Chúa Nhật XXXIII Thường Niên Năm A
 
 


NÉN BẠC TÀI NĂNG

Người ta thường nói: "Có gan làm giàu", hoặc "Phi thương bất thành phú". Tuy nhiên, thực tế cho thấy không phải hết mọi thương gia đều trở thành triệu phú và cũng lắm kẻ vì có gan nên mới trắng tay, tan gia, bại sản... Do đó, khi đọc dụ ngôn ông chủ trao tiền bạc cho các đầy tớ trước khi đi xa để khi về có thể thu lại cả vốn lẫn lời, tôi mãi băn khoăn tự hỏi không biết ông chủ sẽ đối xử như thế nào nếu một trong các đầy tớ của ông đến thưa rằng: "Thưa ông, ông trao cho tôi năm nén bạc, tôi dùng một nửa để mua cổ phiếu - stock - và giao nửa kia cho người đổi bạc, nhưng bây giờ stock và bạc đang bị xuống giá cho nên số tiền của ông bị lỗ mất 3 nén và chỉ còn được có 2 nén thôi..." Theo tự nhiên thì chắc ông sẽ phạt người đầy tớ này rất nặng, vì đối với người không sinh lợi được, tức là huề vốn, mà ông đã phạt nặng đến nỗi phải khóc lóc nghiến răng thì đối với người bị thua lỗ chắc còn thê thảm hơn bội phần.

Lời-lỗ là chuyện đương nhiên và rất thường tình trong lãnh vực buôn bán, đổi chác. Trước khi kết thúc Năm Phụng Vụ, Giáo hội mời gọi mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lại xem một năm qua với biết bao hồng ân Thiên Chúa trao ban, chúng ta đã đi đến đâu trên bước đường theo Chúa, qua dụ ngôn các nén bạc. Và hiển nhiên, ai trong chúng ta cũng biết Chúa muốn dùng dụ ngôn này để ám chỉ đến cuộc sống của mỗi người với những tài năng Ngài ban tặng khi sinh chúng ta vào đời. Không nhiều thì ít, mỗi người chúng ta đều có những ưu khuyết điểm riêng. Hay nói cách khác, sinh ra cũng một kiếp người nhưng có kẻ trời ban cho lắm tài, có người đếm đi đếm lại may ra được một hoặc hai năng khiếu. Do đó, cơ hội để mỗi người lập thân cũng rất chênh lệch nhau. Có kẻ buôn đâu lời đó nhưng cũng có người hễ đụng đến là chỉ có thua với lỗ. Có người sinh ra đã là thiên tài hoặc được ăn học ngay từ thuở nhỏ nhưng lại có lắm kẻ suốt đời cũng chẳng nắm bắt được cơ hội để đến trường. Và các tài năng, cơ hội hay hoàn cảnh gặp phải trong đời chính là những nén bạc Thiên Chúa trao ban cho chúng ta, kẻ nhiều người ít, để có thể chu toàn ơn gọi của riêng mình.

Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng vì vậy mà vội kết án Thiên Chúa là đấng bất công. Trái lại, Ngài vẫn mãi là Thiên Chúa rất công bằng, vì cách đối xử của Ngài khác với lối thưởng phạt tự nhiên của con người. Thiên Chúa không thưởng phạt theo mức độ thành công hay thất bại của con người nhưng chỉ xét đến sự cố gắng của chúng ta mà thôi. Kẻ được ban cho nhiều thì cũng sẽ phải trả lại nhiều. Do đó, sau khi đã cố gắng hết mình để đầu tư các tài năng Chúa ban vào việc tiến thân và mưu cầu lợi ích cho tha nhân nhưng chẳng may chúng ta thất bại hay chỉ thành công được tí chút, Ngài cũng sẵn sàng dang rộng đôi tay ôm chúng ta vào lòng và âu yếm gọi chúng ta là những đầy tới tốt lành và trung tín. Chính vì vậy mà thánh Phaolô đã có lần nhắn nhủ dân thành Galata là "mỗi người hãy nên xem xét việc làm của chính mình... chứ đừng so sánh với người khác" (Gl 6:4). Cho nên, qua bài Phúc âm hôm nay, tuy không nói thẳng ra, nhưng Chúa Giêsu ngầm nhắn nhủ chúng ta: "Muốn trở thành đầy tớ tốt lành trung tín của Ngài thì phải liều mạng". Liều mạng để giữ lòng kính sợ Chúa (bài đọc 1), liều mạng để luôn sẵn sàng tỉnh thức và điều độ (bài đọc 2), và sau cùng là liều mạng dám sử dụng bất cứ tài năng nào Chúa ban cho để vươn lên và giúp đỡ tha nhân cùng nhận biết, tin tưởng và mến yêu Thiên Chúa. Đó là kết quả mỹ mãn nhất mà Thiên Chúa hằng hy vọng khi trao ban các nén bạc cho chúng ta.

Lm. Tuấn-Bình, CMC

Tài năng Ân Điển Khác Nhau
Lm Louis Nhiên, CMC
01/02/2005

Chúa Nhật 33 Thường Niên

Tài năng Ân Điển Khác Nhau

Mt 25,14-30

Khi ông Adong và bà Evà bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, họ đã xây một cái nhà trên đất sỏi khô cằn, và làm lụng vất vả đổ mồ hôi trán để kiếm của ăn. Mỗi năm hai ông bà có thêm một người con. Theo năm tháng, những người trẻ này lớn lên và tổng cộng tất cả là 14 người. Chắc chả ai ở đây có can đảm sinh sản 14 người!

Một hôm nghe tiếng gõ cửa, ông Adong ra mở và thấy Thiên Chúa đến thăm. Bà Evà mau mắn mời Chúa ngồi và dâng nước cho Chúa dùng. Chúa cám ơn và hỏi: “Các đứa trẻ đi đâu hết cả rồi?” Mau lẹ ông Adong đi gọi các con và 7 đứa đã bước vào nhà, đứng nghiêm trang trước mặt Chúa. Chúa đứng dậy mỉm cười và nói: “Cha sẽ chúc lành cho từng con một”. Họ quì xuống trước mặt Ngài, và Ngài đặt tay trên đầu chúng. Với người con cả, Ngài nói: “Con sẽ là một ông vua oai hùng dũng mạnh”. Với người con thứ hai, Ngài bảo: “Con sẽ là một công chúa xinh đẹp”. Người con thứ ba nghe Ngài nói: “Con sẽ là một vị công tước khôn ngoan”, và những người còn lại đều được lãnh nhận ơn lành để trở nên những học gidi, thi sĩ, đại thương gia.

Ông Adong và bà Evà thấy Chúa chúc lành rộng rãi cho các con của mình, nên vội vàng đi tìm 7 người con còn lại dẫn đến trước mặt Chúa. Chúa cười và nói: “Ta cũng phải chúc lành cho các trẻ này mới được”. Nghe thế, ông Adong và bà Evà mỉm cười sung sướng. Đặt tay trên đứa thứ nhất, Ngài nói: “Con sẽ là một người đầy tớ trung tín”. Với người thứ hai, Ngài bảo: “Con sẽ là một bác nông phu”. Người con thứ ba cũng được chúc lành để làm thợ đóng giầy. Số còn lại người làm thợ rèn, người làm thợ mộc, người làm nghề may vá quần áo.

Bà Evà nghe thấy Chúa chúc như vậy, nên khóc và thưa: “Lạy Chúa, thật không công bằng chút nào. Chúa phân phát các ân huệ của Chúa không đồng đều chi cả. Tất cả những người con này đều là con của con mà Chúa cho người được làm vua, người bị làm đầy tớ”. Chúa lắng nghe lời than, rồi trả lời: “Này Evà, con không hiểu Cha. Cha thấy cần thiết phải phân chia các nhiệm vụ, các công việc trên mặt đất này qua các người con của con. Nếu tất cả đều làm vua hoặc công chúa thì còn ai làm nghề nông để cung ứng thực phẩm nữa. Nết tất cả đều làm quan thì ai sẽ là người cung cấp quần áo. Mỗi người lãnh nhận nhiệm vụ khác nhau, nhưng dưới cái nhìn của Cha, tất cả đều quan trọng và cần thiết. Giống như các phần trong thân thể. Tất cả đều hoà hợp bổ túc và nuôi dưỡng nhau”. Nghe vậy, bà Evà thưa: “Lạy Chúa xin tha thứ cho con. Con đã quá vội vã và nông nổi. Con cầu xin cho thánh ý Chúa được nên trọn nơi các người con của con”.

Qua bài Phúc âm với dụ ngôn người lãnh năm nén, người hai nén, người một nén, Chúa muốn nói với chúng ta một sự thật căn bản: Không ai giống ai và mỗi người lãnh nhận những tài năng ân sủng khác nhau. Tuy nhiên tất cả mọi người đều có những gì cần phải có để đạt kết quả. Người lãnh một nén không có nhiều như người có năm nén, đó là điều rõ ràng hiển nhiên, nhưng ông có tất cả những gì ông cần. Nếu ông không đem đi chôn, có thể ông đã làm được nhiều chuyện. Điều này phản ảnh tâm trạng con người một cách sâu xa: Thiên Chúa trao ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta cần, nhưng điều đáng buồn là chúng ta thường không biết nhận ra giá trị và cảm ta những gì chúng ta có.

Phải, tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa trao ban ân huệ cũng như tài năng, và có tất cả những gì cần có để đạt đích. Thiên Chúa trao ban những ân huệ tài năng khác nhau là để giúp con nguời có thể chu toàn các công việc khác nhau, bổ túc, khích lệ, và nâng đỡ nhau trong cuộc sống vất vả nơi dương thế. Mỗi người đều quan trọng và có chỗ đứng riêng biệt trên trái đất. Điều quan trọng không nằm ở chỗ nhận nhiều hay ít, nhận ân huệ này hay tài năng kia, nhưng ở chỗ chúng ta đã, đang, và sẽ làm gì với những cái chúng ta có, những gì chúng ta đã lãnh nhận. Đây là điều quan trọng của dụ ngôn. Người có một nén cũng có cùng một cơ hội như người có năm nén, nhưng ông đã chọn lựa việc đem chôn giấu đi. Đó là điều tệ hại nhất chúng ta có thể làm với bất cứ quà tặng nào mà Thiên Chúa đã yêu thương trao ban cho chúng ta.

Đâu là ân sủng tài năng của chúng ta? Và Thiên Chúa đã trao cho chúng ta những gì để chúng ta chia sẻ với xã hội hôm nay? Phải chăng chúng ta chia sẻ hay lại chôn giấu dưới đất, đầu tư một cách ngu xuẩn hay dùng nó để làm vinh danh Chúa? Chúng ta cần nhớ rằng chúng ta có tất cả những gì cần thiết đế chu toàn nhiệm vụ và bổn phận của chúng ta. Và Thiên Chúa muốn chúng ta làm việc: Người lãnh một nén bị phạt không phải vì tội ông chỉ lãnh được một nén, nhưng vì ông không chịu làm việc, không khai thác khả năng của mình. Do đó, câu hỏi quan trọng mà mỗi người chúng ta cần kiểm điểm suy nghĩ một cách thành thực trước mặt Chúa và trả lời qua cuộc sống của mình, đó là: Chúng ta đã và đang làm gì với những cái chúng ta có, những gì chúng ta đã và đang lãnh nhận?

Hãy Sinh Lời Cho Chúa
Br. Thomas Huy Châu, CMC
01/02/2005
Chúa Nhật 33 Thường Niên

Mt 25,14-30

Hãy Sinh Lời Cho Chúa

Trong tạp chí “Bit and Pieces” có kể rằng, Charles Shulz, khi còn bé là một học sinh rất kém cỏi. Ông học môn nào cũng dở, thi cũng rớt. Trong trường, ông cố gắng nhập vào nhóm chơi banh golf, nhưng rồi ông cũng bị loại. Vì kém cỏi, ông không có bạn bè và cũng chẳng bồ bịch gì được với ai. Nhưng ông có một sở thích là vẽ hình hí hoạ, và ông chú tâm cố gắng trau dồi nó. Khi lớn lên, ông đã gởi hình hí họa của ông đi nhiều nơi để thử vận nhưng đều bị thất bại. Chẳng biết làm gì hơn, ông liền vẽ tranh hí họa diễn tả chính cuộc đời thất bại của mình qua hình ảnh của một chú bé luôn kém cỏi chẳng làm gì cho ra hồn. Và trên báo chí hiện nay, đa số ai cũng biết đến câu chuyện hí họa của một chú bé có tựa đề là “Peanut Comic Classic”. Và tất nhiên, từ một khả năng vẽ hí họa tầm thường đó, Charles Shulz, đã làm cho nó phát triển và trở nên nổi tiếng.

Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu nói về dụ ngôn một ông chủ, trước khi trẩy đi xa, trao cho các đầy tớ của ông tài sản để họ dùng mà sinh lời cho ông. Theo nhà chú thích Thánh Kinh William Barclay, thì dụ ngôn này có thể nhắm trách những biệt phái Pharisiêu và các kinh sư, những người nắm giữ kho tàng lề luật của Chúa ban mà không biết áp dụng và làm triển nở lợi ích thiêng liêng thực sự cho con người mà chỉ biết khư khư giữ chặt và áp dụng luật lệ cách khắt khe theo nghĩa đen. Do đó, họ đã bị phạt, và nước trời đáng lẽ thuộc về họ đã bị lấy đi và trao cho dân ngoại.

Ngày nay theo ý kiến của nhiều người và chính chúng ta cũng có thể suy ra rằng những nén bạc Chúa trao cho mỗi người chúng ta là những tài năng siêu nhiên và tự nhiên Chúa ban. Và Chúa muốn chúng được phát triển qua đời sống Kitô Hữu. Làm thế nào để chúng ta có thể phát triển những tài năng Chúa ban. Hai yếu tố quan trọng là nhận ra và cố gắng xử dụng nó. Đọc kỹ dụ ngôn chúng ta thấy hai điểm quan trọng là (1) khi ông chủ trao nén bạc, ông không đòi rõ là mỗi đầy tớ phải sinh lời bao nhiêu, nhưng có một điều chắc chắn là ông muốn họ phải sinh lời bằng cách tự sức mình làm ra hay ít nhất gởi vào ngân hàng mà sinh lời, (2) và khi trao, ông đã biết rõ khả năng của từng người và ông chỉ trao đủ số lượng phù hợp với khả năng.

Những nén bạc chính là những ân huệ Chúa ban cho mỗi người, ân huệ Chúa ban nhưng không, nhưng Chúa ban kèm theo một trách nhiệm: làm phát triển những ơn Chúa ban. Điều kiện đó dường như là định luật ngay từ thuở tạo dựng. Chúa tạo nên Ađam và Evà với những khả năng siêu nhiên và tự nhiên để họ tiếp tục làm phát triển những công trình Ngài đã tạo dựng: “Hãy sinh sôi nảy nở và hãy làm cho đầy dẫy trên mặt đất” (Stk 1,28).

Các nhà giáo dục đều cho rằng khả năng, dù tự nhiên hay siêu nhiên, của con người chỉ có thể phát triển thực sự nếu họ biết dùng nó để phục vụ và trao ban cho tha nhân. Ngay từ đầu, Adam và Evà đã không dùng những khả năng cao quí của Chúa ban để phục vụ Chúa hay trao cho nhau, nhưng họ ích kỷ muốn tìm cho mình sự hiểu biết để chiếm lấy danh dự và nên như Thiên Chúa (xem Stk 3,5) Và kết quả là khả năng siêu nhiên cũng như tự nhiên của họ bị mất đi hay giảm sút.

Ông Charles Shulz, dù thấy mình bị thất vọng trong mọi lãnh vực, ông đã khám phá ra chút tài năng Chúa ban và phát triển nó, và có thể nói ông đã được Chúa thưởng ngay từ đời này.

Nghe lời Chúa dạy hôm nay, chúng ta trước hết hãy nhận ra những ân huệ Chúa ban và làm cho nó phát triển qua cuộc sống phục vụ Chúa và tha nhân. Nếu không, e rằng ngay cả những gì chúng ta đang có, cả khả năng vật chất lẫn thiêng liêng, cũng sẽ bị Chúa cất đi và trao ban cho người khác.

Chúng ta hãy là những đầy tớ trung tín và cố gắng sống đời Kitô Hữu hết mình theo khả năng Chúa ban cho chúng ta, để sau này chúng ta được nghe Chúa nói: “Hãy vào và hưởng sự hoan lạc của chủ ngươi” (Mt 25,21).

Trích NS Trái Tim Đức Mẹ

 

CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN A  16-11-2014
Tỉnh thức – đợi chờ (Mt 25 1-13)

Chỉ còn hai tuần nữa là kết thúc năm Phụng vụ. Giáo Hội mời gọi người Kitô hữu chúng ta hãy luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng chờ Chúa đến, để đón chúng ta vào Vương Quốc của Người qua bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay với dụ ngôn“Mười cô trinh nữ” nhằm nhắn nhủ chúng ta và làm nổi bật thái độ phải luôn thắp sáng Niềm Tin của mình trong cuộc sống.

Trong câu truyện dụ ngôn này, Chúa Giêsu không  đề cập  đến chàng rể mà chỉ chú ý  đến các cô phù dâu, tất cả là mười người, nhưng có năm cô khôn và năm cô dại. Chúa cũng cho biết: năm cô khờ dại là dựa vào sự kiện các cô không chuẩn bị  đủ dầu  để  đốt  đèn, còn năm cô khôn ngoan là người biết chuẩn bị cho mình có đèn và đã đổ đầy dầu, để đủ cho đến giờ chú rể đến, dù là đến giữa lúc đêm khuya. Vậy khôn ngoan là gì? Là biết đúng những gì phải làm, hay nói đúng hơn là biết những điều nên làm và những điều nên tránh. Khôn dại trong dụ ngôn mười cô trinh nữ… không có ý nói đến cái khôn khéo thủ đoạn, lanh lẹ chân tay, mau mồm, mau miệng, nhưng là sự khôn ngoan  đích thực của lòng trung tín trong Ơn gọi sống đức tin Kitô hữu của mình. Là biết tỉnh thức trước những cám dỗ ngọt ngào của cuộc sống, là biết sáng suốt sàng lọc trước cả rừng thông tin tốt, xấu tràn ngập khắp chốn, làm nhiễu đoạn Đức Tin.

Đây là trách nhiệm của mỗi người phải nhận lấy mà không ai có thể làm thay cho mình. Sống Đức Tin, nêu cao ngọn đèn Đức Tin để đạt đến hạnh phúc muôn  đời như mục tiêu cuối cùng của  đời mình. Thiên Chúa ban cho mỗi người các phương tiện cần – đủ,  để hoàn thành mục tiêu. Chúng ta thấy: Cô nào cũng có đèn đấy chứ? Còn dầu là sự đóng góp cá nhân mỗi người. Sự đóng góp tự do và tích cực này, tạo ra công phúc, và công phúc được ví như chiếc đèn có đủ dầu để cháy sáng cho đến khi Chàng Rể tới, mời chúng ta vào dự.

Chàng rể là chính Chúa Giêsu, mười cô trinh nữ là toàn thể nhân loại  được Thiên Chúa yêu thương và  đón mời vào dự tiệc cưới Nước Trời. Dầu và đèn là các điều kiện cần có để được tham dự tiệc cưới ấy.  Cò n  v iệc chàng rể đến chậm, đến trễ, đến bất ngờ ám chỉ việc Chúa đến. Chắc chắn Chúa sẽ  đến, nhưng hoàn toàn bất ngờ,  đột xuất, nên ai khôn thì sẵn sàng. Như vậy,  dụ ngôn này trước hết nói  đến tất cả nhân loại phải tỉnh thức sẵn sàng chờ  đón ngày chung cục của nhân loại. Ngày đó không ai biết trước được. Đàng khác, dụ ngôn này cũng nhắc tới giờ chết của mỗi người cũng rất là bất ngờ, không ai biết trước  được giờ mình chết. Cho nên đòi hỏi mỗi người phải hết sức tỉnh thức và sẵn sàng. Đây chính là bài học Chúa Giêsu muốn dậy chúng ta.

Dụ ngôn cho thấy: cả khôn, cả dại đều ngủ cả, chứ đâu chỉ có những cô dại mới ngủ. Nhưng cái làm cho mười cô khôn dại khác nhau, là ở chổ tỉnh thức và sẵn sàng. Năm cô khôn đã ngủ, nhưng ngủ trong thái  độ sẵn sàng. Còn năm cô dại lại ngủ trong một thái độ thơ ơ, chểnh mảng, tới đâu hay tới đó, đến khi “hay” được thì đã qúa muộn.Nếu chúng ta muốn giờ Chúa đến không thành một tai hoạ, chúng ta phải biết sẵn sàng đón Chúa. Muốn đón Chúa chúng ta phải có đèn. Đèn muốn
hữu dụng phải có dầu. Dầu đốt mãi cũng phải hết. Chúa  đến lại chẳng biết lúc nào…lâu hay chóng, sớm hay muộn là việc ngoài sự hiểu biết của chúng ta. Vậy  để chắc chắn, chúng ta phải biết tích trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt. Dầu  đây là những việc lành phúc  đức, sống  đời bác ái yêu thương, loại dầu này, nếu có trữ lượng phong phú, việc sẵn sàng của chúng ta  đã thành hiện thực. Thời gian chờ đợi Chúa, dù lâu hay mau, chúng ta vẫn bằng an, thanh thản sống hạnh phúc mà không âu lo gì cả.

Người ta đã ví đời người như một chuyến đi: ngày bắt đầu là ngày chào đời. Ngày tới đích là ngày giã từ cuộc sống. Trần gian là đại dương dậy sóng, con tàu chính là bản thân mình. Chuyến đi này là chuyến đi không rõ ngày tới, nhưng biết chắc chắn sẽ tới. Con tàu lại mong manh, bé nhỏ, đòi chúng ta phải luôn cảnh giác, phải chuẩn bị hành trang lâu dài, phải khôn khéo chèo lái, phải nhận rõ phương hướng mình tới… được thế chúng ta mới hy vọng vượt biển tới đích an toàn tốt đẹp.

Lạy Chúa, xin dạy cho con biết luôn tỉnh thức, sẵn sàng chờ  đợi ngày Chúa giáng lâm, với  đèn dầu luôn cháy sáng trong tay,  để  được Chúa  đưa vào bàn tiệc Nước Chúa. Amen.

GM Lệ Tâm

VINH DANH CÁC THÁNH TỬ ÐẠO
kính trọng thể tại Việt Nam


Tin Mừng đến với dân tộc Việt nam trên 400 năm, thì hết 300 năm, Giáo Hội Việt Nam thấm đẫm dòng máu các anh hùng tử đạo. Giai đoạn bách hại nặng nề nhất là vào thế kỷ 19, trong các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Ðức.

Cuộc bách hại để lại một trang sử đầy nghiệt ngã cho dân tộc Việt Nam: những người Việt Nam tàn nhẫn sát hại nhau. Chính những đồng bào Việt Nam chung cội, chung nguồn lẽ ra phải yêu thương nhau, lại quay mũi kiếm giết nhau hàng loạt.

Thật vinh phúc cho Giáo Hội Việt Nam, một Giáo Hội còn non trẻ, nhưng lại căng tràn sức sống, đạp trên đầu sóng ngọn gió, vượt thắng mọi thử thách, mọi đau đớn, mà cho đến nay, dẫu đã qua đúng một thế kỷ, thời gian đủ bình tĩnh để suy niệm, sao vẫn còn nghe hãi hùng, vẫn còn nghe nhức nhối tâm can, làm lặng đi mọi tư tưởng, mọi lời nói, mọi thanh âm.

Những người con đất Việt tưởng như gục ngã không thể gượng dậy nổi dưới bàn tay tàn bạo của làn kiếm, mã tấu, gông cùm, tù đày, lửa nung, bá đao, tùng xẻo, xiết cổ, chém bay đầu..., lại là sức mạnh ngàn đời của một đức tin không gì lay chuyển nổi. Bởi thân xác các thánh Tử đạo dù bị giết, nhưng đức tin của các ngài thì không ai giết được.

Một Giáo Hội còn non trẻ đến thế, lại có sức chịu đựng sự giày xéo quá sức tưởng tượng của người đời. Giờ nhìn lại sự nhiệm mầu của sức chịu đựng, ta chỉ còn có thể bật thốt lên như thánh nữ Têrêsa: "Tất cả là hồng ân". Hồng ân nhận được không chỉ là một quà tặng, nhưng còn là một quà tặng vinh dự, một quà tặng của niềm kiêu hãnh thánh thiện.

Hồng phúc tử đạo không chỉ là một hành động dâng hiến tận cùng mà còn là một dâng hiến vinh thắng tận cùng. Ðó không là một vinh phúc lớn lao lắm hay sao! Một vinh phúc lớn lao mà một Giáo Hội còn non trẻ như Giáo Hội Việt Nam lại có thể cùng Giáo Hội hoàn vũ đã qua mấy ngàn năm, vẽ thêm vào đó một đường lịch sử của đức tin không bao giờ mệt mỏi, không bao giờ dừng lại.

Các thánh Tử đạo đã viết sử bằng máu của mình. Còn chính Thiên Chúa, Người cũng đã làm cho Giáo Hội Việt Nam được khai sinh, lớn lên và phát triển nhờ dòng máu các Thánh.

Nếu cuộc bách hại để lại một trang sử đầy nghiệt ngã cho dân tộc Việt Nam, thì đối với đức tin, đó lại là một trang sử hùng tráng cho Giáo Hội Việt Nam nói riêng và Giáo Hội hoàn vũ nói chung: Bởi những người con đất Việt càng yêu mến quê hương, yêu mến bản thân mình, luyến tiếc cuộc đời, luyến nhớ người thân... và điều đặc biệt: yêu mến các vua quan là những người bên trên mình, thì càng yêu mến đức tin khôn cùng. Chính cái chết của các thánh Tử đạo là một lời nói xác quyết và chung quyết cho mọi lời tuyên xưng đức tin rằng: Không có bất cứ cái gì có thể ngang bằng đức tin...

Hiểu rất rõ Chúa Giêsu, Ðấng mà mình tôn thờ vượt trên tất cả, dẫu là chính bản thân các vua quan hay lệnh truyền của các vua quan đi nữa, không có gì sánh ví được với Ðức Chúa mà lẽ ra các vua quan cũng phải tôn thờ, các thánh Tử đạo đã chối từ một cuộc sống dễ dãi.

Hiểu rất rõ Chúa Giêsu, Ðấng mà mình tôn thờ là Ðức Chúa của mình, vì thế, dẫu chỉ là hai que củi vắt chéo trên mặt đất, bình thường chỉ là hai que củi không hơn, không kém, nhưng để biểu lộ đức tin, thì bất cứ một bàn chân giẫm đạp nào, bất cứ lời lụy mạ nào, hay bất cứ một hành động nào đối lại đức tin khi đứng trước hai que củi ấy, tất cả đều là sự chà đạp đức tin, chà đạp Giáo Hội, chà đạp chính Ðấng mà mình tôn thờ.

Ngược lại, bất cứ một hành động hay một lời nói nào để tuyên xưng đức tin mà phải tôn trọng hai que củi hình chữ thập ấy, điều đó không còn đơn thuần là hai que củi hình chữ thập nữa, nhưng là hình tượng Thánh Giá, hình tượng của lòng tin, hình tượng của một tâm hồn quả cảm quyết một lòng tôn thờ Ðức Chúa của mình!

Hiểu rất rõ điều đó, cho nên dù chỉ là đối điện với hai que củi vắt chéo hình chữ thập, các thánh Tử đạo không chỉ đứng trước hai que củi, nhưng là đối diện với nỗi giằng co mạnh bạo, đối diện với sự chọn lựa không khoan nhượng, nhưng dứt khoát: đức tin hay cuộc sống trần thế.

Cái giá phải trả cho sự chọn lựa đứng về phía đức tin là bị tước đoạt tất cả những gì đang có trong cuộc trần. Bị tước đoạt cả sự sống, cả đến giọt máu sau cùng.

Máu các thánh Tử đạo Việt Nam đã dệt đỏ thắm dòng lịch sử Giáo Hội Việt Nam, vì thế, các thánh Tử đạo mãi mãi vẫn xứng đáng sống trong lòng Giáo Hội và nơi từng người tín hữu Việt Nam.

Vượt trên tất cả mọi tấm gương, vượt trên tất cả mọi bài học, máu các Thánh phải là chính cuộc sống của những người Việt Nam Công Giáo hôm nay, khi làm người Việt Nam giữa dân tộc mình, và làm người giữa đời.

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG

 

Nén bạc 

Ngày xưa, triết gia Platô (427–347 BC, trước công nguyên) người Hy Lạp đã đưa ra một thí dụ điển hình giúp chúng ta kiến tạo những điều ưu tiên trong cuộc đời.  Hãy tưởng tượng cuộc đời như một hình tam giác lớn; xếp đặt tất cả những điều coi là quan trọng dọc theo cạnh đáy của hình tam giác.  Rồi bắt đầu di chuyển những điều ưu tiên hơn lên trên.  Khi chúng ta di chuyển chúng lên trên như vậy, cạnh đáy của hình tam giác càng thu hẹp nhỏ lại để đưa những điều quan trọng hơn lên trên đỉnh của hình tam giác.  Chúng ta sẽ đặt những điều ít quan trọng nằm ở phía dưới và sẽ giữ lấy những điều coi như quan trọng hơn ở trên.  Sau cùng, khi chúng ta đạt tới đỉnh của hình tam giác, chỉ còn một chỗ duy nhất mà thôi.  Kết quả là, chúng ta sẽ tự hỏi chính mình, “Cái gì quan trọng nhất trong cuộc đời, ở trên tất cả mọi sự?”  Câu trả lời, dĩ nhiên là sống hoà hợp với ý muốn của Thiên Chúa, là đầu tư cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa.

Qua dụ ngôn những nén bạc trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã tin tưởng trao ban cho mỗi người một cuộc sống, một khả năng, một kho tàng để chúng ta phát triển trở nên phong phú bằng cách sẵn lòng đầu tư khả năng của mình vào chương trình và mục đích của Ngài. 

Thiên Chúa muốn chúng ta chấp nhận hy sinh cho chương trình của Ngài.  Ngài muốn hoạt động và phát triển mạnh mẽ trong cuộc sống của chúng ta.

Một vị vua kia có ba người con trai, mỗi người với những tài năng riêng của mình.  Người thứ nhất có tài trồng cây ăn trái.  Người thứ hai chăn nuôi cừu.  Và người thứ ba kéo đàn vĩ cầm (violin) rất hay.  Một hôm nhà vua phải đi ra khỏi nước một thời gian lâu dài.  Trước khi ra đi, vua gọi ba người con lại và căn dặn rằng vua tin tưởng nơi họ làm cho dân chúng hài lòng trong lúc vua vắng mặt. 

Lúc đầu mọi sự rất tốt đẹp.  Nhưng rồi mùa đông tới, một mùa đông lạnh giá chưa từng có.  Không còn đủ củi cho dân chúng sưởi.  Người con thứ nhất phải đối diện với một quyết định vô cùng khó khăn, có nên để dân chúng chặt một số cây ăn trái làm củi sưởi không?  Khi nhìn thấy dân chúng run rẩy trong giá buốt, cuối cùng người anh cũng phải cho phép họ làm. 

Người con thứ hai cũng đã phải đối diện với một quyết định khó khăn.  Dân chúng khan hiếm lương thực để ăn trong mùa đông.  Anh có nên cho phép họ giết đàn cừu yêu quý của mình làm lương thực không?  Khi nhìn thấy trẻ con than khóc vì đói, anh đau lòng và để cho họ giết đàn cừu làm lương thực ăn qua mùa đông. 

Dân chúng đã có củi để sưởi và thịt cừu để ăn trên bàn.  Tuy nhiên mùa đông khắc nghiệt vẫn cứ tiếp tục kéo dài.  Tinh thần của họ trở nên chán nản, không ai có thể làm cho họ vui vẻ, phấn khởi lên được.  Dân chúng tìm kiếm đến người con thứ ba biết kéo đàn vĩ cầm, nhưng anh từ chối không muốn chơi đàn cho họ nghe.  Cuối cùng tình thế trở nên tuyệt vọng, nhiều người đã bỏ xứ, dọn đi nơi khác. 

Đến một ngày, nhà vua trở về nước.  Ông vô cùng buồn bã vì thấy rằng nhiều người đã bỏ nước ra đi.  Ông gọi ba người con lại để tường trình xem chuyện gì đã xẩy ra. Người con thứ nhất nói, “Thưa cha, con hy vọng rằng cha sẽ không giận con, nhưng mùa đông đã quá lạnh và con đã cho phép dân chúng chặt cây ăn trái xuống làm củi để sưởi.”  Người con thứ hai nói “Thưa cha, hy vọng rằng cha cũng sẽ không giận con vì khi lương thực khan hiếm, con cho phép dân chúng làm thịt bầy cừu của con.” 

Nghe vậy, nhà vua thay vì giận dữ, đã ôm lấy hai người con, hãnh diện và hài lòng về họ.  Rồi người con thứ ba tiến đến với cây đàn vĩ cầm trên tay và thưa, “Thưa cha, con đã không thể nào chơi đàn nổi vì cha đã không có mặt ở đây để thưởng thức những tiếng đàn đó, hơn nữa dân chúng cũng đang chịu khổ vì đói lạnh, làm sao vui được!” 

Bấy giờ người cha mới nói rằng “Hỡi con, hãy kéo đàn cho cha nghe vì bây giờ lòng cha buồn rầu tan nát.”  Người con cầm cây đàn vĩ cầm lên kéo, nhưng tự cảm thấy rằng những ngón tay của mình đã trở nên cứng nhắc vì bỏ lâu không thực tập.  Dù cố gắng hết sức, anh cũng không thể nào nhúc nhích được những ngón tay.  Sau đó người cha nói, “Con đã có thể làm cho dân chúng phấn khởi lên bằng tiếng nhạc của con, nhưng con đã từ chối không làm.  Nếu xứ sở này đã mất đi một nửa số dân, đó là lỗi tại con.  Nhưng bây giờ chính con cũng không còn có thể chơi đàn được nữa.  Đó chính là hình phạt cho con vậy”. 

Để sống một cách phong phú hơn chúng ta phải biết sử dụng tài năng đã đón nhận từ Thiên Chúa. Trong dụ ngôn những nén bạc, ba người đầy tớ được trao ban những nén bạc.  Một nén bạc tương đương với 15 năm lương của một người lao động suốt cả ngày.  Trong Anh ngữ nén bạc được dịch là “talent,” lại còn có nghĩa là tài năng thiên phú tự nhiên trong các sinh hoạt sáng tạo như nghệ thuật, âm nhạc, thi phú… Tài năng tự nhiên có thể được hiểu rộng rãi hơn gồm những ơn lành chúng ta đã đón nhận từ Thiên Chúa, đặc biệt là đức tin, sức khoẻ, kiến thức và những cơ hội may mắn…  Những tài năng này đã được ban cho chúng ta không phải để cất dấu, làm mai một đi, nhưng phải được đầu tư để làm cho chúng sinh hoa kết quả.

 

TỬ ĐẠO, MỘT CHỌN LỰA CỦA LÒNG TIN

Lễ kính các thánh tử đạo Việt nam (tại VN)

 

Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam.  Đây là một ngày vui mừng chung của tất cả chúng ta, những Kitô hữu mang trong mình dòng máu con Rồng, cháu Tiên.  Cách đây gần 400 năm, hay đúng hơn từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha Bugiơmi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giờ, đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam.  Hạt giống Tin mừng đã được gieo vãi trên mảnh đất hình chữ “S” thân yêu này.  Cha ông chúng ta những con người có tâm hồn hiền hậu, chất phác đã đón nhận và sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin mừng đó.

Thật vậy, “Tử Đạo” theo nguyên ngữ là “Martyr” có nghĩa là “làm chứng”.  Vậy thì việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp người sẵn sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý, vợ con để chết đi làm chứng điều gì?  Chắc chắn việc các ngài sẵn sàng chết không phải vì các ngài không muốn sống, nhưng là để làm chứng rằng, sự sống nơi trần thế này không phải là tuyệt đối, và mọi vinh dự ở đời này không phải là vĩnh cửu.  Với cái chết của mình, cha ông chúng ta đã cho thấy rằng: chết chưa phải là hết, nhưng là cửa ngõ để đi vào một đời sống vĩnh cửu đúng như tâm thức từ bao đời nay trong lòng người dân Việt: “sống gởi, thác về”.  Và chính dòng máu nóng của các ngài đổ ra trên mảnh đất này, đã làm phát sinh một Giáo Hội Việt Nam hôm nay, như lời Đức Kitô: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.

1. Chọn lựa của dân Do thái:

Tuy nhiên, để có thể sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin mừng, cha ông chúng ta đã phải làm một cuộc chọn lựa thật quyết liệt trong tâm hồn.  Bởi vì, trong thực tế, hạnh phúc đời sau thì bây giờ chúng ta không thấy, còn tiền của, danh vọng cùng với những vinh hoa phú quý của nó, thì lại nằm ngay trước mắt.  Chính dân Do Thái khi bước vào được Đất Hứa, sau cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc, cũng đã phải làm một cuộc chọn lựa cơ bản này.  Ông Môisê đã nói với họ: “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là bị chết, bị tai họa”.  Khi dân Do thái chọn lựa “yêu mến Đức Chúa,… và gắn bó với Người”, thì không phải vì trước mắt họ nhận được một cuộc sống sung sướng, dễ dãi.  Họ chọn lựa Thiên Chúa chỉ vì họ tin tưởng vào tình yêu của Giavê Thiên Chúa, Đấng đã từng giải thoát họ thoát ách nô lệ Ai Cập, kết ước với họ, để họ được làm dân của Ngài.  Đồng thời, còn ban cho họ Đất Hứa làm gia nghiệp.

2. Chọn lựa của cha ông chúng ta:

“Trung thành với Thiên Chúa” cũng chính là chọn lựa, mà cha ông chúng ta ngay từ những ngày đầu đón nhận Tin mừng đã quyết định.  Một cuộc chọn lựa nhìn bên ngoài có vẻ đơn giản: đó là bước qua thập giá hay không bước qua.  Bước qua thì có ngay tiền bạc, vinh hoa phú quý, còn như không bước qua thì có thể lập tức lãnh lấy cái chết.  Đứng trước thập giá, đã có người bước qua, nhưng cũng đã có nhiều người không bước qua, không quá khoá.  Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích.  Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Augustin Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đaminh Đinh Đạt.  Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển.”

Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của chính mình.  Chọn lựa này bày tỏ thái độ của bản thân tôi đối với Đức Giêsu.  Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi.  Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được.”  Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi, thuộc Hội Thừa Sai Paris đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách thật dứt khoát, khi trả lời cho viên quan bảo ngài bước qua Thánh giá: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được?  Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”  Một chọn lựa có thể nói là đầy bấp bênh theo cái nhìn tự nhiên của con người.  Chính vì bấp bênh như thế mà những chọn lựa này trở nên có giá trị, vì nó đúng là một chọn lựa của lòng tin.

Vâng, mỗi người chúng ta chỉ nhờ có lòng tin chứ không phải nhờ bất cứ điều gì khác, mới có thể giúp mỗi người chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ.  Ý thức điều đó, thánh Phaolô mời gọi tín hữu thành Côlôsê và cũng là lời nhắc nhở từng người chúng ta: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc kiên quyết, và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin mừng.”  Đức tin này mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận khi chịu phép Rửa, nhưng như thế thì chưa đủ.  Đức tin đó còn phải được minh chứng bằng chính cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta.  Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến.  Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau.  Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không?  Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập lờ.  Không ai có thể làm tôi hai chủ (x. Mt 6, 24), điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu chúng ta qua mọi thời đại.

3. Chọn lựa của chúng ta hôm nay:

Mừng lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam hôm nay, lời Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta xét lại chọn lựa của mình. Chọn lựa này không phải chỉ một lần là xong, nhưng cần đựơc lập lại mỗi ngày.  Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi?  Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng minh cho lựa chọn của mình?  Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể không đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa, nhưng tôi thiết nghĩ, cũng không kém phần gian khó.  Đứng trước những bất công, tôi có dám bênh vực, hay tôi sợ phiền hà rồi im lặng?  Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một giấc ngủ ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa nơi ngôi Thánh đường này, tôi chọn điều gì?

Chớ gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử Đạo tại Việt Nam và nhất là sức mạnh của Thánh Thể, quý ông bà anh chị em và tôi đủ sức thực hiện những chọn lựa của mình.  Nhờ đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng được đoàn tụ với cha ông chúng ta như lời hứa của Đức Giêsu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.” Amen!

**************************************

Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, là những bậc tiền nhân đã hoàn thành sứ mạng, xin chuyển cầu cho chúng con là con cháu được noi gương các ngài, biết đem lòng bác ái dấn thân vào phục vụ, để một ngày kia trên thiên quốc, chúng con được hợp tiếng với các Ngài, ca tụng tạ ơn Chúa muôn đời vinh hiển.  Amen!

 

November 21, 2014

 

 
     

Tỉnh Dòng Đồng Công Hoa Kỳ
1900 Grand Ave - Carthage, MO 64836
Phone: ( 417) 358-7787 Fax: (417) 358-9508
cmc@dongcong.net (văn phòng CD) - web@dongcong.net (webmaster)