CN 3 Thường Niên Năm A
 
 


Lời Loan Báo Tiên Khởi:
"Hãy Cải Thiện Đời Sống. Nước Trời Đã Đến"

Lời Loan Báo Tiên Khởi: Mục Tiêu

Phụng Vụ Lời Chúa của Lễ Thánh Gia cách đây bốn tuần, như được phân tích, đã nói lên ba khía cạnh về ý nghĩa của lễ này: Chu kỳ Phụng Vụ Lời Chúa Năm A chú trọng đến vai trò bảo hộ của gia trưởng Giuse, Năm B đến thân phận đau thương của Mẹ Maria gắn liền với số phận khổ nạn của Chúa Giêsu Con Mẹ, và Năm C đến phận sự vâng lời của Chúa Giêsu là con trong Thánh Gia. Phụng Vụ Lời Chúa của chu kỳ Năm A, B và C cho Chúa Nhật Thứ III Mùa Thường Niên tuần này, nếu phân tích kỹ lưỡng về mối liên hệ của cả ba năm, cũng cho chúng ta thấy các khía cạnh khác nhau nơi ý nghĩa của Mầu Nhiệm Chúa Kitô: Phụng Vụ Lời Chúa Năm A nhấn mạnh đến khía cạnh về đối tượng phổ quát của sứ vụ Chúa Kitô đó là Dân Ngoại, Năm B đến khía cạnh về phương tiện để Chúa Kitô có thể vươn tới đối tượng này đó là việc tuyển mộ các môn đồ, (phải chăng chính vì lý do này mà trong bài Phúc Âm Năm A hôm nay, dù có đoạn về việc tuyển mộ các môn đệ tiên khởi, Giáo Hội cũng không buộc đọc, vì việc tuyển môn đệ này liên quan đến chủ đề của Năm B), và Năm C đến khía cạnh về tác nhân để Chúa Kitô có thể hiện thực sứ vụ của mình đó là Thánh Thần.

Thật vậy, Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật III Mùa Thường Niên hôm nay thực sự đã nhấn mạnh đến khía cạnh đối tượng phổ quát của sứ vụ Chúa Giêsu. Đối tượng đó là gì, nếu không phải là tất cả mọi dân nước. Bởi vì, Phúc Âm Thánh Mathêu đã mở màn sứ vụ của Chúa Giêsu khi thuật lại điểm xuất phát của Người từ miền đất Dân Ngoại như thế này: "Khi nghe thấy Gioan bị tống ngục, Chúa Giêsu liền rút về Galilêa. Người rời Nazarét mà đến sống ở Capernaum ven biển, gần địa hạt Zebulun và Naphtali, để hoàn tất những gì đã được tiên tri Isaia đã nói". Tiên tri Isaia đã nói như thế nào đều được Giáo Hội trích lại ở bài đọc một, những lời cũng đã được Phúc Âm Thánh Mathêu hôm nay trưng dẫn: "Đất Zebulun, đất Naphtali dọc theo biển bên kia sông Dược Đăng, phần đất Galiêa thuộc dân ngoại, đó là thứ dân sống trong tăm tối đã được thấy ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng đã mọc lên trên những ai ở trong vùng đất tối tăm sự chết".

"Ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng đã mọc lên trên những ai ở trong vùng đất tối tăm sự chết" đây là gì, tuy tiên tri Isaia không nói rõ, song theo chiều hướng của bài Phúc Âm Thánh Mathêu hôm nay, thì đó là chính Chúa Giêsu. Ngay câu mở đầu bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu cho chu kỳ phụng vụ Năm A (cũng như chu kỳ Năm B) hôm nay đã cho chúng ta thấy rõ điều này, thấy rằng Chúa Giêsu thực sự là "ánh sáng" như được tiên tri Isaia nói tới, ở chỗ, Thánh Mathêu viết: "Khi nghe thấy Gioan bị tống ngục, Chúa Giêsu liền rút về Galilêa". Thật vậy, đèn chỉ được tắt đi hay bị lu mờ đi khi ánh sáng bắt đầu lên thế nào, thì Chúa Giêsu cũng chỉ bắt đầu công khai tỏ mình ra "khi nghe thấy Gioan bị tống ngục", tức khi Gioan Tẩy Giả (Jn 5:35) "là đèn soi" một thời của dân Do Thái đang bị nhục dục con người (nơi Hêrôđê) dập tắt. Cho dù có bị quyền lực loài người dập tắt đi nữa, tinh thần của Gioan Tẩy Giả đã được phản ảnh nơi câu đầu của bài Đáp Ca trích Thánh Vịnh 27 hôm nay: "Chúa là ánh sáng và là ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ chi ai?" Và tia đầu tiên phát ra từ "Ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng đã mọc lên trên những ai ở trong vùng đất tối tăm sự chết" là gì, nếu không phải là những lời đầu tiên mở màn cho sứ vụ của Chúa Giêsu, những lời làm nên tất cả sứ điệp Phúc Âm của Người, một sứ điệp Người đã loan báo tại miền đất của Dân Ngoại này, tức là sứ điệp Người có ý muốn gửi cho chung tất cả loài người, chứ không phải cho riêng dân Do Thái. Sứ điệp đó là: "Hãy cải thiện đời sống! Nước Trời đã đến".

Lời Loan Báo Tiên Khởi: Ý Nghĩa

Trong sứ điệp thực sự làm nên tất cả Phúc Âm của Chúa Giêsu này, chúng ta thấy rõ ràng có hai vế hay hai yếu tố: vế nhân sinh (cải thiện) và vế thần linh (Nước Trời), hay yếu tố đức tin (cải thiện) và yếu tố mạc khải (Nước Trời). Nếu "mạc khải" là tỏ ta, là tỏ cho thấy, thì với tư cách là "Ánh sáng huy hoàng. Ánh sáng đã mọc lên trên những ai ở trong vùng đất tối tăm sự chết", Chúa Giêsu chính là Mạc Khải Thần Linh, là "tất cả sự thật" (Jn 16:13) Thiên Chúa muốn tỏ cho loài người biết về bản thân Ngài cũng như về ý định cứu độ của Ngài, đến nỗi, như chính Người khẳng định: "Ai thấy Thày là thấy Cha" (Jn 14:6).

Như thế, nếu Chúa Giêsu "đến để làm chứng cho chân lý" (Jn 18:37) tức là Người đến để đồng thời vừa làm chứng về chính mình Người, vừa để "tỏ Cha ra" (Jn 1:18) qua chứng từ của Người và bằng chứng từ của Người. Đó là lý do trong Phúc Âm của Thánh Gioan ở đoạn 6 câu 38, Người đã tuyên bố với dân Do Thái rằng: "Tôi từ trời xuống không phải để làm theo ý riêng của mình mà là ý của Đấng đã sai Tôi". Nếu "Nước Trời" là tất cả Mạc Khải Thần Linh, tất cả những gì Thiên Chúa muốn tỏ ra và muốn hiện thực nơi loài người, thì Chúa Giêsu cũng chính là "Nước Trời". "Nước Trời đã đến" đây tức là Đấng Thiên Sai đã đến. Phúc Âm theo Thánh Marcô thuộc chu kỳ phụng vụ Năm B hôm nay cho chúng ta thấy rõ hơn về mối liên hệ bất khả phân ly đến độ đồng hóa giữa Đấng Thiên Sai và Nước Trời đây, khi lập lại lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu dài hơn lời của Người trong Phúc Âm theo Thánh Mathêu. Lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Marcô là: "Thời điểm đã trọn. Nước Thiên Chúa đã đến! Hãy cải thiện đời sống và tin vào phúc âm". Lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Marcô này, nhất là phần đầu, phần liên quan đến Mạc Khải Thần Linh, đã được phản ảnh qua lời xác tín của Vị Tông Đồ Dân Ngoại trong Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái, đoạn 1 câu 2, về thời điểm tột đỉnh của Mạc Khải Thần Linh cũng như về nội dung của tất cả Mạc Khải Thần Linh như sau: "Vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã nói với chúng ta qua Con của Ngài".

Trong Thông Điệp Redemptoris Missio, ban hành ngày 7/12/1990, kỷ niệm 25 năm Sắc Lệnh của Công Đồng Chung Vaticanô II về việc truyền giáo "ad gentes - cho muôn dân", ĐTC Gioan Phaolô II, ở đoạn 15.2 và 18.2, đã xác định rõ ràng mối liên kết Nước Trời, hay Nước Thiên Chúa với Mạc Khải Thần Linh cũng như với bản thân của chính Chúa Giêsu như sau: "Nước Thiên Chúa là trọn vẹn dự án cứu độ của Thiên Chúa được biểu lộ và hiện thực" (15.2); "Nước Thiên Chúa không phải là một quan niệm, một tín lý hay một hoạch định muốn cắt nghĩa sao cũng được, mà trước hết là một con người, với dung nhan và danh xưng Giêsu Nazarét, hình ảnh của Thiên Chúa vô hình".

Nếu lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Marcô đi từ vế thần linh hay từ yếu tố mạc khải là "thời điểm nên trọn và Nước Thiên Chúa" đến vế nhân sinh hay đến yếu tố đức tin là "cải thiện và tin vào", thì lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Mathêu đã đi ngược lại với thứ tự này, tức đi từ vế loài người hay từ yếu tố đức tin là "cải thiện" trước rồi mới đến vế thần linh hay đến yếu tố mạc khải là "Nước Trời" sau. Tuy nhiên, chính cái ngược nhau về thứ tự nơi lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu nơi hai Phúc Âm ấy đã làm cho vế nhân sinh hay yếu tố đức tin nơi lời loan báo tiên khởi này mặc một vai trò quan trọng không ít. Tức là, theo thứ tự nơi lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Mathêu, thì con người cần phải có đức tin đã họ mới có thể nhận biết Đấng Thiên Sai, tức mới có thể tiếp nhận Nước Trời hay mới có thể vào Nước Trời: Đức Tin được thể hiện qua việc "cải thiện đời sống" chính là đường dẫn đến Mạc Khải Thần Linh, đến "Nước Trời". Cũng thế, theo thứ tự nơi lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Marcô, thì dù Thiên Chúa đã đến lúc mạc khải tất cả mọi sự cho con người biết nơi Con Một của Ngài và qua Con Một Ngài, Đấng như Nước Thiên Chúa ở giữa loài người (x Lk 17:21), như "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Mt 1:23), con người cũng cần phải có đức tin, được thể hiện qua việc "cải thiện đời sống và tin vào phúc âm" nữa mới được cứu độ. Vì, "tin vào phúc âm" đây là gì, nếu không phải là trực tiếp tin vào chính Chúa Giêsu, vào Đấng Cha sai, và gián tiếp tin vào Thiên Chúa, vào Đấng sai Người, Đấng Người đến để "tỏ ra" (Jn 1:18) cho loài người biết qua chứng từ của Người, hay qua việc Người làm chứng về mình, tức qua việc "Nước Cha trị đến" vậy.

Vấn đề thực hành sống đạo:

Tại sao Kitô hữu giáo đoàn Côrintô, trong Thư thứ nhất Thánh Phaolô gửi cho họ cho biết là, chia rẽ nhau? "Phải chăng", như Thánh Phaolô đặt vấn đề với họ, "Chúa Kitô đã bị phân mảnh?" Thật ra, nếu tự mình Chúa Kitô chỉ là một, thì dù là Phaolô hay Appôlô hoặc Cêpha cũng chỉ rao giảng một Chúa Kitô duy nhất, một mạc khải thần linh duy nhất, một phúc âm duy nhất. Sở dĩ xẩy ra tình trạng chia rẽ nhau nơi họ là vì vấn đề đức tin nơi người thụ lãnh, đúng hơn, là vì con người lãnh nhận đức tin chưa hoàn toàn gắn bó với đức tin của mình, hay chưa thấu triệt đức tin của mình, cứ tưởng hay cứ đòi Chúa Kitô phải như mình nghĩ mới được. Như thế, nếu Kitô hữu chúng ta thời nay chia rẽ nhau khi cùng nhau hoạt động tông đồ thì không phải là chúng ta đã phân mảnh Chúa Kitô rồi hay sao? Nghĩa là chúng ta vẫn còn bị confused, bị lầm lẫn về Người. Đó là lý do chúng ta cần phải "cải thiện đời sống" để có thể và mới có thể chẳng những chấp nhận "Nước Trời" trong tâm hồn mình, mà còn phát triển "Nước Trời" bằng chứng từ truyền giáo của mình nữa!

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

 
     

Tỉnh Dòng Đồng Công Hoa Kỳ
1900 Grand Ave - Carthage, MO 64836
Phone: ( 417) 358-7787 Fax: (417) 358-9508
cmc@dongcong.net (văn phòng CD) - web@dongcong.net (webmaster)