrô những tưởng Ngài là “ma trơi”, thì Ngài nói: “Đó là tôi!” Và, khi ta thưa với Chúa: Có những sự và những việc con muốn sẻ-san với Ngài, ôi lạy Chúa!, là có ý nói: ta cũng sẻ-san những sự và những việc rất tầm-thường với Đức Chúa.
Thế nên, khi ta nói: cuộc sống có nghĩ về Thần-Tính-An-Vui, là Thánh Thần đem lại sự sống tràn đầy, đến cho ta, là ta hỏi: Chúa nay thế nào rồi? Sự việc Chúa đến với ta, rày ra sao?  Thì đó là lúc ta nên vui-hưởng cuộc sống tràn đầy Đức Kitô. Cuộc sống rất “Kitô”, là như thế”.(x. Lm Kevin O’Shea CSsR, Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật 14 thường niên năm A, vietcatholicsnet 27.06.2014, ở cột Phụng vụ)

Xem thế thì, hãy cùng người nghệ-sĩ nhớ đến “Sàigòn-hoa-lệ” thuở nào, rồi cùng hát:

            “Nguời tình ơi! Tôi xin giữ trọn mãi lời thề,
            Dù thời gian có là một thoáng đam-mê,
            Phố-phường một ánh sao đêm,
            Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên.”
            (Nam Lộc – bđd

            Vâng, chính thế. Dù Sàigòn là cuộc sống của tôi và của bạn có là một thoáng đam mê, ê-chề, nhiều bứt rứt, cũng chớ bao giờ quên. Không quên, “Hòn Ngọc Viễn Đông” đầy diễm lệ, cũng không quên cả đến Lời Vàng đấng thánh nhân-hiền từng viết nhiều và viết mãi về sự hiện-diện của Đấng Bên Trên luôn ở cùng và ở mãi với ta và với người.
            Quyết thế rồi, nay ta đi vào khung trời truyện kể cũng rất “phiếm” để làm nhẹ bớt nỗi niềm suy-tư về cuộc đời có những lời nhung nhớ, hoặc “giọt lệ sầu buồn” hoặc “nụ cười nát trên môi”, để thưởng-thức.

            “Truyện rằng:
             
Xe lửa bắt đầu chuyển bánh. Gandhi nhảy vội lên tàu. Một chiếc giày của ông rơi xuống. Gandhi không thể nào nhảy xuống để nhặt nó trong khi tàu chạy càng lúc càng nhanh. Trước sự sững sờ của mọi người, Gandhi...đã tháo luôn chiếc giày còn lại và ném về phía chiếc giày kia.

 Hành khách trên tàu lấy làm lạ về hành động kỳ quặc của ông. Gandhi mỉm cười và giải thích: “Nếu có một người nghèo nào lượm được chiếc thứ nhất, họ có thể tìm thấy chiếc thứ hai và sẽ xài được đôi giày của tôi”.

Truyện kể vỏn vẹn chỉ có thế. Không dài giòng văn-tự cũng chẳng ngắn ngủi đến độ không hiểu nổi. Thế nhưng, để người đọc thấm thía hơn về ý-nghĩa của cuộc sống rúr ra từ câu chuyện “Chiếc giày đánh rơi của Ghandi”, người kể lại cứ thêm, đôi lời bàn rất “Mao Tôn Cương” như sau: 
 

“Chúng ta thường ít nghĩ đến người khác mà chỉ nghĩ về bản thân mình. Khi chúng ta bị mất mát vật gì, thì điều đầu tiên ta nghĩ đến là: những thiệt thòi và bất hạnh của mình. Chúng ta mất quá nhiều thì giờ vào những tiếc nuối, thở than, chán nản, thậm chí còn bẳn gắt và bực bõ vì những rủi ro có thể xảy đến. Mahatma Gandhi đã có hành động thật cao quý bởi trong mất mát vật tuỳ thân như thế, ông vẫn có thể nghĩ đến người khác.

Hành động của Gandhi từng chứng tỏ: việc nghĩ đến người khác đã trở-thành một phần trong tư tưởng và nguyên tắc sống của ông. Giả như, trong cuộc sống an-bình và thành-đạt mà ta còn không mấy quan-tâm lo-lắng cho những kẻ bất hạnh hơn mình, thì liệu khi gặp khó khăn, mất mát, ta có làm được điều đó hay không?


Quanh ta có biết bao nhiêu người sống khó khăn, cực khổ đang cần sự giúp đỡ của ta. Những gì họ thiếu thốn có khi không là vật chất, mà đôi lúc chỉ cần một lời động viên an ủi, thật cũng đủ. 

Thế giới của ta sẽ hạnh phúc biết mấy, nếu mỗi người và mọi người trong ta không chỉ chăm lo cho lợi-ích riêng-tư của mình, mà cần phải chăm lo lợi ích của người khác nữa.” (câu truyện và lời bàn trích từ điện-thư bạn bè gửi hôm 27/6/2014, không ghi tên tác-giả)

Lời bàn về chuyện âu sầu, buồn khổ, mất mát gặp phải trong cuộc đời và những gì còn diễn tiến ở phía sau đường đời, cũng nên dùng làm kết-đoạn cho “chuyện phiếm” rất đáng chán ở đây, hôm nay.
Kết thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta cứ thong-dong hát lên lời lẽ đầy nhung nhớ về một “Sàigòn-hoa-lệ” nào đó, của mỗi người. Hát, là cứ hát những lời sau đây:

“Sàigòn ơi! Tôi đã mất người trong cuộc đời.
Sàigòn ơi! Tôi đã hết thời-gian tuyệt-vời.
Giờ còn đâu, những kỷ-niệm sống trong tôi,
Những nụ cười nát trên môi,
Những giọt lệ ôi sầu đắng...   
Sàigòn ơi, nắng có còn vương trên đường?
Đường ngày xưa, mưa có ướt ngập lối đường về.
Rồi mùa thu, lá còn đổ xuống công viên?
Bóng gầy còn bước nghiêng nghiêng?
Hay đã khóc thương cho người yêu?”
(Nam Lộc – bđd)

            Hôm nay đây, những mong rằng “Sàigòn” của bạn và của tôi vẫn cứ còn giọt nắng lẫn giọt mưa vương trên đường đời, đầy những nụ cười nở mãi trên môi, của mỗi người và mọi người. 

            Trần Ngọc Mười Hai
            Với niềm hy vọng
Trải dài mãi trên anh trên tôi,
Trên mọi người ở đời. 

 

Suy niệm Chúa Nhật 19 TN- A 07/08/2011

“Anh đã thấy, dáng em buồn cúi mặt,”

Anh cảm lòng, vì lệ của thương đau.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mt 14: 22-33

Anh cảm lòng, vì lệ của thương đau hay thấy dáng em buồn? Hẳn, đó có là tâm trạng của nhà thơ, khi xưa? Em chạnh lòng, là bởi xót thương hơn hờn giận, đấy mới là tình tự của nhà Đạo. Rất hôm nay.

Trình thuật thánh Mátthêu hôm nay, ghi về niềm tin vào Tình Chúa, có thánh Phêrô dám bước khỏi thuyền mà đi bộ, trên sông nước. Nên chăng, gọi đó sự việc kỳ diệu, hay phép lạ? Gọi gì thì gọi, cũng nên nói rõ ở đây, về những khác biệt giữa sự việc diệu kỳ và phép lạ. Bởi diệu kỳ, là những gì ta không cắt nghĩa đuợc, vào mọi lúc. Ta ở vào thế giới có quá nhiều điều kỳ diệu, nên chỉ cảm nghiệm chứ không giải thích được.

 Nhà Đạo, gọi sự việc kỳ diệu Chúa làm là: “phép lạ”. Bởi, phép lạ cũng tạo hành xử tốt đẹp hơn chỉ cảm nhận những điều kỳ diệu ấy. Tốt đẹp, là nhờ niềm tin. Tin chắc, là Chúa hiện diện ở trong và ở trên mọi diệu kỳ. Và, ta quyết sống thực điều diệu kỳ bằng cung cách rất đặc biệt. Bởi, Chúa có làm điều huyền nhiệm diệu kỳ, cũng vì ta. Để, ta sống cảnh tình đặc biệt ấy, theo cung cách trực tiếp. Thế nên, phép lạ/kỳ diệu là sự việc mà dân con thành tín vẫn tin rằng: Chúa hoạt động vì ta, theo cung cách bất ngờ. Đặc biệt.    

Phải chăng ta vẫn tin phép lạ/kỳ diệu, vào mọi lúc? Nhất định thế. Ta tin rằng, ai từng cảm nghiệm và tin Chúa vẫn đang làm điều diệu kỳ, đẹp như thế. Nhưng, vấn đề là hỏi rằng: Chúa có làm điều diệu kỳ như thế, thường xuyên chăng? Có thể là không, vì người người đều nghĩ Chúa chỉ thực hiện những điều hợp với thiên nhiên. Ngài để mọi sự trôi chảy, cách tự nhiên. Để con tim Ngài, đập theo nhịp đập của thiên nhiên trần thế, rất diệu kỳ. Và, phép lạ/kỳ diệu không là cung cách duy nhất giúp ta cảm nghiệm sống có Đức Chúa.

Trình thuật, nay kể về phép lạ/diệu kỳ, rất tự nhiên. Phép lạ, mà đồ đệ Chúa đạt được là tin có Chúa hiện diện, bên mình. Truyện kể về việc đồ đệ bắt được số cá, nhiều vô kể. Việc Chúa truyền lệnh cho gió bão phải lặng êm. Về, chuyện Ngài đi trên sông nước, như trình thuật nay diễn tả. Là, Chúa thực hiện diệu kỳ cho người ngoài cuộc. Điều này, không có gì để ngờ vực. Cả về tính lịch sử, cũng thế. Trình thuật, kể nhiều về Chúa làm những việc lạ lùng hơn cả tự nhiên, là cốt cho dân con, người trong cuộc, nhận thấy rõ. Ngõ hầu, đồ đệ thấy đó mà tin vào Ngài. Truyện kể rất hay. Rất giá trị. Nhưng, ta sẽ đọc và hiểu trình thuật phép lạ/diệu kỳ như thế nào? Có coi đó như sự thật rất lạ về Chúa, không?

 Vấn đề là: ta có hiểu trình thuật phép lạ, theo nghĩa đen không? Hoặc, chỉ như sự kiện cụ thể về Ngài. Hoặc, ta phải hiểu trình thuật như một biểu tượng. Rất giả tưởng? Phải chăng, việc Chúa đi trên nước, là có thật? Hay, đó chỉ là cung cách đem đến cho ta một luận cứ, sứ điệp? Hoặc, cả hai?

Về cảnh trí, sự việc xảy ra là xảy đến trên biển hồ Galilê, có đồ đệ lên thuyền để bắt cá. Thuyền không to. Nhưng, rất vững. Và kiên định. Hôm ấy, ngày đặc biệt Chúa dạy dân con đồ đệ hãy lên thuyền mà ra khơi, không có Ngài cùng đi. Ngài muốn ở một mình, để nguyện cầu suốt cả đêm. Ngài nguyện cầu, khi nhà cầm quyền những muốn ám hại, giết chết. Nguyện cầu chốn tư riêng nơi Vườn Dầu. Và đồ đệ Chúa đành miễn cưỡng tuân lệnh.

 Đêm ấy, thuyền xa bờ chừng 5 cây số. Vẫn chìm trong bóng đêm, chập chùng. Bỗng nhiên, phong ba/bão táp dồn dập đến, khiến đồ đệ vốn đã mệt, lại càng mệt thêm. Các thánh nào sợ gì giông bão vì các ngài vẫn nghĩ, mỗi khi gặp điều gì chẳng lành, đã có Thầy đoái hoà, đỡ nâng. Và đêm ấy, các ngài đã thấy Thầy Chí Thánh bên mạn thuyền, trên sông nước. Ngại rằng Thầy sẽ chết ngụp vì mải đến với dân con đồ đệ. Nên, đó cũng là lúc các thánh lãnh nhận sứ điệp: “Anh em đừng sợ! Hãy can đảm mạnh dạn lên! Thầy đây vẫn phải giáp mặt với sự chết. Nhưng, Thầy sẽ sống. Bởi sau cái chết, vẫn còn đó cuộc sống miên trường. Này đây, Thầy đã  có mặt. Anh em cứ an tâm”. Và, các thánh rất an tâm là: lúc nào cũng có Thầy, ở cạnh bên. Các ngài thấy Thầy chầm chậm bước vào thuyền. Sóng gió bèn lặng yên.

Thật ra, trình thuật nay muốn nói lên thông điệp quan trọng, là: Chúa vẫn phải giáp mặt với sự chết. Nhưng, Ngài lớn lao hơn cả cái chết. Kịp đến khi các thánh nhận ra là Thầy đang ở cạnh bên, nơi mạn thuyền, thì rõ ràng, là: Thầy còn cao cả hơn cả lớp sóng vỗ, rất dữ dằn.           

Thông điệp, nay là thông tri để người người biết rằng: quyền uy cao cả của Đức Chúa luôn lớn hơn sự chết. Và, những gì liên quan đến uy quyền của Ngài vẫn uy nghi, cao cả hơn cả thiên nhiên, vạn vật. Hơn sự chết. Ai tin Ngài, bằng niềm tin đích thực, thì chính Ngài là sự lạ lùng/kỳ diệu, ta ắt thấy. Trình thuật Chúa đi trên nước, nhìn dưới nhãn quan này, sẽ ăn khớp với tình huống xảy đến sau ngày Chúa sống lại, vẫn rất thật.

Tuy nắm bắt được thông điệp Chúa gửi, nhiều người vẫn tự hỏi: “Có thật là Chúa đi trên nước, không?” Người Do thái xưa, tin rằng Giavê vẫn làm thế. Họ tin: chính Môsê cũng từng ra lệnh cho Biển Đỏ tách làm hai cột dọc nước rất khô, là để con dân Chúa xuất hành về Đất miền Ngài từng hứa. Có thể là, một số người trong họ vẫn nhớ truyện thần thoại anh hùng hảo hán ở Hy Lạp, có hiền nhân cũng từng đi trên nước. Có thể, tác giả xưa từng sử dụng chi tiết ấy để nói lên sự thể về Đức Chúa lớn lao hơn cả anh hùng hảo hớn, rất Hy Lạp. Hơn hẳn tổ phụ Môsê. Và, ngang bằng với Giavê Thiên Chúa. Tác giả khi xưa, vẫn viết truyện kể rất đáng nể, để nói lên điều kỳ diệu Chúa vẫn làm. Nhưng, phải chăng tác giả Tin Mừng nay muốn nói: truyện kể về sự lạ/diệu kỳ đây, thật sự từng xảy đến? Phải chăng, chính thánh sử đây muốn minh chứng rằng: việc Chúa bước đi trên sông nước, là có thật?

 Thật ra, khi ghi chép lại trình thuật hôm nay, tác giả Tin Mừng chỉ muốn đưa ra một biểu tượng để cho mọi người thấy là: trên thuyền Hội thánh, vai trò của Chúa Đấng Thủ Lãnh, rất hệ trọng. Chỉ mình Ngài, là Đấng có trọng trách hướng dẫn, hết mọi người. Đồ đệ thân thương của Ngài có thể giữ vai trò lãnh đạo, nhưng không thể cáng đáng con thuyền Hội thánh. Cũng chẳng kham nổi sóng gió, nếu không có Ngài đỡ đần, phụ giúp. Chở che.

 Vấn đề là: ai làm được việc quản cai Hội thánh, nếu Chúa không đỡ đần. Cả đến tông đồ cùng dân con đồ đệ lẫn đấng bậc cao tít, đầy tớ Chúa, cũng chẳng thể tạo cho mình quyền uy cao cả, nếu không có Chúa phụ giúp. Như thánh Mátthêu ghi rõ ở trình thuật.

  Lời minh định rõ nhất mà trình thuật hôm nay đưa ra, là: sự lạ/diệu kỳ được thể hiện nơi đặc trưng của Chúa, để mọi người tin Ngài. Tất cả, đều tin vào sự lạ/diệu kỳ nơi bản thân Chúa, qua việc Ngài vượt trên phong ba/bão táp. Trên, cả sự sống lẫn cái chết. Và hệ quả, là: mọi hãi sợ nơi ta đã giảm bớt. Tác giả Tin Mừng, như thánh Mác-cô và Mát-thêu, cũng quan niệm như trên. Tuy nhiên, cho đến nay, Hội thánh vẫn chưa có phán quyết rõ rệt về vấn đề này.

Thêm vào đó, thánh Mátthêu ghi lại trình thuật hôm nay, là: rút tỉa từ truyện kể do thánh Máccô sáng chế. Nhưng, thánh sử Mátthêu còn thêm vào đó đôi điều, cho hợp nghĩa. Lại nữa, ở trình thuật hôm nay, ta đều thấy thánh Phêrô bao giờ cũng là người có tính hồn nhiên, bộc trực, nên bất chợt thánh nhân bốc lên mà đi trên sông nước, đến với Thầy. Để rồi, không lượng được sức mạnh niềm tin nơi chính mình, thánh nhân đã bị ngộp. Phải nhờ Thầy giơ tay nâng đỡ, mới xong việc. Sự việc quả đã rõ: thánh Phêrô chỉ nhận ra được phép lạ/diệu kỳ là lúc bản thân mình được nâng đỡ, chữa lành. Chẳng do dự.

Thêm vào đó, sự lạ/diệu kỳ ở trình thuật còn thêm, là: thánh Phêrô nhận ra được sự thật là: Thầy luôn ở cạnh mình, để mình được Thầy cứu vớt. Rất có thể, thánh Mát-thêu ghi trình thuật này, là để nói lên luận cứ về quyền lãnh đạo Hội thánh. Thánh Phêrô không thể đi trên sống nước, không giải quyết được phong ba bão táp của Hội thánh, mà không có sự tiếp tay/đỡ đần của chính Chúa.

Thành thử ra, ta có nghe và đọc trình thuật theo chiều hướng nào đi nữa, cũng chớ nên biện luận, tranh cãi. Cách ly. Nhưng, hãy cứ mạnh dạn đương đầu mọi khó khăn/trở ngại trong cũng như bên ngoài Thánh Hội. Hãy vượt lên tất cả, mà cùng với Chúa. Vì Chúa. Như Chúa vẫn làm. Và, hãy khuyên nhủ bạn bè người thân: “Chớ hãi sợ! Mọi sự đã có Chúa tiếp tay, đỡ đần.”

Tóm lại, dù mọi người/mọi nhà đã có ao hổ ở sau vườn, cũng đừng thử thời vận mà bước đi trên sông nước. Làm thế rất nguy hiểm, vì dù vẫn tin mình làm được, cũng đừng hành xử như thế, nếu không có phép của đấng bậc ở bên trên. Các vị lãnh đạo nhà mình. Nhà Đạo.

Rút tỉa bài học từ trình thuật trên, ta cũng nên ngâm nga lời ca của thi sĩ, vốn từng viết:

                        “Và từ đây, trong khe núi bên ngàn,

                        Các em dạo, làm những hồn oan khổ.

                        Anh bơ vơ, lạc trên đường thiên cổ.

                        Lạnh tâm tư, mờ tỏ ánh tinh cầu

                        Mất Anh rồi, các Em sẽ về đâu?”

                        (Đinh Hùng – Cung Đàn Tưởng Niệm)

Quả có thế. Dù bơ vơ, lạc lõng bên đường, trên sông nước, các Em là Hội thánh vẫn không mất đi người Anh Cả. Chẳng mất được Ánh Tinh Cầu. Bởi, vẫn còn đó Nước Trời người anh em. Ở đây. Bây giờ.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá lược dịch        

 

“Lời Mẹ ru con đến những khu vườn” 

Ru con trưa nắng (í a) trong mộng, cười ngon.

Ru mộng con thơm, lời Mẹ ru con nghe ra nỗi niềm.

Ru con nghiêng nằm con ngủ giấc tròn, cho mẹ ngồi trông..”

(Trịnh Công Sơn – Lời Mẹ ru)

(Rm 3: 8)

          Có lẽ cũng phải nói ngay ở đây rằng: ru cho con ngủ, vẫn cứ là chức năng của người mẹ, mà thôi. Và hơn nữa, ru con ngủ đến độ “con ngủ giấc tròn, cho mẹ ngồi trông…” thì chừng như, đó vẫn là đặc trưng/đặc thù riêng của mẹ Việt Nam , mà thôi. Phải thế không bạn? Phải thế không tôi?

          Thật ra thì, với tác giả họ Trịnh, lời Mẹ Việt Nam ru, còn mang nhiều ý nghĩa khác nữa như:

“Thuở mẹ ru, mẹ ru con ngủ,
Con ngủ trên mây, con ngủ trên mây
Tiếng khóc ban đầu, ban đầu
còn đau, còn đau, còn đau…”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Thật sự thì, tiếng “khóc ban đầu, ban đầu”, “còn đau, còn đau”, chắc gì là tiếng của con trẻ, mà có khi còn là tiếng của bà mẹ nữa, chứ không chừng. Như truyện kể, ở ngay dưới:

      “Có chú bé con, cứ lon ton chạy đến bên mẹ rồi lại hỏi:

         -Mẹ ơi, sao mẹ lại cứ khóc hoài khóc mãi thế hả mẹ?

         -Tại vì… ừ, tại vì Mẹ là phụ nữ.

-Con vẫn chưa hiểu ý Mẹ muốn nói gì. Là phụ nữ, sao mẹ lại cứ phải khóc như thế?

-Mẹ có nói nhiều, thì con cũng chẳng bao giờ hiểu được điều ấy đâu. Sự đời là thế đó…

Thời gian trôi nhanh. Người con dấu yêu vẫn không tìm ra được câu giải đáp, chú bé lại lon ton đến hỏi bố:

          -Bố ơi, sao mẹ lại hay khóc thế hả bố?

           -Phụ nữ là thế đấy con à. Khóc, là bản chất của phụ nữ mà!

Chú bé con nay lớn dần thành trai tráng, còn rất trẻ. Dù thế, chú vẫn hỏi mình và hỏi người: sao phụ nữ, lại cứ phải khóc nhỉ?

Cuối cùng, thì người trai trẻ chạy đến bèn nhà hiền triết, rất kinh nghiệm, thì được vị ấy cho biết: “Khi xưa Thượng Đế tạo nên đàn bà, Ngài đã ban cho họ nhiều cung cách đặc biệt, khác hẳn nam nhân. Ở đôi vai, Ngài ban cho họ đủ sức cứng cát, để họ có thể đùm bọc cả và thế giới. Với đôi tay, Ngài tạo cho họ đôi tay mềm mại tươi mát. để, họ vỗ về nhiều yêu thương. Nơi tâm can, Ngài còn ban cho họ sức mạnh tiềm ẩn, công thêm lòng kiên nhẫn vượt mức chịu đựng, để các bà có thể cưu mang dỗ dành cả đàn con đông đảo. Ngài cũng phú ban cho họ lòng dũng cảm khó sánh vì, để họ có thể chăm lo nuôi nấng gia đình nhỏ. Cũng rất khó.

Khó đây là ở chỗ: họ có thể đùm bọc và phục vụ bạn bè/người thân cả khi người đó có xuôi tay, ngã gục. Có điều tuyệt vời hơn nữa, là: dù nhọc nhằn, mệt mỏi mấy đi nữa, các bà các cô vẫn chẳng khi nào hé miệng để vãn than, nỗi nhục nhằn. Thượng Đế lại cũng ban cho người phụ nữ phụ một tình cảm tươi mát, dễ chịu để các bà có thể thương yêu đàn con đông đảo, ở mọi nơi. Suốt đời. Cả vào lúc, đàn con lớn nhỏ cứ hè nhau làm mẹ mình đau khổ.Thượng Đế vẫn ban cho các bà một sức mạnh vô song, để còn nâng đỡ chồng chỏi mọi khuất tất, mỗi khi người chồng của mình vấp ngã. Làm như thế, Thượng Đế tạo dựng phụ nữ từ xương thịt của người nam. Để bảo vệ con tim của họ.

Không những thế, Ngài còn ban cho các bà tính khôn ngoan, sáng suốt để biết rằng: người chồng tốt, là nguời chẳng bao giờ làm tổn thương danh dự phụ nữ. Không khi nào phụ rẫy vợ mình. Có thế, người người mới thông hiểu được sức chịu đựng vô song, của bất kỳ người nữ nào khác. Chỉ phụ nữ, mới có thể đứng cạnh và đứng sau chồng mình, tạo thuận lợi cho chồng thành công. Nhằm giúp tất cả nữ phụ hoàn thành chức năng, Ngài trao phó, Thượng Đế lại đã ban thêm cho phụ nữ nguồn nước mắt dôi dào, dễ rơi trào. Thế nên, mỗi khi ta thấy người phụ nữ khóc, hãy đem bình an đến với họ, tự thâm tâm. Hãy trân trọng giọt “nước mắt ngà, của phụ nữ…”

Khóc, vào khi ru con ngủ, các bà mẹ đều có thể khóc bằng tiếng ru vời vợi, như ở dưới:

“Lời mẹ ru đêm vắng ngón tay hồng
Ru con khôn lớn ( .í... ... a) con Rồng
Rồng Tiên con ngủ cho yên.
Một đời ru con nên mắt ưu phiền
đôi khi cũng ưu phiền con ngủ giấc hiền
Mưa nhỏ ngoài đêm lá đổ ngoài sân
Lá đổ ngoài sân để ru mẹ ngủ…”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Khóc, khi nhớ con, mẹ nào mà chẳng khóc bằng nuớc mắt, cũng rất thật. Chí ít, là khi, người mẹ để mất đi đứa con, chưa gặp mặt. Hoặc, khi lòng mình nhiều hối hận, hơn một lần trót dại. Nghe xúi dại. Và, cứ tưởng Đạo mình sẽ dễ dãi, cũng bỏ qua.

Khóc, nhiều khi, không chỉ là chức năng của riêng người mẹ. Mà là, cung cách diễn tả nỗi niềm chua cay. Nghẹn ngào. Khó bộc lộ. Khóc, có lúc, là hối hận triền miên, do sai sót. Không nắm rõ tình tiết luật lệ, ở Đạo Chúa. Như, câu hỏi của độc giả nọ gửi về ban biên tập báo The Catholic Weekly ở Sydney , với lời lẽ đơn sơ. Thật thà. Và dễ cảm thông như sau:

“Tôi lấy làm lạ, sao có một số báo Công giáo lại cứ cho rằng: việc nạo giết thai nhi, theo luân lý, chẳng bao giờ được cho phép làm thế, trừ khi sự sống của người mẹ có nguy cơ không cứu nổi, nếu sanh con. Nay, xin mạn phép hỏi linh mục rằng: quyết đoán như thế có đúng không? Trường hợp này là thế nào?(Một giáo dân)

Với đức thày nhà Đạo ở Sydney vốn rất nghe quen và chuyên trị về thần học/giáo luật, thì câu hỏi đây, tuy đầy thắc mắc, nhưng cũng dễ. Dễ, là vì xưa nay có bao giờ Hội thánh lại ung dung cho phép những chuyện như thế xảy ra đâu. Thế nên, lời bàn của Đức thày, ở đây, vẫn thế này:

“Ông bạn ngạc nhiên là phải. Bởi, có khi nào chuyện nạo phá thai lại được cho phép thực hiện cách dễ dàng như thế đâu. Cả khi sự sống của người mẹ khó có cơ cứu vãn nữa. Nhưng, hãy để tôi có đôi lời giải thích, cho minh bạch. Ngọn ngành.

Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã đề cập rất dài về vấn đề này, trong tông thư có tựa đề là Evangelium Vitae (tức “LờiSự Sống”) ban hành năm 1995. Nhận thấy có sự mù mờ dễ lẫn llộn trong đầu óc của rất nhiều người về định nghĩa thế nào là phá thai, Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã định nghĩa rất rõ như sau: “Nạo phá thai có suy tính đơn giản vẫn là hành động giết người, cách trực tiếp/có cân nhắc, dù dưới hình thức nào cũng thế. Giết người, ngay giai đoạn đầu bản thể vừa hiện hữu, cho đến khi cưu mang và sinh đẻ.” (x. Tông thư Phúc Âm của Sự Sống #58)      

Sau khi tóm tắt các luận cứ từ luật tự nhiên, ngang qua Kinh thánh, Truyền thống và Giáo huấn của Hội thánh, Chân Phuớc Gioan Phaolô II đã khẳng định với quyền uy đầy đủ của vị Giáo hoàng đương đại bằng ngôn từ không mờ tối, ngài còn nói rất rõ: Hội thánh nghiêm cấm việc phá thai, như sau: “Với quyền uy được Chúa ủy thác cho thánh Phêrô và các vị kế nhiệm của ngài cùng hiệp thông với các Giám mục –là các vị từng lên án việc phá thai trong nhiều trường hợp có hội ý cẩn trọng được lan truyền nhiều nơi trên thế giới, các vị đã đồng chấp thuận về tín lý này-  Tôi tuyên bố rằng việc trực tiếp phá thai, là việc nạo giết thai nhi có ý thức coi đó như mục đích hoặc phương tiện, cốt tạo sự bất ổn nặng về luân lý, bởi đây là hành động giết người có chủ tâm. Rõ rang là, giết chết đi hữu thể vô tội.” (x. Tông thư Lời của Sự Sống #62)

Và Chân Phước Gioan Phaolô II cũng lặp lại lời khẳng định rằng giáo huấn này không luật trừ: “Không một ai, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, bằng vào bất cứ mục đích gì, ngang qua luật pháp gì lại có thể biến hành động tự nó đã phi pháp, lại trở thành hợp lệ được. Bởi, điều ấy nghịch với Luật của Chúa viết trong tâm khảm mỗi người, được chính lý trí của mình dạy cho mình biết, và cũng được Hội thánh công bố, cách minh nhiên.” (x.Tông Thư Lời Sự Sống như đã dẫn #62)

Qua Giáo huấn không sai sót này, rõ ràng việc nạo giết thai nhi chẳng bao giờ được biện minh, cho phải lẽ. Dù, có để cứu vớt sự sống của người mẹ, đi chăng nữa. Cũng không thể chấp nhận được. Chính Đức Chân Phước Gioan Phaolô II từng nói rõ: “Không hoàn cảnh nào. Cũng chẳng vì mục đích gì hết…” lại có thể biến việc nạo giết thai nhik thành hành động hợp lệ, được hết.Dù cho có sử dụng việc đó như cái cớ để cứu vớt sự sống của người mẹ, nữa.

Nói khác đi, việc này cũng đơn giản như sử dụng nguyên tắc ai cũng biết là cứu cánh biện minh cho phương tiện được. (x. Rm 3: 8). Trực tiếp nạo giết thai nhi, vốn là hành động bất hợplấy sự sống của chính mình được.

Thánh nữ Gianna Beretha Molla còn chỉ dẫn nhiều điều về vấn đề này. Là một bác sĩ khoa nhi người Ý có ba con rất kinh nghiệm về sinh sản, thánh nữ lại được chẩn đoán là ngay vào tháng thứ hai bào thai em bé có xơ bướu ở tử cung. Bác sĩ đề nghị bà hoặc nạo phá, bào thai hoặc cắt khối u độc ấy mới tránh được mọi rắc rối về sau. Bà bèn chọn giải pháp sau. Quyết tâm cứu thai nhi, bằng mọi giá. Cũng may, là vụ giải phẫu thành công cứu được thai nhi dù nguy hiểm cho tính mạng của người mẹ. Và 7 tháng sau, khi phải quyết định, một là sự sống của chính mình hoặc của đứa con, thì bà nói với bác sĩ giải phẫu rằng: “Nếu các ngài phải quyết định chọn lựa chính tôi hoặc đứa bé, thì hãy cứ chọn đứa trẻ, đừng do dự. Tối nhắc lại, hãy cứu em bé.”

Vào tảng sáng ngày 21/4/1962, Gianna sinh con gái bèn đặt tên cho bé là Gianna Emanuela. Và, bác sĩ làm đủ mọi cũng không cứu sống được cả mẹ lẫn con, nên một tuần lễ sau đó, tức ngày 28/4/1962, trong cơn đau đến cùng cực, bà đã kêu tên cực trọng mà rằng: “Lạy Đức Giêsu, con yêu Chúa hết long. Lạy Đức Giêsu, con yêu Chúa hết long hết linh hồn con. Con phú hồn con trong tay Chúa.” Và, bà đã trút hơi thở cuối cùng, ngay sau đó. Hưởng dương 39 tuổi. Và, chính Chân Phước Gioan Phaolô II là người đã phong thánh cho Gianna Beretta Molla vào ngày 16/5/2004.

Trong đời mình, thánh nữ Gianna Beretta Molla đã sống đích thực lời dạy của Hội thánh trong việc bảo vệ sự sống của thai nhi, hy sinh chính cuộc đời mình hơn là giết chết chính con mình. Có lần thánh nữ từng quả quyết: “Với tư cách là y sĩ, không ai được phép can thiệp vào sự việc này. Quyền của con trẻ có ngang bằng quyền của người mẹ, phải được sống. Không một y sĩ nào lại có quyền quyết định những việc như thế. Giết bào thai trong bụng mẹ, tức là mang tội tày trời, với nhân thế.” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly  20/11/2008, tr. 10)

Tội tày trời, bao giờ chẳng là thế. Chí ít, là theo luật Đạo. Luật tự nhiên. Luật của lương tâm. Trách nhiệm. Có nhân quyền. Người nhà Đạo, không có gì phải chối cãi. Không giống như người đời, ở ngoài đời, vẫn cứ ru ời ợi, nhưng lời ru còn vang vọng rất nhiều đời. Nhiều kiếp người, như sau:

“Lời mẹ ru như tiếng hát trên trời

ru con ru mãi (i...i... a...)

Nên người mẹ vui

Ru bạc tóc thôi

Đời mẹ ru con mây kia cũng buồn

Nên mây xa đường trần

con ngủ giấc hồng

cho mẹ tròn lưng

Thuở mẹ ru

mẹ ru con ngủ

Con ngủ trên mây

con ngủ trên mây

Tiếng khóc ban đầu

ban đầu

còn đau

còn đau

còn đau…”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

 Cũng một lời lẽ rất tương tự, thánh nhân nhà Đa vẫn từng ru dân con trong Giáo hội, để rồi hỏi:

"Sao ta không cứ làm điều dữ đi,

để nhờ đó mà được điều lành? "

như có những kẻ vu cho chúng tôi

nói câu đó.

Họ có bị kết tội cũng là đích đáng.”

(Rm 3: 8)

 Cũng trong tình huuống rất “ru ời ợi”, thánh nhân còn khẳng định them:

“Người Do-thái chúng tôi có hơn gì người khác không?

Không hơn gì cả!

Quả thế, chúng ta đã chứng minh rằng

mọi người, Do-thái cũng như Hy-lạp đều bị tội lỗi thống trị.

Như có lời chép rằng:

Không ai là người công chính,

dẫu một người cũng không;

chẳng ai có lương tri,

chẳng ai kiếm tìm Thiên Chúa.

Người người đã lìa xa chính lộ,

chỉ biết theo nhau làm chuyện suy đồi;

chẳng có một ai làm điều thiện,

dẫu một người cũng không.”

(Rm 3: 9-12)

 “Chẳng một ai làm điều thiện”. Phải chăng đó là một nhận định, về cách hành sử của người đời. Xưa cũng như nay. Một hành xử, nhìn theo nhãn giới của nghệ sĩ ở đời, sẽ như sau:

“Rồi một mai con đã lớn khôn rồi
con thôi thơ ấu (... ...a)
Mẹ rời thật mau
Mẹ rời chiêm bao
Đời mẹ ru con bao lâu mỏi mòn
Nên lâu cũng mỏi mòn
Bây giờ mẹ nằm
Lá đổ ngoài sân..”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Hẳn bạn cũng như tôi, sống ở đời, chẳng dám quyết đoán những lời như thế. Bản thân tôi, đâu là người lành thánh, nên càng không dám nói. Và, cũng chẳng dám ru. Lâu lâu, giỏi lắn cũng chỉ dám quay về với chuyện vui ngưởi đời kể lể, mà nhận ra được chân lý nào đó. Chí ít, là thứ chấn (tình rất có) lý, của cuộc đời, ở phía chân trời nào đó, có những truyện kể rất ngắn để suy tư, như câu truyện ở bên dưới, rất ư là ngắn. Không khó hiểu. Dễ lựa chọn:

        “Truyện rằng:

        Ở ngoà toà hôm ấy, vị quan toà chất vấn bị can, bằng ngôn ngữ không mấy khó hiểu, như câu hỏi:

    -Có phải bà là vợ của nạn nhân không?

  -Chính là thế, thưa toà.

 Thế tại sao bà lại dính vào chuyện thúc ép ông nhà tự vẫn?

-Không phải thế đâu, thưa Toà. Tôi nói nhỏ với ông ấy có vài câu rất đơn giản, răng: “Này, tôi bảo cho mà biết: đừng có hòng Mà tính chuyện ly hôn với chẳng ly dị. Giữa tôi và đầu xe lửa, ông cứ việc chọn”. Và thế là ông ấy chọn cái đầu tầu khỉ gió kia, đấy chứ…”

Vâng. Chính thế. Rút cuộc một đời, chuyện gì cũng chỉ là lựa chọn chọn. Lựa chọn sự sống, của riêng mình, hay của ai đó. Chí ít, là con mình. Còn ở trạng thái thai nhi. Chọn ai và chọn gì cũng đều kéo theo một hậu quả. Có khi là sơ xuất, đến chết người. Cuối cùng, cuộc sống nhà Đạo cũng thế. Tức, cũng tùy vào lựa chọn của mỗi người. Bởi thế nên, vấn đề đặt ra hôm nay, chính là: Tôi sẽ chọn thứ gì đây. Niềm vui. Sống ích kỷ. Hay, huấn truyền cùng Lời Vàng của Hội thánh, rất Kitô? Câu trả lời xin dành cho tôi. Cho bạn. Cho mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai
Chỉ dám chọn cho mình,
một quyết định
liên can đến chính mình mà thôi.
Chẳng dám khuyên,
cũng chẳng chọn
giùm ai.
Bao giờ..

dongcongnet- sưu tầm August 1, 2014

 

 

 
     

Tỉnh Dòng Đồng Công Hoa Kỳ
1900 Grand Ave - Carthage, MO 64836
Phone: ( 417) 358-7787 Fax: (417) 358-9508
cmc@dongcong.net (văn phòng CD) - web@dongcong.net (webmaster)