|
Chúa
là Thiên Chúa…
Bài
Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, về nội dung, có thể nói làm sáng tỏ
ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước. Đó là lý do, Giáo
Hội không chọn đọc đoạn Phúc Âm tiếp ngay sau bài Phúc Âm Chúa
Nhật tuần trước về vấn đề kẻ chết sống lại để trả lời cho nhóm
Sađucê, một vấn đề không trực tiếp liên quan đến ý nghĩa sâu xa
của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước và Chúa Nhật tuần này. Thật
vậy, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước Chúa Giêsu đã lợi
dụng vấn đề “trả thuế cho Cêsa có hợp lý hay chăng?”, do nhóm
đồ đề của phái Pharisiêu đặt ra để gài bẫy lời nói của Người,
để kêu gọi chung tất cả mọi người và riêng thành phần chất vấn
Người rằng: “Hãy trả cho Cêsa những gì của Cêsa và hãy trả cho
Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Qua câu trả lời làm cho mọi
người ngỡ ngàng này, Chúa Giêsu chẳng những đã kêu gọi riêng thành
phần chất vấn Người và chung dân tộc Do Thái của họ là hãy vì
Chúa mà nộp thuế cho Cêsa, tức hãy hàng phục Cêsa là nhân vật
Thiên Chúa duy nhất của họ đã muốn dùng để kéo họ về với Ngài,
vì thực tế họ đã không “trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên
Chúa”, những gì Thiên Chúa muốn chứ không phải những gì họ nghĩ
ra, những gì theo ý riêng của họ. Trong bài suy niệm Phúc Âm Chúa
Nhật tuần trước tôi đã chia sẻ vấn đề dân Do Thái này như sau:
“Thật
vậy, vấn đề Chúa Giêsu trả lời cho vấn nạn có âm mưu của nhóm
người Pharisiêu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, nếu để ý,
sẽ thấy có liên hệ đến ba dụ ngôn Người đã nói với thành phần
lãnh đạo dân Do Thái trong Phúc Âm ba tuần trước. Ở chỗ, thành
phần lãnh đạo Do Thái nói chung, trong đó có những người thuộc
nhóm Pharisiêu, như Nicôđêmô chẳng hạn (x Jn 3:1), đã là người
con chỉ làm theo ý mình, ‘vâng con đi’, mà thực tế không làm theo
ý cha, tức họ đã không ‘trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên
Chúa’; hay họ đã là bọn tá điền làm vườn nho cho chủ nhưng không
sinh hoa lợi cho chủ như ý chủ muốn, lại còn sát hại các thừa
sai của chủ, kể cả người con trai duy nhất của chủ, tức họ đã
thực sự không ‘trả về cho Thiên Chúa nhưng gì của Thiên Chúa’;
hoặc họ đã là những người được chính thức mời đến dự tiệc cưới
của vua, song đã từ chối không chịu đến dự, thậm chí còn ra tay
sát hại những đầy tớ của vua sai đi mời họ, tức là họ cũng đã
không chịu ‘trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa’”.
Vậy,
qua bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu đã vạch rõ lý do
tại sao họ đã không “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên
Chúa”, và đã xác định rõ cho chung con người, nhất là cho riêng
dân Do Thái, biết những gì họ cần phải “trả về cho Thiên Chúa”,
và họ phải “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” bằng
cách nào. Vấn đề của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, qua câu trả
lời của Chúa Giêsu cho nhóm Pharisiêu thông luật, đó là vấn đề
kính mến Thiên Chúa hết bản thân mình và yêu thương nhau như bản
thân mình, một vấn đề cốt lõi của tất cả lề luật và các lời tiên
tri, như lời Chúa Giêsu khẳng định ở cuối bài Phúc Âm. Vậy nếu
thành phần Pharisiêu nói riêng và dân Do Thái nói chung lại hết
sức để ý đến lề luật và cặn kẽ tuân giữ từng điều luật của Thiên
Chúa thì họ phải là những người đã kính mến Thiên Chúa hết bản
thân của họ cũng như đã yêu thương tha nhân như bản thân của họ?
Thế mà, theo Chúa Giêsu, Đấng thấu suốt lòng trí con người, họ
chỉ là những kẻ tôn thờ Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, còn lòng
họ hoàn toàn xa cách Ngài (xem Mathêu 15:8), đúng như người con
thưa với cha “vâng con đi” rồi lại không đi trong dụ ngôn cha
kêu gọi hai con trai đi làm vườn nho cho ông. Điều Thiên Chúa
muốn họ trả về cho Ngài đây không phải là môi miệng của họ, mà
là tấm lòng của họ, không phải là việc làm bề ngoài của họ mà
là lòng họ tin tưởng nhận biết Ngài, ở chỗ kính mến Ngài “hết
lòng muốn, hết linh hồn, hết trí khôn”. Đó là lý do, trong bài
đọc thứ hai Chúa Nhật tuần này, Thánh Phaolô đã nói đến việc “bỏ
những ngẫu tượng mà quay về cùng Thiên Chúa, để phụng sự Ngài
là Thiên Chúa hằng sống chân thật…”
Và
chính vì họ không thực lòng kính mến “Chúa là Thiên Chúa” của
họ như thế mà họ chẳng những đã không thể “trả về cho Thiên Chúa
những gì của Thiên Chúa”, mà còn không thể “trả về cho Cêsa những
gì của Cêsa” nữa. Tức là họ như tông đồ Phêrô nhìn tất cả mọi
sự theo tự nhiên, theo phán đoán trần gian chứ không theo Thần
Linh (xem Mathêu 16:23), và họ như tông đồ Gioan phản ứng hoàn
toàn theo tự nhiên, những gì không hợp với họ (như đế quốc Rôma
chẳng hạn) đều là kẻ thù của họ, cần phải loại trừ (xem Marco
9:38). Chẳng những thế, vì chỉ tìm mình hơn tìm Chúa, không “trả
về cho Thiên Chúa” đúng như những gì của Thiên Chúa và như Thiên
Chúa muốn, nên họ cũng đã không “trả về cho Cêsa những gì của
Cêsa”, tức cho tha nhân những gì của tha nhân, trái lại, họ đã
khinh thường, hà hiếp, bóc lột chính anh em mình, như trường hợp
người Pharisiêu lên đền thờ cầu nguyện bộc phát đối với người
thu thuế ở cuối đền thờ bấy giờ (xem Luca 18:11), những hành động
được Sách Xuất Hành trong bài đọc thứ hai của Chúa Nhật tuần này
liệt kê cấm không được làm. Có thể nói, nếu con người biết “trả
về cho Cêsa những gì của Cêsa” là họ đồng thời cũng “trả về cho
Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Hay nói cách khác, một khi
họ yêu thương tha nhân như bản thân mình là chứng tỏ họ đã “trả
về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”, đã tỏ ra “yêu Chúa
là Thiên Chúa hết lòng muốn, hết linh hồn và hết trí khôn” của
họ.
Như
thế, con người phải “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên
Chúa” là chính tấm lòng của mình, và trả về cho Ngài bằng cách
“yêu thương tha nhân như bản thân mình”. Thế nhưng, chỉ khi nào
con người biết “kính mến Chúa là Thiên Chúa của mình hết lòng
muốn, hết linh hồn và hết trí khôn” con người mới có thể vừa “trả
về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” vừa “trả về cho Cêsa
những gì của Cêsa” mà thôi. Thế nhưng, vấn đề ở đây là tại sao
con người phải “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”?
Hay tại sao con người phải “kính mến Chúa là Thiên Chúa của mình
hết lòng muốn, hết linh hồm và hết trí khôn”? Nếu không phải tại
vì “Chúa là Thiên Chúa”!
Đúng
thế, theo tiến trình Mạc Khải Thần Linh trong Lịch Sử Cứu Độ của
dân Do Thái thì vị “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), “là Đấng
vô hình” (Col 1:15), đã tự ý tỏ mình ra trong lịch sử loài người,
cách riêng cho một dân tộc được Ngài tuyển chọn là dân Do Thái.
Bằng cách đã tự động lập giao ước với tổ phụ của họ là Abraham
và đã giữ trọn những gì Ngài đã hứa với con cháu của ông (xem
Luca 1:55), một giao ước và lời hứa đã được nên trọn nơi Đức Kitô
Thiên Sai Con Ngài (xem Heb 1:2), Người Con Ngài đã làm đám cưới
cho, như dụ ngôn của bài Phúc Âm hai tuần trước. Phải, Người Con
này “đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), đã nên một với loài người,
đã cưới lấy nhân tính loài người, như vợ chồng nên một thân thể
với nhau, nhờ đó hết mọi người không trừ ai, kể cả Do Thái lẫn
Dân Ngoại, đã được mời đến tham dự bữa Tiệc Cưới Thần Linh ấy,
một Tiệc Cưới mà thực phẩm Tân Ước tuyệt hảo được thiết đãi nhưng
không là chính Mình Máu của Con Thiên Chúa, làm cho khách dự tiệc
“được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10). Chính
vì Thiên Chúa đã yêu nhân loại chúng ta trước một cách nhưng không
và vô cùng như vậy mà chúng ta phải kính mến Ngài (xem 1Jn 4:19),
bằng chính tình Ngài yêu thương chúng ta. Vì “Chúa là Thiên Chúa”
đã yêu thương chúng ta vô cùng bằng chính con tim nhân loại của
Con Ngài, thì chúng ta cũng chỉ có thể trả lại cho vị “Thiên Chúa
là tình yêu” (1Jn 4:8,16) toàn thiện toàn ái này một cách cân
xứng bằng con tim nhân loại của Đấng đã dạy chung Giáo Hội Nhiệm
Thể của Người cũng như riêng thành phần môn đệ của Người rằng
“Các con hãy yêu nhau như Thày đã yêu các con” (Jn 13:34;15:12).
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
|
|