|
"Chúng
ta đã được thấy vinh hiển của Người" tỏ hiện ra cho dân ngoại.
Phải,
như Phụng Vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật Thứ Hai sau Lễ Giáng Sinh
đã tỏ bầy, và Lời Chúa trong chính Lễ Hiển Linh này cũng lập lại,
đó là "chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người" trước
hết phát ra từ dân Do Thái: "Hỡi Gia-Liêm, hãy chỗi dậy trong
quang sáng! Ánh sáng của ngươi đã đến, vinh quang của Chúa chiếu
tỏa trên ngươi. Kìa, tối tăm bao phủ trái đất, và những đám mây
mù đang che lấp các dân' thế nhưng, trên ngươi Chúa đang chiếu
sáng và nơi ngươi vinh quang của Ngài xuất hiện. Các dân tộc sẽ
bước đi nhờ ánh quang rực rỡ của ngươi" (bài đọc 1).
Lời
Thánh Kinh Cựu Ước của dân Do Thái này đã hoàn toàn ứng nghiệm
nơi sự việc: "Sau khi Chúa Giêsu được sinh ra ở Bêlem xứ
Giuđêa trong triều đại vua Hêrôđê, có các nhà chiêm tinh từ phương
đông đến Gia-Liêm" (Phúc Âm). Bởi vì: "Dự án kín mật
của Thiên Chúa... đó là trong Chúa Giêsu Kitô, các Dân Ngoại nay
cũng được thừa tự với những người Do Thái, họ là những phần thể
của cùng một thân thể, và nhờ việc rao giảng Phúc Âm mà họ cũng
là các người thừa tự của lời hứa" (bài đọc 2).
"Lời
đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" đã tỏ hiện vinh
hiển của Người ra cho Dân Ngoại thấy qua "ngôi sao của Người"
(Phúc Âm). Và Dân Ngoại quả thực "đã thấy... nên chúng tôi
đến để triều bái Người" (Phúc Âm). Qua "các nhà chiêm
tinh từ phương đông", Dân Ngoại đã "tiến vào nhà (tác
động biểu hiệu cho việc gia nhập Giáo Hội, nơi Chúa ngự trên thế
gian), họ thấy con trẻ với Mẹ Người là Maria" (Phúc Âm).
Thế
nhưng, sự kiện Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa bao giờ cũng được Giáo
Hội sắp xếp theo ngay sau Lễ Hiển Linh chắc chắn cho thấy hai
lễ này phải có gì rất liên hệ với nhau. Bởi vì, hai lễ này có
dính dáng với nhau một cách mật thiết, ở chỗ là cả hai đều cho
thấy Chúa Kitô Hiển Linh, Người hiển linh trước thành phần Dân
Ngoại, tiêu biểu là Ba Vua, và Ngài cũng hiển linh trước Dân Chúa,
đại diện là Gioan Tiền Hô, vị đã thú rằng mình đã nhận ra Người
khi thấy Thần Linh xuống trên Người (x Jn 1:33).
Theo
ý nghĩa Năm Phụng Vụ, Lễ Hiển Linh là thời điểm kết thúc Mùa Giáng
Sinh, Mùa Phụng Vụ Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Thiên Chúa Hóa Thân
Làm Người để tỏ mình ra cho chung loài người, chứ không riêng
gì Dân Do Thái, vì Ngài đã thực sự mặc lấy bản tính chung của
loài người. Tuy nhiên, nhân tính loài người Ngài mặc lấy ấy lại
mang huyết tộc Do Thái, một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn
để trực tiếp đón nhận Đấng Cứu Thế Thiên Sai như Ngài hứa ban
theo giòng lịch sử của họ. Do đó, theo lịch trình thực hiện Dự
Án Cứu Độ của Thiên Chúa, trước hết, Ngài đã tỏ mình cho Dân Do
Thái, rồi sau đó, qua họ Ngài mới tỏ mình cho tất cả loài người
biết, đúng như lời Ngài hứa với tổ phụ Abraham của họ xưa là “tất
cả mọi dân nước sẽ được chúc phúc nơi giòng dõi của ngươi” (Gen
22:18). Theo tôi, nếu “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi
và nhận biết chân lý”, như Vị Tông Đồ Dân Ngoại đã xác tín trong
Thư Thứ Nhất gửi Timôthêu ở đoạn 2 câu 4, thì việc cử hành mầu
nhiệm Thiên Chúa Hóa Thân Làm Người hơn hai ngàn năm trước đây
trong Mùa Giáng Sinh hằng năm đúng là phải được kết thúc hay lên
đến tuyểt đỉnh ở Lễ Ba Vua, Ngày Lễ Chúa Kitô tỏ mình Hiển Linh
cho Dân Ngoại.
Chính
vì Thiên Chúa muốn tỏ mình ra cho chung loài người qua Dân Do
Thái mà, để mở đầu cho Mùa Thường Niên nói chung, Giáo Hội đã
cử hành Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, tức cử hành việc Chúa Kitô
bắt đầu sứ vụ Thiên Sai của mình nơi xã hội Do Thái, cũng là việc
Người tỏ mình là Đấng Thiên Sai cho Dân Chúa biết và như họ trông
chờ. Đó là lý do tại sao Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo số 528
mới cảm nhận về Lễ Ba Vua có liên quan đến vị trí và vai trò của
Dân Do Thái như sau: “Biến cố Hiển Linh là việc Chúa Giêsu tỏ
mình ra như là một Đấng Thiên Sai của dân Yến Duyên, là Con Thiên
Chúa và là Đấng Cứu Tinh của thế giới… Việc các nhà đạo sĩ đến
Gialiêm để tôn kính vua dân Do Thái chứng tỏ là họ, theo ánh sáng
thiên sai của ngôi sao thuộc giòng tộc Đavít, muốn tìm kiếm nơi
dân Yến Duyên một Đấng sẽ làm vua cai trị các dân tộc (x Mt 2:2;
Num 24:17-19; Rev 22:16). Việc họ đến với Chúa Giêsu ngụ ý là
dân ngoại có thể nhận ra Chúa Giêsu và tôn thờ Người như là Con
Thiên Chúa và như là Đấng Cứu Tinh của thế giới, ở chỗ họ chỉ
việc hướng về dân Do Thái và lãnh nhận từ nơi dân tộc này lời
hứa thiên sai được chất chứa ở trong Cựu Ước (x Jn 4:22; Mt 2:4-6)…”.
Theo
tôi nhận định qua mạc khải Phúc Âm, Chúa Kitô bao giờ cũng tỏ
mình cho Dân Do Thái như là một Đấng Thiên Sai của họ, cho đến
cuối cùng Người cho họ thấy Đấng Thiên Sai ấy chính là Con Thiên
Chúa, như Người tỏ mình ra cho Hội Đồng Do Thái biết và vì thế
đã bị họ lên án tử (x Mt 26:63-66), còn Dân Ngoại thì Người tỏ
mình cho họ thấy như là một Đức Vua, rõ ràng nhất là lúc trước
mặt tổng quyền Philatô (x Jn 18:33-37), và quyết liệt nhất là
vào lúc Người từ kẻ chết sống lại để sai các tông đồ đi tuyển
mộ môn đồ nơi tất cả mọi dân tộc với lời mở đầu: “Thày được toàn
quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18). Tóm lại, Đấng mà Ba Vua
Phương Đông được thấy chính là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái,
Người thực sự là Con của Thiên Chúa cũng là Vua của muôn dân và
muôn loài tạo vật vậy.
Tuy
nhiên, tại sao các nhà thông thái của Dân Do Thái, căn cứ vào
việc truy tầm Sách Thánh, biết được rõ ràng Chúa Kitô thực sự
sinh ra ở đâu, “ở Bêlem xứ Giuđêa” (Mt 2:5), và đã tâu lên quận
vương Hêrôđê như ông hỏi, nhờ đó Ba Vua Dân Ngoại lạc vào thành
Gialiêm bấy giờ mới biết được nơi Chúa Kitô sinh ra để đến triều
bái Người, thì tại sao chính dân Do Thái lại không đến với Người,
mà Ba Vua Phương Đông không hề được mạc khải gì về Người trước
đó như trường hợp Dân Do Thái lại nhận ra ngôi sao của Người mà
đến với Người? Phải chăng thông Thánh Kinh cũng chưa chắc đã nhận
ra và gặp được Chúa Kitô, trái lại, chỉ cần có một tầm mức hiểu
biết thường thức, như Ba Vua biết coi điềm trời là ngôi sao lạ,
cộng với thiện tâm, là có thể gặp được Người. Nơi trường hợp Ba
Vua thành tâm này, khoa học dẫn các vị đến đức tin chứ khoa học
không phản lại đức tin, như nơi một số khoa học gia ngày nay,
hay như phi hành gia người Nga sau chuyến thám hiểm không gian
ngay từ đầu khi trở về đã tuyên bố chẳng thấy Thiên Chúa đâu cả!
Lạy
Cha chúng con ở trên trời, Cha là "Thiên Chúa đã chọn chúng
(con) trong Người (Đức Giêsu Kitô) trước khi thế gian hiện hữu,
để (chúng con được) nên thánh hảo và vô tì tích trước nhan (Cha),
cho (chúng con) đươc tràn đầy tình yêu" (bài đọc 2 Chúa Nhật
Thứ Hai sau Lễ Giáng Sinh) - Xin Cha cho chúng con, như các chiêm
gia đông phương, sau khi đã "được nhìn thấy vinh hiển của
Người" thì "phục xuống thờ lạy Người. Đoạn mở kho báu
của mình ra, dâng cho Người các lễ vật là vàng bạc (biểu hiệu
vương quyền tuyệt đối của Người trên tất cả mọi sự), nhũ hương
(biểu hiệu thiên chức thượng tế đời đời của Người để làm trung
gian duy nhất giữa Cha và loài người), và mộc dược (biểu hiệu
hiến tế của Người dâng lên Cha để cứu chuộc loài người)"
(Phúc Âm). Ôi, "lạy Chúa, mọi dân tộc trên địa cầu đều thờ
lạy Chúa" (đáp ca).
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
|
|