September 2, 2024

 

Chủ Nhật Chúa Nhật thứ Hai Mươi-Nhất Mùa Quanh Năm 2024
Gs 24:1-2,15-17,18; Tv 34:2-3,16-17,18-19,20-21; Ep 5:21-32; Ep 5:2,25-32; Ga 6:60-69
Chọn lựa.
Cả chúng con nữa, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?
Câu hỏi Chúa Giêsu đưa ra đòi buộc các môn đệ phải chọn lựa, phải dứt khoát lập trường. Đây không phải là một việc dễ dàng, vì ngay trước đó đã có nhiều môn đệ rút lui, bởi điều Ngài xác quyết một cách mạnh mẽ về thứ lương thực thiêng liêng nuôi sống linh hồn, thật là chói tai không thể nào chấp nhận được theo lẽ tự nhiên: Thịt Ngài là của ăn và Máu Ngài là của uống mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ một chọn lựa. Chọn gắn bó với Chúa hay chạy theo thói đời của thế gian “hạnh phúc thì xum vầy, gian nan thì bỏ chạy”. Chúa đòi các môn đệ không lấp lửng, lập lờ “làm tôi hai chủ”, mà phải tỏ rõ lập trường. Bỏ đi hay ở lại. Chọn sự sống đời đời hay sự sống chóng qua đời này. Các môn đệ đã gắn bó với Chúa bao lâu nay nhưng liệu rằng bằng đó thời gian có đủ để niềm tin các ông trưởng thành và có thể nhận ra Thầy là Chúa, là Đấng ban sự sống hay chưa?
 Trước câu hỏi: “cả anh em, anh em cũng muốn bỏ Thầy đi sao?”. Nhiều môn đệ đã bỏ đi. Và chắc chắn ngay trong số 12 vẫn còn có kẻ muốn bỏ đi. Số còn lại do dự, im lặng, chỉ có một mình Phêrô đã mạnh dạn thưa lên rằng: “bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Vì chỉ có Thầy mới có lời ban lại sự sống đời đời”. Thánh Phêrô đã ở lại với Thầy, vì ông tin vào Thầy mình là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Ông ở lại với Thầy vì chỉ có Thầy mới mang lại sự sống đời đời.
Người xưa thường nói: “Qua gian nan mới biết ai là bạn, là thù”. Chúa Giêsu biết rõ một trong nhóm sẽ nộp mình. Ngài cũng Phêrô sẽ ba lần chối Thầy và đa số sẽ bỏ Thầy cho người ta hành hạ và treo lên thập tự giá, nhưng Ngài vẫn yêu thương. Ngài vẫn tìm mọi cách cho các môn đệ ở lại mãi trong tình yêu của Ngài. Tình yêu của Thiên Chúa đời đời vẫn thế. Tựa như tình yêu của cha của mẹ sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái. Tình yêu của Thiên Chúa vẫn mãi mãi trung thành với tình yêu ban đầu. Ngài vẫn hằng tha thiết mời gọi con người hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Dù rằng đó là đứa ngỗ nghịch, dù rằng đó là đứa thường phạm sai lầm, đôi khi còn bất hiếu bất trung. Ngài vẫn yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Với lời tuyên bố ấy, chúng ta có thể nghĩ tới bí tích Thánh Thể, chúng ta đã cử hành trong suốt cả cuộc đời người công giáo, mà chẳng có lấy một chút băn khoăn hay do dự. Chúng ta cũng đã từng đón nhận Mình và Máu thánh Ngài một cách quen thuộc theo nghi lễ và chúng ta không còn nhận ra tính cách chói tai và những khó khăn mà các môn đệ đã găp phải.
Sự tuyên xưng của các ông chính là một sự dấn thân, một hành đông liên quan tới vận mạng của một con người. Tuy nhiên, điều đáng cho chúng ta suy nghĩ hơn cả, đó là mặc dầu chúng ta tin tưởng vững chắc vào lời xác quyết của Chúa: Thịt Máu Ngài chính là lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đem đến cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, nhưng trong thực tế, chúng ta lại sống, lại hành động trái ngược với niềm tin tưởng ấy.
Đúng thế, có những người công giáo vốn tự xưng là đạo dòng, đạo gốc… Thế mà cả chục năm không rước Chúa lấy được một lần. Có những người khác, ngày Chúa nhật cũng đến nhà thờ nhưng cho qua lần đoạn lượt mà thôi. Họ đứng ở ngoài sân, vừa nói chuyện, vừa phì phèo điếu thuốc lá và vừa tham dự thánh lễ. Mình không tham dự đã đành, mà còn cả trở và làm cho người khác lo ra, chia trí.
Hơn thế nữa, phần đông chúng ta lại tách biệt thánh lễ ra khỏi cuộc sống.
Chúng ta giữ đạo ở trong nhà thờ như một người công chức tới giờ đến sở làm việc. Có nghĩa là khi đến nhà thờ, chúng ta trang nghiêm sốt sắng. Nhưng khi thánh lễ kết thúc, cửa nhà thờ đóng lại và chúng ta trở về với cuộc sống thường ngày. Lúc bấy giờ chúng ta lại vội vã gian than, độc ác và bất công. Trong nhà thờ chúng ta là những con chiên ngoan, nhưng giữa lòng cuộc đời, chúng ta lại hoá kiếp thành một loài sói dữ. Như vậy, thánh lễ cũng chỉ là một chiếc ngăn kéo rất nhỏ bé giữa những ngăn kéo biệt lập khác của cuộc sống.
Thế nhưng, với những người có đức tin thì khác, cuộc sống phải trờ thành thánh lễ, hay nói cách khác, tinh thần thánh lễ phải thấm sâu vào cuộc sống của họ. Có nghĩa là chúng ta phải biến đổi đời sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài, bằng cách thực thi tinh thần yêu thương và hợp nhất, giúp đỡ những người chung quanh, như một bài hát quen thuộc: Ta về thôi khi thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để làm chứng nhân.
Trong cuộc đời, có những lúc chúng ta dường như sắp sửa mất tất cả, thì điều quan trọng đó là chúng ta cần phải được giúp đỡ để không thất vọng và nản chí. Các môn đệ cũng vậy, niềm tin của các ông đang bị thử thách. Trước lời xác quyết của Chúa: Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống, thì một số môn đệ đã bỏ Chúa mà đi, vì không thể nào chấp nhận được lời giảng dạy ấy. Số còn lại thì vẫn trung thành với Chúa và Phêrô đã thay mặt cho nhóm còn lại ấy tuyên xưng: Bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Bị dồn vào chân tường, nhóm còn lại vẫn tin tưởng vào Chúa, trong khi đó, nhóm thứ nhất thì chỉ biết chú tâm vào vấn đề của họ mà thôi: Tại sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn? Như thế, một đàng biết chú tâm vào Chúa, còn một đàng chỉ biết chú tâm vào mình. Hai hình ảnh này một lần nữa được diễn tả qua đoạn Tin Mừng kể lại: Đêm khuya, sóng biển nổi lên Chúa Giêsu đi trên mặt nước tiến lại thuyền các môn đệ khiến họ hoảng sợ vì tưởng là ma. Thấy vậy Chúa Giêsu lên tiếng trấn an: Thầy đây, đừng sợ. Phêrô xin Chúa cho mình cũng được đi trên mặt nước tiến đến với Ngài. Thế nhưng khi ông bắt đầu nghi ngờ, thì lập tức ông bị chìm xuống. Lập tức Chúa Giêsu nắm lấy ông vào nói: Sao đức tin của con kém thế. Tại sao con lại hồ nghi? Như thế bao lâu Phêrô biết vững tâm nhìn vào Chúa Giêsu, thì ông được an lành. Nhưng khi ông rời khỏi Người và bắt đầu chú tâm lo vấn đề của riêng mình, thì lập tức ông lâm vào tình trạng nguy hiểm.
Giữa những cơn gian nguy thử thách, giữa những lúc khổ đau cay đắng, hãy tin tưởng vào Chúa để cuộc đời chúng ta tìm thấy được sự bình an và hạnh phúc. 
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn hỏi chúng ta “phần các con có muốn bỏ Thầy không?”. Chúng ta có dám ở lại với Thầy khi mà nhiều người đã không còn tin có thế giới thần linh? Chúng ta có dám gắn bó với Người khi mà cả khối đông nhân loại đang bỏ đi để chạy theo ma lực của đồng tiền và địa vị? Có lẽ phần nhiều chúng ta do dự, phần nhiều chúng ta im lặng. Vì biết bao lần chúng ta cũng bị cám dỗ bỏ đạo để được tiến thân trên đài cao danh vọng. Vì biết bao lần đồng tiền đã làm mờ con mắt, khiến chúng ta chao đảo đức tin, muốn buông xuôi theo thói gian dối của thế gian để tìm mối lợi cho bản thân của mình. Có thể chúng ta đang đóng vai trò một Giuđa vẫn ở xen lẫn với nhóm 12 nhưng chỉ chờ cơ hội để bán đứng Thầy và bán đứng anh em.
Nguyện xin Thiên Chúa tình yêu tha thứ những yếu đuối, nhỏ nhen đầy ích kỷ của chúng con. Xin Mình Máu Thánh Ngài nâng đỡ chúng con thoát khỏi những cám dỗ trần thế để mãi mãi con có thể nói như thánh Phêrô ngày nào: “Bỏ Ngài chúng con biết đến với ai. Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời”.
Huệ Minh 2024

Thứ Hai Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mươi-Nhất Mùa Quanh Năm

Ed 24, 15-24; Mt 19, 16-22

TA TÌM GÌ TRONG CUỘC SỐNG ?

Sự sống đời đời là điều chàng thanh niên trong Tin Mừng cũng như chúng ta ngày hôm nay đang tìm kiếm. Nhưng tự chúng ta không thể có được, phải cậy nhờ vào Chúa Giê-su Ki-tô. Chàng thanh niên đã chạy đến với Chúa Giê-su để xin Chúa chỉ cho anh việc phải làm để được sống đời đời, chứng tỏ là anh biết chắc sự giàu có của anh không làm thỏa mãn, nhất là không bảo đảm cho anh, khiến anh đi tìm kiếm một thứ hạnh phúc cao hơn, có giá trị bền vững hơn là của cải vật chất.

Thái độ hiền lành, hòa nhã của Đức Giê-su đã thu hút được đủ mọi hạng người. Một chàng thanh niên giầu có, Lu-ca gọi là “Thủ lãnh” (Lc 18,18-23), đến hỏi Đức Giê-su về điều kiện phải có để được sống đời đời… Qua đối thoại với Chúa Giê-su, anh còn cho biết  anh đã tuân giữ tất cả giới răn từ thuở nhỏ. Thấy thiện chí của anh, Chúa Giê-su mời anh tiến một bước xa hơn nữa: bán tài sản, bố thí cho người nghèo, rồi trở lại  theo làm môn đệ của Ngài. Điều này đòi hỏi một sự từ bỏ lớn lao. Anh không thể đáp ứng được vì anh có nhiều của cải. Vì thế anh đã buồn rầu bỏ đi.

Mặc dầu anh thanh niên này là một người tốt. Nhưng xét cho cùng, anh ta còn ích kỷ, anh chỉ nghĩ đến thu vào, anh đã có nhiều thứ  và anh chỉ muốn có thêm chứ không muốn mất đi. Khi đến hỏi Chúa Giê-su, anh muốn được thêm sự sống đời đời nghĩa là anh muốn được cả đời này lẫn đời sau.

Giữa việc tuân giữ Lề Luật và thật sự yêu mến Chúa và anh chị em  bằng những cử chỉ cụ thể, chàng thanh niên bắt đầu cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su cách tốt đẹp với những phẩm tính tốt như ước muốn làm điều tốt, cố gắng tìm hiểu xem phải làm gì để trọn hảo hơn và tuân giữ những giới răn Chúa truyền dạy. Nhưng không thể dừng lại mãi nơi điểm khởi đầu, người môn đệ của Chúa phải tiến lên, phải thực hiện lý tưởng và đạt cho được cùng đích là Chúa Giê-su Ki-tô, sống với Người, được trở nên giống như Người mỗi ngày một hơn: ”Nếu con muốn nên hoàn thiện, hãy bán đi tất cả những gì con có đem cho kẻ nghèo, rồi đến theo Ta”.

Chúng ta nên lưu ý, Chúa Giê-su không đến đề bần cùng hóa nhân loại, Ngài đến là để con người được sống và sống sung mãn, và cuộc sống sung mãn trong nhân cách dĩ nhiên không hề đồng nghĩa với bần cùng. Của cải vật chất là phương tiện cần thiết để sống. Tuy nhiên, khi sinh ra và lớn lên trong nghèo khó, Chúa Giê-su muốn chứng minh rằng con người có thể sống sung mãn, mà vẫn không phụ thuộc của cải vật chất. Đối với Chúa Giêsu, siêu thoát đối với của cải vật chất là điều kiện tiên quyết để vào Nước Trời. Đây là lý do tại sao tám mối phúc thật đầu tiên và cơ bản  bao gồm các mối phúc khác chính là: ”Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”.

Thật ra, tự nó, của cải không ngăn trở người ta vào Nước Trời, nhưng thái độ ham mê của cải cản trở người ta yêu mến Thiên Chúa và Chúa Ki-tô. Cần phải có tinh thần sẵn sàng từ bỏ mọi của cải, mọi đam mê, để được tự do nghe tiếng Chúa dạy dỗ trong tâm hồn. Thái độ từ bỏ của cải và đam mê, không nhất thiết bắt người ta  trở thành nghèo mạt, bởi vì từ bỏ mọi sự vì Chúa và vì Tin Mừng, chẳng những không làm người ta bị thiệt thòi, mà còn mở rộng tương giao xã hội của nó, vì họ sẽ được đại gia đình nhân loại, và rồi với những thử thách đã vượt qua, họ sẽ được hưởng sự sống đời đời.

Qua câu chuyện anh thanh niên với Chúa Giê-su, ta thấy con đường nên hoàn thiện phải gồm hai điều: trước hết là phải ước muốn: ”Nếu anh muốn nên hoàn thiện…”. Không thể đạt được điều gì chính đương sự không muốn, không tha thiết. Hễ muốn ta có thể đạt được, như câu ngạn ngữ Pháp: ”Muốn là có thể”; thứ đến, sự hoàn thiện không hệ tại những việc lành làm được, mà ở tại việc đi theo Chúa, gắn bó với Chúa: ”hãy đến theo tôi”. Những việc tốt lành làm được chỉ mới là một phần thiện, còn phải trở nên một với Đấng là “Chân, Thiện, Mỹ” nữa thì mới gọi được là hoàn thiện.

Người thanh niên đã giữ giới răn, đã làm những việc tốt, nhưng điều anh thiếu  là chính Chúa. Vì thế phải cảnh giác với thái độ tự mãn rằng khi giữ những giới răn của Chúa và Giáo hội là tôi đã hoàn thiện rồi, trong khi thực ra “Không có Thầy, các con không thể làm được gì”. Một đời sống không gắn bó với chính Đấng nguồn mạch sự thiện, thì chưa phải là hoàn thiện

Những cản trở giũ bỏ sự giàu có bên ngoài để làm giàu trong tâm hồn, từ bỏ của cải ở dưới đất để đổi lấy kho tàng trên trời là sự sống đời đời. Trước một đòi hỏi quyết liệt của Chúa Giê-su, chàng thanh niên sa sầm nét mắt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải (x. Mt 19, 22).

Đoạn Tin Mừng trên cho thấy: Con đường hoàn thiện dẫn tới sự sống đời đời không phải là việc con người làm, nhưng là tin theo Chúa Giê-su. Nhiều lúc ta cứ tưởng giữ các điều răn cho thật đầy đủ là đương nhiên Chúa trả công cho ta. Ơn cứu độ của chúng ta chỉ được thực hiện trong Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Độ duy nhất đem lại hạnh phúc đích thực cho con người. Tin Chúa và thực hành giáo huấn của Chúa là chìa khoá để chúng ta có được sự sống đời đời.

Câu kết của trang Tin mừng hôm nay đã nói rất rõ lý do tại sao người thanh niên ấy quay lưng với Chúa Giêsu: “vì anh ta có nhiều của cải”. Như thế, phải chăng của cải là thứ rào cản thật lớn lao đối với những người muốn bước theo Chúa trên con đường hoàn thiện?

Tin mừng mở ra là lời mong ước của chàng thanh niên với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?”. Nếu kết hợp với câu cuối thì ta dễ dàng thấy được rằng: đối với người thanh niên, anh ta hầu như có tất cả, có cả về vật chất lẫn tinh thần. Có nhiều vật chất nên anh mới được gọi là người có nhiều của cải, có nhiều về mặt tinh thần vì anh đã thực thi tất cả những gì mà lề luật dạy. Như thế anh nghĩ là anh đang có nhiều điều.

Thế nhưng, những cái có ở thế gian này dường như không làm cho anh thỏa mãn, cho nên, anh muốn có thêm cả nước Trời nữa, nghĩa là anh muốn sở hữu nước Trời như cách mà anh đã từng sở hữu nhiều thứ khác trong cuộc đời này.

Qua câu trả lời, Chúa Giêsu dạy cho chàng thanh niên nhưng cũng nói với mỗi người chúng ta rằng: Nước Trời không phải là thứ để sở hữu, không phải là thứ để mình muốn có là được, nhưng nước Trời hệ tại ở việc mình cho đi và bước theo Chúa. Cho nên Chúa Giêsu mới nói với anh ta rằng: “hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”.

Thật vậy, nếu chúng ta không biết sống thanh thoát với của cải, thì chúng ta khó mà thực thi hai giới răn quan trọng nhất của Thiên Chúa, đó là mến Chúa và yêu người. Mà hai giới răn như là “tấm vé” duy nhất để ta có thể tiến vào nước Trời.

Thứ Hai Tuần XXI - Mùa Thường Niên

Mt 23, 13-22

Khốn cho các ngươi, những người dẫn đường đui mù

Trong bài Tin Mừng hôm nay, bốn lần Chúa nói với những người biệt phái, luật sỹ là: “Khốn cho các ngươi”. Chúa nói vậy không phải như có những anh chị em lầm tưởng rằng là Chúa rủa xối rủa sả, Chúa trù ẻo họ. Không phải đâu, Chúa nói như vậy là Chúa quở trách họ, đôi lúc cũng có vẻ hơi nặng nề một chút, với mục đích là để Chúa cảnh tỉnh họ, Chúa kéo họ ra khỏi lối sống giả hình, lừa dối người khác, mà sửa mình để sống tốt hơn.

Sở dĩ Chúa lên án họ nặng lời là vì họ lợi dụng chức quyền Chúa ban mà lo kiếm chát, lo vun đắp cho riêng tư cá nhân về của cải, tiền bạc, vật chất mà không quan tâm lo lắng cho đoàn dân của Chúa trao phó. Họ chỉ biết vắt sữa và xén lông chiên chứ không chăm sóc đàn chiên. Họ chỉ có thương bản thân họ mà không thương dân chúng Cụ thể là chính họ không muốn vào thiên đàng mà họ cũng đóng cửa không cho ai vào. Họ đọc kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà góa. Họ đi kiếm người tòng giáo, nhưng họ lại làm cho người đó thành con cái hỏa ngục gấp hai lần họ. Họ tự động giải thích sai các khoản luật là vì các lễ vật mà dân chúng dâng cho Chúa mà họ chiếm lấy làm của riêng. Họ giải thích sai để lừa dối dân chúng, làm cho dân mắc vào lời thề thì phải lo thực hiện và họ là người hưởng lợi. Chúng ta thấy thương dân của Chúa vì dân Chúa quá tin tưởng, quá nghe lời của họ. Còn bản thân họ khi đã lừa dối được dân chúng rồi thì họ lại càng thêm cứng lòng, chai lỳ trong tội lỗi của họ hơn: “Khốn cho các , hỡi những kẻ dẫn đường đui mù, vì các ngươi nói rằng: Ai lấy đền thờ mà thề thì chẳng có giá trị gì, nhưng ai lấy vàng trong đền thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi kẻ ngu ngốc và đui mù, chớ thì vàng, hay là đền thờ thánh hóa vàng, cái nào trọng hơn? Các ngươi còn nói rằng: Ai lấy bàn thờ mà thề, thì không có giá trị, nhưng ai lấy của lễ để trên bàn thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi những kẻ đui mù, chớ thì của lễ hay là bàn thờ thánh hóa của lễ, cái nào trọng hơn? Vậy a lấy bàn thờ mà thề, thì lấy cả bàn thờ và mọi vật để trên bàn thờ mà thề. Kẻ nào lấy đền thờ mà thề, thì lấy cả đền thờ và Đấng ngự trong đền thờ mà thề. Và kẻ nào lấy trời mà thề, thì lấy ngai tòa Thiên Chúa, và Đấng ngự trên ngai tòa ấy mà thề” (Mt 23, 16 – 22).

Những lời Chúa quở trách các người biệt phái, luật sỹ xưa kia đã làm cho chúng ta phải suy nghĩ lại bản thân của chúng ta. Chúng ta cũng bị Chúa quở trách vì lối sống giả hình, giả bộ, không thành thật của chúng ta. Nhiều lúc chúng ta sống giả hình để thực hiện mưu đồ đen tối của chúng ta, đó là tìm kiếm lợi lộc, ân huệ, ưu đãi cho riêng mình, làm cho anh chị em của chúng ta mắc mưu chúng ta, mất mát vì chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy sống thật lòng, hãy thương yêu các người anh chị em của chúng ta, đừng bao giờ sống giả đối, giả hình lừa lọc anh chị em của chúng ta. Có những anh chị em bị chúng ta giả hình, phỉnh gạt làm người khác sống mà dỡ khóc, dỡ cười, tan gia bại sản, thân bại danh liệt, gây đau khổ cho họ. Do đó, chúng ta phải cố gắng đi trong đường lối của Chúa thì Chúa thương xót chúng ta hơn.

Không ai có thể đo được lòng dạ con người, nhất là khi người ta cố ý che dấu, như câu tục ngữ: “Dò sông dò biển dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người”. Tuy vậy, Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng người, có thể đánh giá sự dối gian, hai mặt của lòng người.
Trong đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu lột trần những khuôn mặt của những người Pharisêu và kinh sư. Người nói rằng: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người khóa cửa nước trời không cho thiên hạ vào… Các người nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ… Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng” (Mt 23, 13-16).

Hình dáng của các kinh sư và người Pharisêu có vẻ rất đạo mạo, thánh thiện: “cầu nguyện lâu giờ”, “đeo những hộp kinh thật lớn”, “mang những tua áo thật dài”, “ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc”… Họ dùng vẻ hào nhoáng bên ngoài để che đậy những thứ ghê tởm bên trong.

Nhìn lại bản thân, đôi khi ta có thể là một người Pharisêu hay một kinh sư nào đó. Nhiều khi ta thật là thánh thiện đạo đức trong áo thầy tu, hay dưới cái mác là người Kitô hữu, ta sống bên ngoài thật là sinh động trong các mối tương quan, thể hiện ta là một con người có chuẩn mực đạo đức, nhưng đằng sau vỏ bọc ấy ta chẳng khác nào là một người Pharisêu hay kinh sư. Tự ta biến bản thân thành một kẻ sống “hai mặt” trong các mối tương quan.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở nên chứng nhân cho Chúa qua hành động tốt của mình. Nói cách khác, muốn dạy người khác điều gì, chính chúng ta phải là những người đã sống và cảm nghiệm trước khi khuyên bảo người khác. Làm tất cả vì vinh danh Chúa, chứ không phải lấy Chúa làm “bình phong” để “tô son chát phấn” nhằm đề cao danh dự, tiếng tăm cho bản thân mình.

Có thế, chúng ta mới là người mang trong mình và giới thiệu một vị Thiên Chúa là Cha yêu thương. Một Vị Thiên Chúa được hiện tại hóa qua đời sống chứng nhân và lời rao giảng cũng như cảm nghiệm của chính chúng ta. Nếu không thì mọi việc chúng ta làm chỉ là hành vi của kẻ “phá hoại” sứ điệp “yêu thương” của Thiên Chúa mà thôi. Và nguy hiểm hơn nữa là “mù dắt mù cả hai cùng xuống hố”. Tyu nhiên, để làm được điều đó không phải là chuyện dễ dàng. Vì thế, rất cần lời cầu nguyện và ơn Chúa trợ giúp.Huệ Minh 2024

27-8 Thứ Ba Thánh Monica

St 2:1-3,14-16; Tv 96:10,11-12,13; Mt 23:23-26

THEO CON ĐƯỜNG CHỊU ĐAU KHỔ NHƯ THÁNH MONICA

Thánh Monica là bổn mạng của những cha mẹ chịu đựng đau khổ vì gánh nặng gia đình. Thánh nhân  được mệnh danh là “Người Bạn của Thánh Giá”.

Niềm hạnh phúc của thánh nữ Monica là trở nên gương mẫu cho các bà mẹ Công giáo, Monica là bổn mạng của các người mẹ Công giáo trong mọi thời đại. Xuyên thời gian, niềm hạnh phúc lớn lao của Monica vang vọng và lan tỏa trong Hội Thánh ...

Hoàn cảnh cuộc đời Thánh Monica đã có thể biến ngài thành một người vợ hay mè nheo, một nàng dâu nhiều cay đắng, và một người mẹ tuyệt vọng, tuy nhiên ngài đã không chịu thua bất cứ cám dỗ nào.  Mặc dù ngài là một Kitô Hữu, cha mẹ ngài đã gả cho một người ngoại giáo, ông Patricius, là người sống trong cùng tỉnh Tagaste ở Bắc Phi Châu.  Patricius là người tốt nhưng ông vô cùng nóng nẩy và phóng túng.  

Ngoài ra Thánh Monica còn phải chịu đựng bà mẹ chồng hay gắt gỏng.  Ông Patricius thường rầy la vợ vì bà hay thương người.  Nhưng sự cầu nguyện và gương mẫu đời sống của Thánh Monica sau cùng đã chinh phục được người chồng cũng như mẹ chồng, ngài đã đưa họ trở về với đức tin Kitô Giáo.

Thánh Monica sinh năm 332 tại Tagaste, Bắc Phi (nay là Souk Ahras, thuộc Algeria). Ngài đã sống các nhân đức Kitô giáo một cách nổi bật, nhất là chịu đựng sự nóng nảy và một đời sống phóng túng của người chồng.  Ngài cũng đã  khóc hằng đêm vì “cậu ấm” Augustinô và chuyên cần cầu nguyện cho con hoán cải, điều mà chính Thánh Augustinô đã viết trong cuốn Tự Thuật.

Năm 22 tuổi, vì vâng lời cha mẹ, Mônica đã kết hôn với Patricius. Chồng cô thuộc dòng dõi quý tộc. Vì thuộc về thành phần giàu sang trong làng, nên ngay từ khi còn nhỏ, chàng Patricius đã được nuông chiều thái quá, dẫn đến tình trạng ngang tàng, hách dịch, nghiện rượu, độc ác và tàn nhẫn và không chung thủy… Ông luôn tỏ vẻ khó chịu mỗi khi thấy vợ làm từ thiện và cầu nguyện.

Hơn nữa, sẵn có lợi thế con nhà giàu, lại hơn tuổi của Mônica quá nhiều, nên Patricius thường xuyên thể hiện vai trò chủ – tôi đối với cô. Mặt khác, cô lại còn phải chịu cảnh hất hủi của mẹ chồng. Điều làm cho cô Mônica buồn nhất, đó là bà lại hùa theo con trai để bênh vực chủ trương không tôn giáo và đời sống phóng khoáng, tự do cho Patricius. Vì những lý do đó, cuộc sống gia đình của Mônica gặp rất nhiều khó khăn, đau khổ.

Kèm theo đó, sau khi sinh được Augustinô, người con trai đầu lòng, bà vui mừng, phấn khởi khôn xiết. Nhưng chẳng bao lâu, Augustinô buông theo lối sống của cha, nên cung cách và lối sống của con trai chính là bản sao của chồng.

Thế nhưng, điều ta thấy tuyệt với là khi gặp những nghịch cảnh ngập đầu, Mônica không hề oán trách, nhưng ngài đã tìm ra những liều thuốc giải độc tốt nhất cho linh hồn mẹ chồng, chồng và các con. Liều thuốc đó là sự hy sinh, lời cầu nguyện liên lỷ, cộng thêm những đức tính tuyệt vời như  lòng bác ái, tình yêu thương, tinh thần quả cảm, đức tính khiêm nhường và niềm tin vào Chúa.

Vì vậy, mưa dầm thấm lâu. Thiên Chúa đã thưởng công Mônica bằng việc hoán cải mẹ chồng. Patricius chồng cô đã xin Rửa Tội và tin theo Chúa. Augustinô quyết định chia tay bè rối Manichê (Nhị Nguyên) là một tà thuyết chống lại Giáo Hội và đức tin Công Giáo mà ông đã dồn toàn tâm toàn trí trong suốt chín năm trường, sau đó ngài được Rửa Tội. Hai người con còn lại là Navigio và Perpetua cũng xin chịu phép Thanh Tẩy và gia nhập Giáo Hội Chúa. Sau này cả hai đã đi tu dòng.

Đây là ân huệ lớn lao do lòng thương xót của Người đã dành cho Mônica. Niềm vui tột cùng đó đã làm cho Mônica thốt lên với Augustinô trong những giây phút cuối đời: “Con ơi, không gì trên thế gian này làm mẹ vui hơn được nữa… Vì mọi hy vọng … mẹ đã được mãn nguyện”.

Cuối năm 387, khi hai mẹ con đang chuẩn bị trở về quê hương là Phi Châu, thì Thiên Chúa đã gọi Mônica về với Người, hưởng thọ 56 tuổi. Thánh nữ được chôn cất tại Ostite và sau được dời về Rôma vào năm 1430.

Trong vai trò là người mẹ, Monica cũng hết sức hiền lành. Hiền lành khi đối diện với những người con khó tính, muốn làm ngược ý mẹ mình, làm những điều phiền lòng mẹ mình. Yêu mến, biết ơn mẹ mình về sự hiền lành, nhẫn nhục, kiên trì và về niềm tin vững vàng, Augustinô kể lại : "Tôi đã làm nước mắt mẹ tôi chảy nhiều như dòng suối, mẹ đã khóc rất nhiều nhưng không làm tôi mềm lòng. Một vị Giám Mục đã an ủi mẹ tôi và nói rằng : "Con bà không hư đâu vì Chúa nhìn tới nước mắt của bà. Một người mẹ đã khóc nhiều và cầu nguyện kiên trì cho con mình thì người con không bao giờ hư mất."

Thánh Monica rất được mộ mến, nên nhiều người đã nhận tên Thánh Monica.  Giáo Hội tôn vinh ngài là bổn mạng của các bà mẹ, cách riêng các bà mẹ Công Giáo.  Nhờ có được một Người Mẹ Tuyệt Vời, sau này Augustinô trở thành nhà giảng thuyết hùng biện, học giả uyên bác, một Thánh Giám Mục được phong là Tiến sĩ Hội Thánh.

Trong xã hội ngày nay, mọi thứ đều sẵn sàng, từ mì ăn liền, cà phê uống liền, đến việc tiêu xài liền khiến chúng ta không còn kiên nhẫn. Tương tự như thế, chúng ta cũng muốn lời cầu xin của chúng ta được đáp trả ngay lập tức.  Thánh Monica là gương mẫu của sự kiên nhẫn.  Những năm trường cầu nguyện, cộng với đức tính kiên cường và kỷ luật, sau cùng đã đưa đến sự trở lại của người chồng nóng nẩy, người mẹ chồng ưa gắt gỏng, và người con thông minh nhưng bướng bỉnh, là Augustine.

Ngày lễ Monica cũng quy tụ tất cả chúng ta. Yêu mến, biết ơn, kính trọng các hiền mẫu, chúng ta ước mong các thế hệ hiền mẫu tiếp tục đi theo con đường của Monica. Không những tại nhà thờ, mà còn nơi mỗi gia đình, các hiền mẫu trở nên những người mẹ hiền thật sự, làm cho gia đình mình được ấm cúng thuận hòa, làm cho các thế hệ con cháu trong gia đình và trong giáo xứ được vẻ vang. Như Monica có con cái là triều thiên của mình thế nào, các hiền mẫu trong giáo xứ cũng có các thế hệ con cháu làm vẻ vang cho chính các bà mẹ Công giáo như vậy. huệ Minh 2024

 

Thứ Tư Thánh Augustinô, Gmtsht 28-8-24

St 3:6-10,16-18; Tv 128:1-24-5; Mt 23:27-32

TÌNH YÊU ĐÃ BIẾN ĐỔI PHẬN NGƯỜI

Augustinô chào đời năm 354 trên đất Phi Châu đầy sức sống. Xuất thân từ một gia đình trung lưu với những khuynh hướng tôn giáo hỗn hợp: Cha chàng là Patricius, một người ngoại đạo sống khá phóng túng, nuôi nhiều tham vọng cho cậu con trai đầy hứa hẹn này. Mẹ chàng là Monica, một Kitô hữu sốt sắng đã dành cho chàng một tình thương đặt biệt sáng suốt, đã phải khuyên răn và khóc lóc nhiều về hạnh kiểm của con mình nhưng cuối cùng đã được chứng kiến cuộc trở lại của Augustinô và đồng thời được Augustinô dẫn lên những đỉnh cao của chiêm niệm và lòng say mê Thiên Chúa.

Nói về thiếu thời của mình, Augustinô tự nhân: “Tôi chỉ ham chơi”. Cậu bé thần đồng ấy rất sợ đi học, nhưng khi đã bị đẩy đến trường thì cậu trở thành một học sinh ưu tú vượt hẳn các bạn đồng liêu.

Đặt nhiều hy vọng vào con đường học vấn của cậu, thân sinh đã gửi cậu đến Carthagô là một trong những trung tâm văn hóa trứ danh nhất thời đó. “Tôi đến thành Carthagô, tất cả chung quanh tôi vùng dậy những quay cuồng đam mê ngang trái”.

Augustinô học hành xuất sắc bao nhiêu thì ăn chơi cũng sành sỏi bấy nhiêu. Chàng đã yêu và yêu tha thiết với sức đam mê mãnh liệt của loài người với một trái tim nóng hổi, với tất cả giác quan nhạy bén. “Lao mình vào tình ái, tôi muốn bị kẹt trong đó luôn”.

Với tài hùng biện sẵn có, Augustinô tự rèn luyện khoa ăn nói và làm quen với các văn hào la tinh, với các triết gia Hy Lạp. Một hôm tình cờ chàng giở quyển Hortensius của Cicéron, và nhận được ánh sáng bừng chiếu qua những hàng chữ của tác giả.

“Quyển sách này đã đổi hẳn các tình cảm của lòng con, hướng con về với Chúa, các ước nguyện và ý muốn của con được xoay chiều. Tất cả những ước mộng viển vông trở thành phi lý. Với một sức mạnh phi thường, con thèm muốn đức khôn ngoan bất diệt. Con bắt đầu đứng dậy trở về với Ngài”.

Từ Carthagô, cuộc sống dần đưa chàng đi tìm kế sinh nhai tại Rôma, Milan. Augustinô nay đã 30 tuổi, với thời gian, nhiều mộng đẹp đã tan vỡ. Những khó nhọc của cuộc sống giúp chàng trưởng thành hơn.

Cho tới một ngày kia, ơn Chúa đã toàn thắng, như một cơn gió lốc cuốn đi tất cả những do dự, khắc khoải trong lòng Augustinô. Một hôm, ngồi ngoài vườn với một người bạn chí thân, Augustinô nghe tiếng trẻ nhỏ nhẩm câu:

“Hãy cầm lấy mà đọc”. Nghe vậy, Người mở thánh thư và câu đâu tiên Người đọc là: “Hãy mặc lấy Đức Kitô và đừng thỏa mãn với những đam mê xác thịt”.

Câu này quả dành riêng cho Augustinô đó. Đây chính là lời đáp của ơn trên. Augustinô chạy báo tin vui này cho mẹ. Bà điềm nhiên trả lời: “Mẹ đã biết mà, Mẹ ở đâu thì con cũng sẽ đến đó”. Sứ mệnh của bà đã chấm dứt, bà mừng rỡ thấy Augustinô bắt đầu cuộc sống mới. Từ nay, Augustinô sẽ rảo bước trên con đường của Luật Chúa.

“Dưới sự hướng dẫn của Ngài, Lạy Chúa, con đã bước vào chính thâm tâm con. Con đã làm được điều đó nhờ sức Chúa nâng đỡ.”

Sau khi khám phá Thiên Chúa là Đấng đáng để cho ta bán hết tất cả để đi theo, Augustinô quyết tâm rút vào sa mạc sống ẩn dật để được thưởng thức Chúa, nhưng Augustinô sẽ không bao giờ được sống ẩn dật lâu. Danh tiếng của ngài đã được truyền lan, dân chúng theo đuổi Augustinô xin ngài hướng dẫn họ, xin ngài cố vấn cho họ trong công ăn việc làm, chỉ dẫn cho họ đường ngay nẻo chính.

Một hôm, trong khi dự lễ tại Hippone, dân chúng nảy ra ý kiến: Augustinô sẽ làm Linh mục của họ, và hơn thế nữa sẽ là Giám Mục chăn dắt học. Ý dân là ý trời, ngay lúc đó Augustinô được tôn làm làm Linh mục và sau một thời gian Augustinô trở thành Giám Mục của dân.

Vì mến Chúa đi đôi với yêu người, Augustinô mang tất cả kinh nghiệm, kiến thức rộng lớn của mình để phục vụ anh em. Nhưng trên hết mọi sự, Augustinô là con người của tình yêu: Ngài dành trọn vẹn tất cả khả năng yêu đương cho Chúa và cho anh em, điểm nổi bật của Ngài là một trái tim nóng hổi.

Năm 430, sau một cơn hấp hối, Augustinô về với Chúa, Đấng mà Ngài đã tha thiết mến yêu.

Augustinô, con người được yêu; đúng hơn, một linh hồn được cứu. Như bao con người, chàng khát vọng, một khát vọng cháy bỏng, khát Chân Thiện Mỹ; Augustinô lao mình đi tìm. Là một giáo sư tu từ học chuyên về hùng biện, mười chín tuổi, chàng mê say các triết thuyết tại thành phố của các triết gia, Milan; ở đó, đã một thời, con người tài hoa này chạy theo lạc giáo; cũng tại chốn phồn hoa ấy, Augustinô vùi mình vào những cuộc vui thâu đêm để rồi, mệt mỏi trong vô vọng, thừa mứa trong chán chường và trống rỗng trong hư vô. Chàng trai trẻ cảm thấy luống công vì chẳng tìm được gì. Augustinô viết, “Con trở thành điều bí ẩn quá lớn đối với chính con; con tự hỏi lòng mình, ‘Tại sao mi buồn, và tại sao mi làm ta buồn?’, nhưng nó không trả lời. Rồi khi con nói, ‘Hãy cậy trông vào Chúa’, nó cũng giả vờ không nghe; vậy mà, ‘Con càng khốn khổ, Ngài càng gần con’”, vì Ngài luôn đi bước trước.

Mười tám năm trường rong ruổi chạy tìm hạnh phúc, Augustinô khác nào chú nai khờ khạo một sáng kia, vụt chạy tìm hương cỏ lạ, chạy mãi đến chiều… và khi trời tối, sa xuống lũng sâu; trong cơn hấp hối, nai chợt nhận ra mùi dạ thảo trong túi xạ hương trước yếm ngực mình, nhưng đã muộn. Với chú nai kia, đã muộn; với Augustinô thì không, bởi lẽ, chàng đã kịp chộp được sợi thừng thương xót từ trời cao thòng xuống khi Thiên Chúa sai Thánh Ambrôsiô, một người cha, một người thầy kịp chỉ cho cậu đường về; bên cạnh đó là sự kiên trì cầu nguyện bảo ban của người mẹ đạo đức, Mônica. Augustinô viết, “Chính lúc đó, tay Ngài đã giựt con khỏi bùn nhơ và rửa sạch, nhưng con không hay biết. Phần con, con cảm nhận, con càng khốn khổ, Ngài càng gần con”. Nhìn lại quảng đời đã đi, Augustinô tâm sự, “Lạy Chúa, con thật xấu hổ khi mải tìm Chúa nơi các tạo vật, đang lúc Chúa, Đấng Tạo Thành, là ánh sáng, là hương thơm, là vẻ đẹp rạng ngời đang ở trong con. Con thật mù loà, điếc lác khác nào chiên lạc bao lần xa đàn khiến Chúa phải vất vả đi tìm”. Augustinô trải nghiệm, khi con người vừa cất bước đi tìm Chúa, thì đã từ lâu, Người đã cất công kiếm nó; khi nó vừa đặt chân xuống dòng suối tìm lên ngọn nguồn thì chính dòng nước yêu thương đã ôm chầm dưới chân nó.

Một khi đã ý thức được tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu luôn đi bước trước của Đấng rạng ngời có tên là Chân Thiện Mỹ, Augustinô bỏ hết mọi sự và buông mình để được cuốn hút về Người, một sự cuốn hút còn mãnh liệt hơn, nồng nàn hơn gấp bội những gì đã cuốn hút người trai trẻ lúc thiếu thời. Augustinô hối tiếc vì đã hoang phí thời gian, “Thật quá trễ để con yêu mến Ngài, ôi Ðấng Tuyệt Mỹ xa xưa, nhưng mới lạ hơn bao giờ hết. Chúa gọi con, Chúa la to, thét gào vào sự ngơ khờ của con; Ngài lấp lánh, rực chiếu vào sự mù loà chệch choạc của con; Ngài thở hương thơm, con hít lấy và con khao khát Ngài. Con nếm thử, và nay, con đói, con khát. Ngài chạm con và con bị thiêu đốt bởi khát khao bình an của Ngài”. Để rồi, Augustinô kết luận, “Lãng quên Thiên Chúa, có nghĩa là chết; tìm kiếm Thiên Chúa, có nghĩa là tái sinh; ở trong Thiên Chúa, có nghĩa là sống”. Thật may, “Con càng khốn khổ, Ngài càng gần con”.28-8-24 huệ Minh

 

Thứ Năm Lễ Thánh Gioan Tẩy Giả bị chém đầu

1 Cr 1:1-9; Tv 145:2-3,4-5,6-7; Mt 24:42-51

VẬN MỆNH NGÔN SỨ CỦA CHÚA

Để dọn đường cho Chúa Giêsu đến cứu chuộc loài người, Thiên Chúa đã cho bà Ysave son sẻ được sinh con. Người con đó là Gioan Tẩy giả. Lớn lên, ngài vào sống khổ hạnh trong sa mạc: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn.(Mt. 3,4).

Chính Gioan Tẩy Giả là người đã chỉ đường đến Ðức Kitô. Ðời sống và cái chết của Gioan là để hy sinh cho Thiên Chúa và loài người. Lối sống đơn giản của ngài thực sự là lối sống tách biệt khỏi vật chất thế gian. Tâm hồn của ngài đặt trọng tâm ở Thiên Chúa và lời mời gọi ngài nghe được từ Thần Khí Thiên Chúa đã đánh động tâm hồn ngài. Tin tưởng ở ơn Chúa, ngài đã can đảm nói những lời kết tội hoặc kêu gọi sám hối, vì sự cứu độ.

Năm 29 tuổi, thánh nhân đến sông Giođan, rao giảng kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và lãnh phép rửa sám hối của Ngài, để dọn lòng xứng đáng đón rước Chúa Cứu thế. Nhiều người đã đến lãnh nhận phép rửa thống hối, và xin ngài chỉ dạy cách thế để hoán cải đời sống. Chính Chúa Giêsu khi bắt đầu đi rao giảng Nước Trời, cũng đến nhờ Ngài làm phép rửa, để được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Cứu Thế, và Chúa Cha công khai nhìn nhận là Con Yêu Dấu.

Thời điểm Gioan Tẩy Giả làm phép rửa sám hối bên bờ sông Giođan trùng hợp với lúc Hêrôđê Antipa làm quận vương cai trị xứ Galilêa. Cuộc sống của ông có nhiều lầm lỗi và lầm lỗi lớn nhất mà ai cũng biết đó là ông ngang nhiên lấy vợ của anh làm vợ của mình. Người đàn bà xấu nết đó là bà Hêrôđia. Thấy vậy, Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng công khai cảnh cáo và ngăn cản. Việc đó đã đến tai Hêrôđia làm cho bà hết sức tức giận. Bà đã yêu cầu Hêrôđê bắt giam Gioan Tẩy Giả. Gioan Tẩy Giả đã bị bắt giam nhưng bà ta vẫn chưa vừa lòng. Biết Gioan Tẩy Giả là một con người không thể mua chuộc cho nên bà luôn tìm dịp để giết ngài. Và đây là dịp. Chúng ta hãy nghe thánh sử Márcô thuật lại việc làm này của Hêrôđia:
Một ngày thuận lợi đến: nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hêrođê mở tiệc thết đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Galilêa. Con gái bà Hêrôđia vào biểu diễn một điệu vũ làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích. Nhà vua nói với cô gái:
- Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con.
Vua lại còn thề :
- Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước, cũng được.
Cô gái đi ra hỏi mẹ
- Con nên xin gì đây ?
Mẹ cô nói :
- Đầu Gioan Tẩy giả.
Lập tức cô vội trở vào, đến bên nhà vua và xin rằng :
- Con muôn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gioan Tẩy giả, đặt trên mâm.
Nhà vua buồn lắm, nhưng vì lời thề, và khách dự tiệc, nên chẳng muốn thất hứa với cô. Lập tức vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, bưng đầu ông trên một cái mâm, trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ “. (Mc. 6,2128).

Thánh Hiêrônimô còn cho chúng ta biết thêm một chi tiết thú vị này: Sau khi nhận được đầu của Gioan Tẩy Giả, Hêrôđia đã lấy dao cạy miệng thánh nhân ra và đâm một nhát thấu qua cái lưỡi đã dám nói lên những lời xúc phạm đến bà.

Thánh Linh mục Bêđa khả kính đã giải thích ý nghĩa cái chết của ngài như sau:
“Đấng thánh loan báo Chúa sinh ra, rao giảng và chịu chết, đã tỏ cho chúng ta thấy một sức mạnh xứng đáng được Chúa nhìn. Như lời Kinh Thánh chép: “Theo nhãn giới người phàm, thì người đã gặp nhiều đau khổ, nhưng hy vọng của người đã tràn đầy bất tử.”

Thông điệp Tin mừng rất lôi cuốn bởi vì hy vọng nó đem đến, nhưng cũng làm bối rối bởi vì cách nó thách thức chúng ta. Hêrôđê đã bị cuốn hút bởi sứ điệp của Gioan nhưng đã không thể quay lưng với tội lỗi trong đời sống của ông. Những nét đặc trưng hay điểm yếu nào đã cản trở Hêrôđê đến với sự lôi cuốn ban đầu đối với lời rao giảng của Gioan? Có điều gì đó tương tự trong đời sống của chúng ta đã ngăn cản chúng ta theo Chúa chặt chẽ hơn?

Gioan không bao giờ sợ hãi công bố sự thật, bất chấp hậu qủa. Khi chúng ta có cơ hội bênh vực sự thật, chúng ta có cảm thấy sợ hãi vì bị ngược đãi hay đau khổ? Trong buổi cầu nguyện hôm nay, hãy xin Chúa Giêsu giải thoát bạn khỏi mọi sợ hãi có thể có trong việc công bố sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa.

Gioan Tẩy giả là một ngôn sứ, đã sống cuộc đời chứng tá cho công lý; là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương: một phía bị đế quốc Rôma cai trị hà khắc, nhiều phe nhóm trong dân muốn nổi loạn; phía khác, vị vua Hêrôđê đang cai trị là một hôn quân bạo Chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ đã thúc đẩy Gioan lên tiếng ngăn cản và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, mong nhà vua trở về với đường ngay nẻo chính. Vì thế, Gioan đã bị nhà vua bắt giam và sau này bị chém đầu. Người Kitô hữu không những phải làm chứng cho Thiên Chúa, mà còn cho chân lý, cho công lý, cho tình yêu của Thiên Chúa nữa. Đời sống chứng nhân đòi hỏi ta phải dám chấp nhận thiệt thòi, mất mát, nguy hiểm. Làm ngôn sứ mà lại muốn được an toàn và bảo toàn đủ mọi mặt những gì mình đang có, không muốn hy sinh hay mất mát điều gì, thì không xứng đáng.

Hiểu biết về Thiên Chúa của Gioan Tẩy giả đã tạo cho ông một sự khiêm nhường mạnh mẽ. Khi được hỏi liệu ông có phải là Chúa Kitô, Gioan đã trả lời rằng ông thậm chí còn không xứng đáng cởi quai dép cho Chúa (Ga 1: 27). Tại sao sự khiêm nhường của Gioan lại rất cần thiết đối với sứ mệnh Thiên Chúa đã giao cho ông để loan báo việc Chúa Giêsu đến? Làm sao sự tăng trưởng trong khiêm nhường có thể giúp chúng ta thực hiện ý Chúa tốt hơn trong đời sống của riêng chúng ta?Huệ Minh 2024

 

Thứ Sáu trong tuần thứ Hai Mươi-Nhất Mùa Quanh Năm

1 Cr 1:17-25; Tv 33:1-2,4-5,10,11; Mt 25:1-13

CHỜ ĐỢI TRONG TỈNH THỨC

Ðời người là một cuộc đợi chờ và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó. Ðợi chờ chính là một cuộc thử nghiệm tình yêu, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hoặc điều gì mà mình hết lòng yêu thương hoặc quí chuộng. Với ý nghĩa đó, đợi chờ phải là một cuộc chuẩn bị thực sự.

Dụ ngôn mười trinh nữ chờ đợi chàng rể đến lúc bắt đầu tiệc cưới mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, làm nổi bật thái độ tỉnh thức đợi chờ, nghĩa là các trinh nữ hướng về chàng rể với tâm hồn yêu thương, với đèn dầu để cháy sáng.

Chúa Giêsu được mô tả qua dung mạo chàng rể và tiệc cưới là Nước Thiên Chúa. Chàng rể đến chậm và vào lúc bất ngờ, tức là việc Chúa Kitô đến trong vinh quang vào lúc cuối cùng lịch sử là điều bất ngờ, không ai có thể đoán trước được. Các trinh nữ được bước vào tiệc cưới với đèn cháy sáng. Ðèn cháy sáng là dấu chỉ của một đức tin sống động. Các trinh nữ khôn ngoan đã lãnh lấy và chu toàn trách nhiệm của mình để giữ đèn của mình được luôn cháy sáng, cho đến khi chàng rể là Chúa Kitô đến, dù chàng rể có đến chậm.

Những chi tiết của dụ ngôn cho hiểu thêm trách nhiệm của cá nhân trong việc giữ cho đèn đức tin được luôn cháy sáng. Mỗi Kitô hữu phải tích cực sống đức tin, chứ không thể vay mượn hay nhờ người khác làm thay được; mỗi Kitô hữu cần đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa để vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời, để luôn sống trong hy vọng, sống theo ánh sáng sự sống, chứ không bị mê hoặc bởi những cám dỗ của thời đại đã bị trần tục hóa và đầy tinh thần hưởng thụ.

Có lẽ trong chúng ta, không ai trải qua cuộc sống này mà không một lần chờ đợi. Người ta vẫn thường nói rằng “chờ đợi là hạnh phúc”. Nhưng cũng có người bảo chờ đợi chỉ mang lại khổ đau. Một ngày sống có rất nhiều lần chúng ta phải chờ đợi: chờ đợi một ai đó, chờ đợi một chuyến đi, chờ đợi một sự kiện.

Nếu ta để tâm quan sát xung quanh ta sẽ thấy mọi người, mọi vật đều có những khoảnh khắc chờ đợi: những chiếc xe đẩy hàng rong chờ đợi người mua; những người đi lại chờ đèn để băng qua đường; những điểm xe buýt lác đác vài người  đợi chuyến xe kế tiếp. Chờ đợi có thể sẽ rất buồn và rất lâu, nhưng cũng có thể chờ đợi là niềm vui và hạnh phúc vì người ta đợi sẽ đến, việc ta mong sẽ thành. Ta cứ phải chờ, cứ phải đợi, chờ rất nhiều, đợi cũng rất lâu đơn giản vì ta không thể nào làm khác được.

Và để không bỏ lỡ điều ta đã cất công chờ đợi, để không tuột khỏi tầm tay điều mình mong ngóng, thì thái độ không thể thiếu nơi mỗi người là sự tỉnh thức.
Đối với người kitô hữu, mỗi ngày sống trên trần gian là một ngày chờ đợi để gặp Chúa. Để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ yêu thương này, Thiên Chúa luôn kêu gọi con người hãy tỉnh thức và sẵn sàng vì Chúa đến cách bất ngờ. Trong dụ ngôn mười cô trinh nữ này, Nước Thiên Chúa được ví như bữa tiệc cưới. Chúa Giêsu chính là chàng rể, các trinh nữ là mỗi người trong chúng ta, là toàn thể nhân loại này. Giờ Chúa đến là giờ ta giã từ cõi đời này. Tiệc cưới là hạnh phúc Nước Trời. Chàng rể đến muộn nói lên sự bất ngờ của giờ chết.

Thiên Chúa dựng nên con người, Ngài mong cho con người được hạnh phúc, muốn cho hết thảy mọi người được cứu độ, và đó là ý của Ngài, như lời Chúa Giêsu đã nói:“Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6,40). Bởi thế, mười cô trinh nữ đều được tuyển chọn đi đón chàng rể, cả mười cô dự kiến sẽ vào dự tiệc vui với chú rể. Chàng rể đến mong cả mười cô đều được tham dự tiệc cưới.
Việc Chúa đến tận nơi tìm ta, cho thấy con người được Chúa trân trọng, Chúa không ra lệnh hay triệu tập ta đến như một người lãnh đạo. Nhưng Chúa đích thân đến đón rước linh hồn ta, Chúa yêu thương ta biết bao!

Thế nhưng điều kiện để được vào dự tiệc cưới là phải có đèn sáng. Đèn ai không sáng sẽ bị loại ra ngoài.
Một ngọn đèn dầu cháy sáng được là nhờ sự liên tục cung cấp những giọt dầu, nếu những giọt dầu hết, thì đèn sẽ tắt. Dầu trong đèn của chúng ta không phải những gì quá lớn lao, đến nỗi ta không thể tích luỹ được, mà đó là: lòng tin, cậy, mến và những điều căn bản cần có trong cuộc sống hàng ngày nơi mỗi người: sự hy sinh, yêu thương nâng đỡ nhau,  những suy nghĩ tốt về người khác... Đó còn là những giọt dầu tình yêu thương giữ cho đời sống đạo đức của chúng ta cháy sáng giống một ngọn lửa sống động. Những người đèn sáng là những người yêu mến Chúa thiết tha nên chăm lo thực hành Lời Chúa, biểu lộ lòng yêu mến Chúa bằng những việc làm cụ thể.
Còn những người đèn tắt, cũng muốn vào dự tiệc cưới, nhưng không chịu chuẩn bị. Họ tin theo phong trào, giữ đạo theo dư luận, là kitô hữu nhưng đời sống hoàn toàn như người không có đức tin. Họ sống buông thả theo những đam mê, dục vọng. Dù biết là rồi một ngày không xa họ sẽ rời bỏ thế giới trần tục này, nhưng họ vẫn tìm lợi danh bằng mọi giá, những mưu mô, tính toán cho riêng mình. Đó là những người có đèn mà không có dầu; có đèn mà đèn không sáng; có đạo mà không giữ đạo; biết luật Chúa nhưng không thực hành. Chúa Giêsu đã trích dẫn sự kiện trong Kinh Thánh biến cố Đại Hồng Thủy để mời gọi mọi người hãy học bài học lịch sử đó như một kinh nghiệm sống để luôn chuẩn bị sẵn sàng, vì không biết giờ nào và ngày nào sẽ là lúc tận cùng của cuộc sống cá nhân. Lúc tận cùng ấy huyền nhiệm và khó hiểu được diễn tả như việc có hai người đang làm ruộng, hay hai người đang xay bột, một người được để lại và người kia được đem đi. Hay cũng bất ngờ như người chủ đi xa trở về vào lúc những người giúp việc không ngờ.

Xin Chúa mở rộng đôi mắt chúng ta để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong lịch sử. Xin ban sức mạnh để chúng ta chu toàn bổn phận cho phù hợp với thánh ý Chúa.HUỆ MINH 2024

 

Thứ Bảy trong tuần thứ Hai Mươi-Nhất Mùa Quanh Năm

1 Cr 1:26-31; Tv 33:12-13,18-19,20-21; Mt 25:14-30

CHO VÀ NHẬN

Nếu như có ai đó nói rằng Chúa không biết làm kinh tế (qua dụ ngôn người chủ vườn nho Mt 20,1-16 chẳng hạn), thì qua dụ ngôn này, Chúa trả lời về cách làm của Ngài: Ngài giao cho chúng ta việc làm ăn kinh tế đó. Thiên Chúa không coi con người như những cỗ máy, dù “thông minh” như robot, hay như những người con trẻ dại. Trái lại, Ngài coi con người là những người trưởng thành đầy tinh thần trách nhiệm biết cộng tác với Ngài để sinh lợi cho Nước Chúa dựa vào số vốn liếng ban đầu Ngài đã ban cho thế giới này nói chung, và cho mỗi người nói riêng.

Thế giới này, vũ trụ này, tất cả những gì bạn có, kể cả chính bạn đều là những nén bạc Chúa trao. Ý thức mình là những người con được Thiên Chúa yêu thương tín nhiệm như thế, bạn hãy sinh lợi cho Nước Trời từ những nén bạc của bạn trong việc phụng sự Thiên Chúa và yêu thương phục vụ tha nhân.

Thiên Chúa cho ta nhiều hơn những gì ta xin. Ngài cho một cách quảng đại, không xẻn so tính toán. Và Chúa cũng dạy ta hãy cho đi như vậy. Dụ ngôn ông chủ và những nén bạc một lần nữa minh chứng cho lòng quảng đại của Thiên Chúa.

Trước khi có việc đi xa, ông chủ gọi các đầy tớ đến và trao cho họ những nén bạc. Người năm nén, người hai nén, người một nén. Với số vốn ban đầu, mỗi người đều có cách riêng làm cho nén bạc đó sinh lời. Thế nhưng trong số họ, có người không biết sinh lời đã đem chôn nén bạc xuống đất và còn phiền trách ông chủ hà khắc. Ông chủ phán xử bằng cách “ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi”. Mới nghe qua câu chuyện, ta sẽ cho rằng ông chủ này thật bất công, nhưng có lẽ đó mới là ông chủ nghiêm minh và công bình.

Có một chàng trai nọ trồng mấy chậu hoa ở ban công trong khu chung cư. Sau một thời gian, những chậu hoa buông nhành xống tầng lầu bên dưới. Lúc đầu, chàng trai định kéo chúng lên rồi buộc chặt lại. Nhưng sau đó anh cảm thấy làm như thế là quá ích kỷ nên thôi. Thế là chậu hoa của anh nhanh chóng tạo thành chiếc rèm buông xuống lầu dưới trông rất đẹp mắt.

Thời gian trôi qua và rồi mùa xuân đến, chàng trai hết sức ngạc nhiên thấy có một dây nho bò lên ban công nhà mình. Anh nhoài người nhìn xuống thì thấy có một cô gái xinh đẹp đang ngẩng lên mỉm cười với anh. Thì ra cô gái ở lầu dưới cảm kích trước món quà thiên nhiên của anh nên đã trồng một dây nho và cho nó vươn lên trên như một sự đền đáp. Thế rồi họ làm quen với nhau, khi giàn nho cho mùa trái ngọt thứ hai cũng là lúc chàng trai và cô gái đón nhận tình yêu ngọt ngào của nhau.

Cho và nhận là quy luật trong cuộc sống. Sống ở đời, người ta “có qua có lại mới toại lòng nhau”. Nhưng con người tự nhiên thường thích nhận nhiều hơn là cho đi, không ai chịu cho không để bị thiệt thòi mất mát.

Hàng ngày chúng ta nhận lãnh từ thiên nhiên vũ trụ, từ cuộc sống nhiều hơn những gì chúng ta cho đi. Mặt trời cho ta ánh nắng ban mai ấm áp, bầu trời cho ta làn gió mát. Cỏ cây hoa lá đem đến cho ta sự tươi mới. Thời tiết tuần hoàn, vũ trụ nhịp nhàng chyển dịch đó chẳng phải là món quà vô giá mà ta nhận lãnh hàng ngày sao. Cha mẹ, gia đình, bạn hữu cho ta mối tương giao đằm thắm gần gũi. Mỗi phút giây ta sống trên đời đều gửi đến cho ta một lời nhắn nhủ thiết thân. Mỗi sớm mai thức dậy, ta có biết cám ơn cuộc đời cho ta có thêm một ngày sống để yêu thương không? Với ý nghĩa đó, hóa ra chúng ta là người rất giàu có, rất nhiều cái để cho, nhiều điều để sẻ chia với tha nhân.

Trong sách Công vụ tông đồ, thánh Phaolô viết “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). “Cho” với một xác quyết rằng chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều ân sủng từ Thiên Chúa. Những ân sủng ấy dành để phục vụ mọi người chứ không phải để ích kỷ cho riêng mình. Chúng ta đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Cho như thế không làm chúng ta nghèo nàn mất mát nhưng càng được giàu sang, được lớn lên trong tương giao với người khác. Cho và nhận đều mang tính tuần hoàn. Điều ta cho sẽ không mất đi nhưng trở lại với những dạng thức khác mới mẻ hơn, vì rằng “trong cái mất luôn có cái được”. Thánh Phanxicô Assisi, vị thánh của sự nghèo khó nhưng lại rất giàu có. Gia tài của Ngài là Thiên Chúa, bạn hữu của Ngài là thiên nhiên vũ trụ, tinh tú trăng sao...Ngài đã nên thánh bằng cuộc sống nghèo nhưng vẫn tự do bát ngát, nên thánh với niềm xác tín rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”.

Giống như các tôi tớ trong dụ ngôn, chúng ta, cùng với những gì chúng ta có, là thọ tạo của Thiên Chúa. Chúng ta không có gì thuộc về chúng ta; các khả năng của chúng ta từ Ngài mà đến. Tuy nhiên, không phải mọi người đã nhận được như nhau; mức độ các ân ban của Thiên Chúa cho từng người thì khác nhau, và đó là quyền của Ngài. Các nén bạc đây có thể là các đức tính, các khả năng phải phát triển. Nhưng điều tác giả dụ ngôn nhấn mạnh là sự tin tưởng nơi ông chủ, và sự tha thiết, quảng đại hy sinh hầu chu toàn ý muốn của chủ.

Như thế, cái chúng ta cho không chỉ là của cải vật chất mà là chính con người chúng ta. Chúng ta có thể trao cho nhau những điều rất đơn giản, sự chăm sóc yêu thương, một lời nói động viên, một cái nhìn thông cảm hay một lời cám ơn, xin lỗi...

Chúng ta chỉ có một cách đạt tới cùng đích của đời sống chúng ta, đó là ra tay phục vụ Thiên Chúa, sử dụng theo ý Ngài tất cả những gì đã được ban tặng và ký thác cho chúng ta. Chúng ta không thể sử dụng theo ý muốn của mình và phung phí đời sống và thì giờ, các khả năng và phương thế, các công việc của chúng ta. Thiên Chúa đã ký thác tất cả các thứ đó cho chúng ta, và chúng ta phải trả lẽ với Ngài về tất cả. Không phải trong sợ hãi Thiên Chúa, nhưng trong sự tin tưởng vào Ngài, chúng ta mới có thể chu toàn nhiệm vụ của chúng ta.HUỆ MINH 2024

CHÚA NHẬT XXI TN-2021
Gs 24,1-2a.15-17.18b; Ep 5,21-32; Ga 6, 60-69.
THEO AI BỎ AI
          Sau khi rao giảng về Bí tích Thánh thể, dân chúng và ngay cả một số đông môn đệ đã lấy làm chướng tai gai mắt và khó nghe, nên đã lìa bỏ Chúa. Thấy vậy, Chúa bèn quay về với nhóm Mười Hai. Ngài đòi các ông phải có thái độ và lập trường dứt khoát, Ngài hỏi các ông:
          - Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?
Và như thế chúng ta đã thấy, Phêrô thay mặt cho tất cả anh em trong nhóm đã thưa lên cùng Chúa:
          - Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Hẳn chúng ta còn nhớ, một lần khác, khi thầy trò tới địa hạt xứ Cêsarêa Philipphê, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ:
          - Người ta bảo con người là ai?
Các ông đã lượm lặt dư luận đó đây và thưa lên cùng Chúa:
          - Người thì bảo là Êlia, người thì bảo là Giêrêmia, người thì bảo là một tiên tri nào đó và kẻ khác lại nói là Gioan tẩy giả.
Có lẽ lúc bấy giờ, Chúa Giêsu đã nhìn các ông và đặt một câu hỏi nòng cốt, đòi các ông phải bày tỏ lập trường:
          - Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Và Phêrô cũng thay mặt cho anh em trong nhóm tuyên xưng đức tin:
          - Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.
Xuyên qua những lời giảng dạy, Chúa Giêsu bao giờ cũng đòi hỏi nơi những người muốn bước theo Ngài một thái độ dứt khoát, một lập trừờng rõ rệt. Ngài bảo:
          - Ai yêu thương cha mẹ, vợ con, tiền bạc nhà cửa hơn Ta, thì không xứng đáng làm môn đệ Ta. Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì nếu yêu chủ này thì sẽ ghét chủ kia, cũng vậy không thể làm tôi vừa Thiên Chúa vừa tiền bạc. Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Sở dĩ như vậy là vì tinh thần của Chúa thì trái với tinh thần của thế gian như lửa với nước, như ánh sáng và bóng tối. Theo Chúa là theo trót cả tâm hồn, chứ không thể trung lập, lửng lơ, đi nước đôi và bắt cá hai tay.
          Cựu ước có kể lại một mẩu chuyện như sau: Ngày ấy, Giosuê triệu tập tất cả các chi tộc lại ở Sikem và ông nói với họ:
          - Hôm nay các ngươi hãy lựa chọn, một là thờ phượng Đức Giavê, hai là thờ phượng các thần của dân ngoại. Riêng phần tôi và gia đình, chúng tôi nhất quyết chỉ thờ phượng một mình Đức Giavê mà thôi.
          Bấy giờ dân chúng trả lời rằng:
          - Không hề có chuyện chúng tôi lìa bỏ Đức Giavê mà tôn thờ những thần dân ngoại. Đức Giavê là Thiên Chúa của chúng tôi, chính Ngài đã dẫn chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, đã làm những việc kỳ diệu trước mặt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt những con đường chúng tôi đã đi qua. Chúng tôi chỉ phụng thờ Đức Giavê vì chỉ mình Ngài là Thiên Chúa chúng tôi.
          “Các con cũng muốn bỏ đi nữa không?”. Chúa Giêsu không muốn gây áp lực trên Nhóm Mười Hai hoặc thu hút lòng thương hại của các ông. Chúa đòi hỏi nơi các ông một quyết định của ý chí, một lời tuyên xưng ý định của các ông. Phêrô nhân danh những anh em khác trả lời một cách vô điều kiện, không đặt một giới hạn nào cho sự gắn bó của mình: “Bỏ Thầy chúng con biết đi với ai?”. Câu hỏi này là một sự khẳng định mạnh mẽ niềm thán phục của ông đối với Chúa Giêsu: “Chúng con không có ai xứng đáng hơn Thầy để theo cả. Không có sự lựa chọn nào khác đáng giá cả. Chỉ mình Thầy mới mang lại cho cuộc đời chúng con một ý nghĩa mà thôi”.
          Phêrô đưa ra những lý do của việc lựa chọn vô điều kiện này, đó là lời của Chúa Giêsu và căn tính của Ngài. Quả thật, nếu Nhóm Mười Hai gắn bó với Ngài, là vì Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Những môn đệ bỏ đi nhận thấy những lời này quá đòi hỏi và các ông cảm thấy không thể sống nhờ chúng được. Tuân giữ những lời này sẽ thực sự khó mà sống được.
          Đối với Nhóm Mười Hai thì ngược hẳn lại. Hơn nữa, nhờ lắng nghe Chúa Giêsu các ông mới nhận ra được căn tính của Ngài, các ông đã nhận ra được Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa: “Về phần chúng con, chúng con tin và chúng con đã biết…”. Đức tin đi trước việc hiểu biết. Các ông tin để hiểu, trong lúc những người bỏ đi muốn hiểu trước đã, vì họ không tin tưởng nơi Chúa Giêsu. Như vậy, Nhóm Mười Hai đã nhận ra nơi Chúa Giêsu một con người mà Thiên Chúa đã thánh hóa để thi hành một sứ vụ như các ngôn sứ ở Israel, trong lúc những người kia chỉ nhìn thấy nơi Ngài “Con ông Giuse mà chúng tôi biết cha mẹ” (c.42). Đức tin dẫn đưa Nhóm Mười Hai đến chỗ nhận ra ý định của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Chúa Giêsu.
          Nhiều bạn trẻ hôm nay cô đơn, nhưng không biết đến với ai. Hãy cùng nhau đến với và ở lại bên Thầy Giêsu, Ngài sẽ không làm chúng ta thất vọng.
          Có lẽ giờ đây Chúa Giêsu cũng nhìn mỗi người chúng ta và muốn chúng ta tỏ bày cái thái độ dứt khoát. Thế nhưng, có lẽ chúng ta đã phải cúi mặt xuống, bởi vì mặc dù mang tiếng là người có đạo, là kẻ đã tin theo Chúa, nhưng cuộc đời chúng ta vẫn còn chồng chất quá nhiều tội lỗi, bản thân chúng ta vẫn thường xuyên nhượng bộ cho những cám dỗ, những khuynh hướng xấu xa. Chúng ta vừa muốn phụng thờ Chúa, vừa muốn phụng thờ ma quỷ. Vừa muốn bước theo Chúa lại vừa muốn phạm tội.

 

Thứ Hai Tuần XXI TN-2021
(Tr) Thánh Rôsa Lima, Trinh nữ.
1Tx 1,1-5.8b-10; Mt 23,13-22.
KÊU TO VÌ THÙNG RỖNG
          Có những người nữ đánh Ðông, dẹp Bắc. Có những người nữ là những nhà ngoại giao đại tài không thua kém gì phái nam nhi. Lại có những người nữ chỉ miệt mài âm thầm, làm nghề nội trợ lo cho chồng con cơm ngon,canh ngọt. Vâng, thiên chức làm vợ,làm mẹ là thiên chức quí trọng,bất cứ người nữ nào cũng ước mong có được. Nhưng, cũng có những người nữ sống cao hơn lối sống thông thường,lối sống nói theo một cách nào đó là đi vào tầm cao mới, chiều sâu mới .
          Lối sống của những con người hy sinh,từ bỏ vì" tình yêu Chúa Kitô thúc bách.".
          Rosa Lima là vị thánh nữ đầu tiên của Châu Mỹ. Cha mẹ thánh nữ người Tây Ban Nha, nhưng vì kinh tế khó khăn, gia đình gặp cảnh túng nghèo,nên cha mẹ thánh nữ phải bỏ quê cha đất tổ đến Pérou tại thủ đô Lima vào năm 1543 để kiếm kế sinh nhai.
          Và vào năm 1586, Rosa đã chào đời tại thủ đô Lima. Tên của thánh nữ là" Hoa Hồng thủ đô Lima".Cuộc đời của thánh nhân được đan kết bằng những cố gắng hy sinh, những đau khổ, những chiến đấu không ngừng để vươn tiến và để nên thánh. Muốn cho đời mình trở nên hương thơm đúng nghĩa của Hoa Hồng thành Lima, Rosa đã có một đời sống gương mẫu, đạo đức, thánh thiện ngay từ hồi còn nhỏ.
          Dù rằng cha mẹ chiều chuộng,yêu thương, ủ ấp, nâng như nâng trứng,hứng như hứng hoa, Rosa vẫn tỏ ra đơn sơ, khiêm nhượng và thùy mị. Ðời sống của thánh nữ gương mẫu ngay trong lối ăn mặc,cử chỉ,thái độ khiêm tốn và lời nói đoan trang, hiền dịu. Tới trường, Rosa chuyên chăm học tập, trau dồi học vấn về mọi môn học, thánh nữ lưu tâm cách đặc biệt đến văn chương. Cha mẹ già yếu,ốm đau,  Rosa nghỉ học để phụ giúp gia đình và chăm nom phụng dưỡng cha mẹ để đền ơn đáp hiếu các Ngài. Cuộc sống của thánh nữ là một cuộc chiến đấu không ngừng: chiến đấu với ngoại cảnh,chiến đấu với chính con người của thánh nhân .
          Thánh nữ đã phải chống lại ý định của cha mẹ bắt ép Ngài lập gia đình để có cháu nối dõi tông đường. Thánh nữ còn phải đương đầu với việc không hiểu của cha mẹ, ngăn cản không cho Rosa đi vào tu viện để thánh nhân có cơ hội hiến trọn toàn thân cho Chúa Giêsu.
          Dù không được vào Dòng như ý muốn, thánh nữ đã xin mặc áo Dòng ba thánh Ðaminh,con đường hiến mình cho Chúa giờ đây vẫn được thánh nhân thực hiện trong cuộc sống tận hiến giữa đời. Niềm ước mong hiến trọn cuộc đời cho Chúa càng nổi bật khi vào những năm tháng cuối đời thánh nhân đã dành một phòng trong nhà để đón tiếp các trẻ mồ côi,lang thang, cơ nhỡ và những người già yếu bệnh tật. Ðây là hình thức làm việc xã hội đầu tiên trong đất nước Pérou.
          Cuộc đời của thánh nữ Rosa Lima có thể nói được là đã họa lại càng ngày càng giống hình ảnh của Chúa Giêsu đúng như lời Thiên Chúa phán trong những trang đầu sách khải nguyên: "Ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh Ta ". Giấc mơ của thánh nữ đã được thực hiện trong chính cuộc đời của Người : Rosa đã đục, đã đẽo, đã gọt dũa và đã chạm trổ, khắc ghi hình ảnh Chúa Kitô trong chính con người của mình.
          Hình ảnh của một con người sống thùy mị, đoan trang và đơn sơ là hình mẫu của chính thánh Rosa Lima để lại cho nhân loại. Mỗi vị thánh có một cảm nghiệm, một lối sống, một cách suy nghĩ khác nhau. Không có vị thánh nào lại sống rập khuôn theo vị thánh khác, mỗi vị thánh đều sống lý tưởng mình đã chọn cách độc đáo,cá biệt và có một phong cách riêng. Nhưng tất cả các vị thánh đều có một mẫu số chung là gọt dũa, khắc ghi và đục bỏ những gì là không cần thiết,những gì là sần sùi, sao cho giống, thật giống hình ảnh Ðức Kitô cứu thế. Thánh nữ Rosa Lima đã làm trọn công việc đó. Ngài muốn chúng tất cả nên giống Ngài trong đời sống thánh thiện như Chúa hằng mong muốn.
          Thánh nữ đã qua đời vì bệnh ung thư sau những năm dài miệt mài, say xưa làm việc bác ái tông đồ vào ngày 24/8/1617. Chúa thưởng công thánh nữ bằng vô số phép lạ Người làm sau khi chết.
          Thánh nữ vừa tròn 31 tuổi đời. Cái tuổi còn tràn đầy nhựa sống và sức sống. Chúa đã hái đóa Hoa Hồng tuyệt đẹp trong vườn hoa muôn mầu muôn sắc của Giáo Hội để đời đời, Người diện kiến và ca tụng Chúa trên nước trời. Ðức Thánh Cha Clêmentê X đã phong thánh cho Ngài vào năm 1671 .
           Thùng rỗng kêu to – nhiều khả năng độc giả có cảm nhận ấy sau khi đọc xong bản văn Tin Mừng hôm nay. Thật vậy, hầu như toàn bản văn được phủ bằng màu xám bởi Chúa Giêsu thẳng thắn trách cứ các hành động sai trái của nhóm biệt phái và kinh sư bằng những lời chúc dữ khốn cho các người...
          Chúa kể rạch ròi các tội mà hai nhóm này đã phạm như ngăn cản các tín hữu trên đường nên thánh (c.13-14), làm hỏng đức tin của các tân tòng (c. 15), gây cớ vấp phạm nghiêm trọng trong việc giải thích và thực hành Luật (c.16-22). Những tội này, xem ra có vẻ xa lạ. Những loại người mà Chúa Giêsu nhắm đến cũng dường như đã khá cũ xưa. Vậy phải chăng hôm nay hôm nay Chúa không gửi sứ điệp Tin Vui nào cho tôi, cho bạn và cho anh chị ? Không phải thế. Tin Mừng luôn mang tính thời sự, luôn mới, luôn có giá trị với mọi người, mọi thời, mọi cảnh, mọi nơi.
          Trước tiên phải nói rằng, các tội mà biệt phái và kinh sư phạm đều liên quan đến cái nhìn lệch lạc về Luật và Ân sủng, hay nói đúng hơn là sự nhầm tưởng quá nguy hại về Thiên Chúa và về bản thân họ. Họ tưởng họ đã nắm vững Luật, đã thực hành luật cách nghiêm nhặt thì họ có quyền giải thích luật theo ý họ, có quyền chỉ vẽ cho người khác thực hành luật theo hiểu biết của họ. Họ tưởng Ơn Chúa là hoa trái của những nỗ lực bản thân, của những thực hành theo kiểu công thức hóa học. Họ tưởng Chúa là ông chủ giữ kho ơn thánh để rồi chỉ cần đọc vài câu kinh như thần chú thì ắt sẽ Chúa sẽ phải ban ơn.
          Hậu quả của cái nhìn lệch lạc trên đây là lối sống giả hình đến quá thô thiển, đáng kinh; là sự mù lòa đáng thương của những người tự cho mình đang sáng mắt. Lối sống giả hình và mù quáng này khiến họ trở thành những người diệt giáo thay vì truyền giáo, những người phá đạo thay vì sống đạo. Họ chẳng khác gì những thùng rỗng kêu to, phát ra những bản nhạc tra tấn lỗ tai và làm đau tim người khác. Như thế, ta hiểu tại sao Chúa Giêsu dành cho các kinh sư và biệt phái những lời chúc dữ khốn cho các người.
           Khốn cho các người, lời này đáng lo và đáng sợ quá. Có khi nào lời ấy được dành cho tôi, cho bạn, cho anh chị hôm nay: khốn cho con !?
          Nếu nhìn các kinh sư và pharisêu như những phụ mẫu chi dân về tinh thần, về tôn giáo thì tôi, bạn và anh chị, chúng ta cũng ít nhiều chịu trách nhiệm hướng dẫn tha thân ở nhiều cấp độ khác nhau từ gia đình, giáo xứ, giáo phận, dòng tu, ... Vậy, sự giả hình, sự mù quáng nhuốm mùi biệt phái pharsêu có ít nhiều hiện diện trong cuộc sống của ta không?
          Ta có nói rất hay, rất dài, rất kỹ về Chúa và về đạo, nhưng kinh nghiệm về Chúa, kinh nghiệm sống đạo của ta lại chẳng bao nhiêu không? Ta có tận tâm tận lực vẽ bày cho tha nhân phải thế này thế nọ mới được vào Nước Trời, nhưng lối sống của ta và nhất là những biện minh mù quáng cho lối sống thiếu Chúa của ta có khiến anh chị em chao đảo, xa lìa đức tin, xa lìa giáo hội và mất Chúa đời đời chăng? Đặc biệt, khi thi hành sứ vụ của một Tác Viên Tin Mừng, ta miệt mài tìm về cho Chúa những anh chị em mới trong đức tin, nhưng ta lại làm cho họ thất vọng, suy sụp, trốn chạy khi chứng kiến những gì ta đã sống, đã làm cho cộng đoàn tiếp nhận họ chăng?
          Mỗi người chúng ta cùng thành tâm phơi mình trước ánh sáng của Lời và Thánh Linh Chúa, để ta nhìn rõ, hiểu thấu, cảm sâu và can đảm thực thi điều Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hôm nay.

Thứ Ba Tuần XXI TN-2021
THÁNH BA-TÔ-LÔ-MÊ-Ô, TÔNG ĐỒ, lễ kính.
Kh 21,9b-14; Ga 1,45-51.
GIỚI THIỆU CHÚA CHO MỌI NGƯỜI
          Lễ thánh Bartôlômêô được cử hành từ thế kỷ thứ VIII trong các xứ Francs, đến thế kỷ thứ IX-X thì lan sang Roma. Lễ cử hành vào ngày 24 hoặc 25 tháng tám; với người Byzance, ngày 25 trùng lễ kính chuyển hài cốt của Người, còn lễ chính là ngày 11 tháng 6, chung với thánh Banabê. Lịch thánh Piô V đã ấn định lễ này vào ngày 24 tháng tám.
          Bartôlômêô (có nghĩa là con của Tolamai) là một trong Nhóm Mười hai, các phúc âm thường nhắc chung với Philipphê (Mt 10,3). Người ta thường cho rằng Bartôlômêô cũng là Nathanael, nhưng điều này không có cơ sở. Nếu phải là Nathanael, chắc hẳn người có gốc ở Cana (Ga 21,2) và đã được Philipphê đem đến trình diện Chúa Giêsu (Ga 1,45). Một số tài liệu ngụy thư cho rằng thánh Bartôlômêô đã sang giảng Phúc âm ở Tây An (theo Eusèbe) hoặc các vùng gần Ethiopie (theo Rufin và Socrate), hoặc thậm chí còn tới Đại Arménie (theo kinh nghiệm các Tông đồ).
          Hình như Ngài đã bị lột da sống, theo luật hình Ba Tư, sau đó bị chặt đầu rồi đóng đinh thập giá. Người ta cho rằng hài cốt của Ngài được tôn kính ở Roma, nơi đảo Tibérine, và ở Francfort nước Đức. Thánh Bartôlômêô được coi là người bảo vệ các bệnh nhân, các ông bà bán thịt, thợ thuộc da và thợ đóng sách.  Lời nguyện trong ngày ca ngợi "đức tin ngay thực" của thánh Bartôlômêô. Hiển nhiên điều này muốn liên hệ đến lần Nathanael gặp Chúa Giêsu được Phúc âm Gioan kể lại (1,45-49). Theo lời Chúa nói: "Đây là một người Israen đích thực không giả dối", và Nathanael đáp lại : Rabbi, Thầy là con Thiên Chúa, là vua Israen. Người môn đệ mới đã hào hứng nhận ra nơi Chúa Giêsu  : Thầy, Con Thiên Chúa và vua Israen.
          Câu kết của lời nguyện trên lễ vật xin Chúa cho Giáo hội "trở nên bí tích cứu rỗi muôn dân". Bài giảng của thánh Gioan Kim Khẩn -Phụng vụ bài đọc trích dẫn- nhấn mạnh rằng, để loan truyền phúc âm ra khắp thế giới, Chúa đã muốn dùng "mười hai con người ngu dốt, nhát đảm, sợ sệt, hầu chứng tỏ rằng sự yếu đuối của Chúa còn mạnh hơn mọi người". Từ đó, cũng như mọi tông đồ trong Phúc âm, Giáo hội có thể cùng lặp lại với thánh Phaolô : Tôi có thể làm tất cả mọi điều trong Đấng bổ dưỡng tôi. Trong yếu đuối, chửi bới, áp bức, bách hại cũng như lo lắng. Khi tôi yếu là lúc tôi mạnh (2 Co 12,10 -đáp ca Phụng vụ bài đọc).
          Thánh Bartôlômêô, với tên gọi là Nathanael trong bài tin mừng hôm nay, được Philiphê giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ thế gian đến với mình. Ông chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng, Người đã biết rõ về ông là người trung thực, bản tính chất phác, ngay thẳng, có thiện chí tìm gặp Chúa, nên Người nói: “Đây đích thực là một người Israel, lòng dạ không có gì gian dối” (Ga 1,47).
          Khi Philipphê nói với Nathanaen rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia, Natanaen tỏ vẻ hoài nghi, bởi vì theo ông, Đấng Messia không thể xuất thân từ một nơi mà Thánh Kinh không bao giờ nói tới như Nagiarét. Quả thực, sự tương phản giữa quan niệm về một Đấng Messia vinh quang với nguồn gốc hèn hạ của Chúa Giêsu chính là một sự vấp phạm của mầu nhiệm nhập thể. Đức tin phải vượt qua cớ vấp phạm này để nhận ra Chúa Giêsu xuất thân từ Nagiarét tầm thường ấy chính là Đấng Messia. Một số người Do Thái đã không thể vượt qua như vậy, họ nói: “Ông này không phải là con của Giuse đấy ư ? Chúng ta há không biết cha mẹ của ông ta sao ? Thế mà tại sao bây giờ ông ta lại tuyên bố rằng ta từ trời xuống ?
          Chúa Giêsu nói với Nathanaen “Trước khi Philipphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh”: Trong Tin Mừng Ga, Chúa Giêsu thường tỏ ra am tường các biến cố và con người (2,25 6,61 13,1). Hình ảnh cây vả hơi mơ hồ: có người hiểu đó là nơi các rabbi thích ngồi để nghiên cứu Thánh Kinh; có người nghĩ đến cây biết tốt xấu trong vườn diệu quang. Có lẽ ý nghĩa ở đây là: Nathanaen là người thích suy gẫm Thánh Kinh để biết về Đấng Messia, và Đức Giêsu cho ông hay rằng những lời tiên báo về Đấng Messia ấy đã được thực hiện nơi Ngài.
          Lời của Chúa Giêsu khiến Nathanaen xúc động đến nỗi ông gọi Ngài bằng 2 tước hiệu “Con Thiên Chúa” và “Vua Israel”.
          Trong Ga, tước hiệu “Vua Israel” đồng nghĩa với tước hiệu Messia nhưng ít màu sắc chính trị hơn tước hiệu “Vua dân do thái” được nhắc tới trong cuộc chịu nạn của Ngài (18,33.39; 19, 3.21). Khi Ngài vào thành Giêrusalem, dân chúng cũng tung hô Ngài bằng tước hiệu “Vua Israel” (12, 13).
          Còn tước hiệu “Con Thiên Chúa” chính là tước hiệu được gán cho Ngài khi Ngài đăng quang làm Messia (2Sm 7, 14).
          Nathanaen sẽ “được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa”: bấy giờ Chúa Giêsu chỉ mới mạc khải với ông bằng lời, sau này Ngài sẽ còn dùng dấu chỉ để loan báo tương lai, nhất là dấu chỉ Cana trong đó Ngài sẽ “biểu lộ vinh quang của Ngài”.
          Chúa Giêsu có nhắc tới việc “thiên thần Chúa lên xuống”. Có thể có liên hệ với chiếc thang Giacóp trong St 28, 12 “Này đây được dựng từ đất một chiếc thang mà đầu kia chạm tới trời; các thiên sứ lên xuống trên thang đó”. Như thế, chi tiết này muốn nói rằng trong tư cách là “Con Người”, Chúa Giêsu chính là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người, giữa trời và đất.
          Nathanaen đã được biết Chúa Giêsu và được Ngài kêu gọi nhờ sự giới thiệu của Philipphê. Tôi cũng được biết Chúa và được Ngài gọi nhờ sự giới thiệu của nhiều người. Nhưng ít khi tôi nhớ ơn họ và cầu nguyện cho họ. Hôm nay tôi hãy cầu nguyện cho những ân nhân đó; và nguyện sẽ giới thiệu Chúa cho những anh chị em khác của tôi nữa.
Nathanaen hỏi “Làm sao Ngài biết tôi ?” Chúa Giêsu đáp “Trước khi Philipphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi”: Chúa cũng biết con từ lâu và biết rất rõ. Con xin phó thác đời con cho Chúa.
          Ngày nọ, một người bạn đến tìm nhà giảng thuyết Mc-Leod Campbell và hỏi: “Này anh, xin anh nói cho tôi hay; làm thế nào mà anh luôn tìm thấy Chúa ?” Nhà giảng thuyết trầm ngâm một lúc rồi nói: “Làm thế nào mà tôi luôn tìm thấy Chúa ư ? Không đâu, tôi không luôn tìm thấy Chúa đâu, nhưng tôi biết là Chúa luôn tìm thấy tôi!”
          Ba-tô-lô-mê-ô đã được Chúa Giêsu nâng đỡ, và ông đã dứt khoát lựa chọn bước theo ơn gọi làm tông đồ cho Chúa: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên-Chúa, chính Thầy là vua Ít-ra-en” (Ga 1,49). Nên, Chúa Giêsu đã đưa ra lời mọi và tuyển chọn Bartôlômê làm môn đệ, và cho ông thấy nhiều việc cao trọng hơn thế nữa (Ga 1,50).
          Ngày lễ thánh hôm nay, Chúa gọi mỗi Kitô hữu với những ơn gọi khác nhau. Bổn phận của chúng ta là giới thiệu Chúa đến với mọi người bằng đời sống đạo đức, thánh thiện, biết chia sẻ, yêu thương, biết sống hòa thuận với anh chị em trong gia đình, xứ đạo, anh chị em lương dân, và những người đang đau khổ bất hạnh trong cuộc sống, và giữa cơn đại dịch Covid 19 đang gây nỗi đau thương mất mát cho cộng đồng nhân loại và xã hội đường thời ngày nay.
          Đó là trách nhiệm và bổn phận của mỗi Kitô hữu chúng ta thể hiện căn tính người môn đệ của Chúa bằng đời sống chứng nhân và hành động của mình, để giới thiệu Chúa cho mọi người.

Thứ Tư Tuần XXI TN-2021
1Tx 2,9-13; Mt 23,27-32.
GIẢ THẬT - THẬT GIẢ
          Ở đời thường nhiều lúc chúng ta không biết đâu là giả, đâu là thật. Cái đáng thật thì chúng ta coi là giả, ngược lại cái giả thì chúng ta đinh ninh rằng đó là thật và đấn thân đi theo. “Vàng thau lẫn lộn”; đâu là giả, đâu là thật, ai đứng ra giải thích trong các trường hợp cấp bách, mốn biết cứ phải kiểm chứng sao? Vì vậy cái giả, cái thật trộn lẫn làm cho con người ta mất phương hướng, không biết tin vào ai, không dám đặt niềm tin vào ai.
          Tin Mừng hôm nay ghi lại hai lời kết án nữa của Chúa Giêsu chống lại các Luật sĩ và Biệt phái.
          Với lời kết án thứ sáu, Chúa Giêsu ví các Luật sĩ và Biệt phái như những mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Tại Palestina, người dân có thói quen quét vôi trắng các mồ mả, nhất là vào dịp lễ Vượt Qua, để người ta có thể nhận ra và tránh xa khỏi bị nhơ uế ngăn trở cho việc phụng tự. Vẻ đẹp bên ngoài của các mồ mả che dấu thực tại ghê tởm bên trong. Cũng vậy, các Luật sĩ và Biệt phái bên ngoài xem ra là những người công chính, nhưng bên trong thì đầy sự giả hình và tội ác; việc họ giữ luật cách nghiêm nhặt chỉ là tấm màn che đậy một đời sống tương phản với những điểm cốt yếu của Lề Luật Thiên Chúa, đó là sự công bình, lòng bác ái và trung tín.
          Trong lời kết án thứ bẩy, Chúa Giêsu tố cáo sự giả hình của các Luật sĩ và Biệt phái: họ xây mồ cho các tiên tri và sửa sang phần mộ những kẻ mà cha ông họ đã sát hại; họ than trách tội ác của cha ông họ trong quá khứ và tự phụ rằng nếu sống vào thời tổ tiên, họ sẽ không hành động như thế; nhưng họ quên rằng họ là con cháu của những kẻ đã sát hại các tiên tri, và giờ đây họ đang đi vào con đường đó bằng việc mưu hại Ngài.
          Chúa Giêsu cũng chờ đợi nơi mỗi người chúng ta những thành quả tốt đẹp của việc cải hóa tâm hồn, nếu không, chúng ta cũng sẽ phải lãnh nhận số phận như các Luật sĩ và Biệt phái: cây khô sẽ bị chặt đi và bị ném vào lửa đời đời. Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi sự giả hình, khỏi tính ích kỷ và tự mãn.
          Từ thuở tạo thiên lập địa tới nay, cái thật cái giả luôn tồn tại song song, có cái thật, chắc chắn sẽ có cái giả và ngược lại. Cái thật thì luôn ở ngoài ánh sáng, cái giả thì ở trong bóng tối. Cái giả luôn luôn đẹp hơn, lộng lẫy hơn và bắt mắt hơn, cái giả thì đẹp về hình thức, cũng như kết cấu vẻ bề ngoài sang trọng. hầu đánh lừa thị hiếu của thiên hạ, làm cho thiên hạ tin rằng đó là thật. Bên cạnh đó cái thật thì không lộng lẫy xa hoa, có thể nói được là xù xì chất phác, không trọng vẻ bề ngoài, nhưng chất chứa một chất lượng tuyệt vời. Nó là thật thì nó luôn đảm bảo chất lượng, luôn làm cho người dùng hay sở hữ nó có thể yên tâm. Có thể nói cái thật thì không thể so sánh được với cái giả, và cuối cùng cái thật luôn là thật, nghĩa là chân lý luôn đúng. Cái giả tàn phai tàn nhanh theo thời gian, cái thật tồn tại vĩnh hằng. Cái giả đánh lừa thị hiếu, cái thật làm thỏa mãn lòng người.
          Đó là những thứ đời thường của con người. Trong bài tin mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng lên án mạnh mẽ các nhà kinh sư và những kẻ đạo đức giả. Ngài nhắc lại hai lần trong đoạn tin mừng “”Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình!”. Ngài dùng từ “Khốn” để cảnh báo kinh sư và người Pha-ri-sêu. Từ “khốn” nó đối lập với từ “may” “mừng”… Để nói lên một trạng thái không mấy là tốt đối với những người nhận từ này. Có thể nói đây là một lời chúc giữ tới hơn là một lời cảnh báo.
          Lời này Chúa Giê su đã dành cho các người biệt phái và Pharisêu, họ là những con người giả dối, hình thức, làm mọi việc để đánh bóng thân xác mình thay vì vinh danh Chúa. Không chỉ bài tin mừng hôm nay, các bài tin mừng mấy ngày trước Chúa Giêsu cũng nặng lời với họ. Tin mừng ngày thứ hai Chúa cũng nói “Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng!. Và chúng ta đọc trong các tin mừng, chúng ta không khó để tìm ra những từ mà Chúa đã lên án những người Pha-ri-siêu.
          Chúng ta đang sống trong một thế giới văn minh, hiện đại, cái mà con người đang phải đối mặt đó là sự giả dối. Con người càng phát triển, sự giả dối càng tinh vi hơn, khó nhận biết hơn và chắc chắn mọi người mắc phải nhiều hơn. Không chỉ trên báo đài mà chúng ta có thể bắt gặp hằng ngày những đồ vật giả, những hình thức lừa đảo lấy giả làm thật, bằng giả, tất cả mọi thứ con người có thể làm giả kể cả con người họ cũng có thể làm giả.
          Nhìn lại cuộc đời của mỗi người, chúng ta có nằm trong số những người đó không, chúng ta có chạy theo họ? Làm theo họ? hay chúng ta có bị ngã chiều? Hy vọng chúng ta không nằm trong số những người bị Chúa Giê-su gọi là “khốn” mà Ngài sẽ gọi chúng ta là: “phúc cho con” hay “mừng cho con”.
          “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu đạo đức giả!”. Trong chương 23 của sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu, Chúa Giêsu nói tới bảy lần như vậy (c. 13.15.16.23.27 và 29): bài Tin Mừng hôm kia ba lần, bài Tin Mừng hôm qua hai lần và bài Tin Mừng hôm nay hai lần còn lại. 
          Chúng ta có thể coi đó là căn bệnh “đạo đức giả” hay “giả hình” với những biểu hiện khác nhau, cần được làm rõ để được chữa lành, không phải chỉ của những kinh sư và người Pharisêu, nhưng của loài người và từng người chúng ta.

 

 

Chúa Nhật 21 TN-B-2018
LÒNG TRUNG THÀNH
Gs 24, 1-2a. 15-17. 18b;  Ep 5, 21-32;  Ga 6, 61-70

          Mỗi lần tham dự Thánh lễ hôn phối, ta được nghe từng lời của chú rể : Anh ... nhận em ... làm vợ và hứa sẽ giữ lòng trung thành với em, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như khi mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em suốt đời anh. Đáp lại, cô dâu cũng nói lên lòng trung thành với chồng của cô.

Đời sống nào cũng thế, bậc nào cũng thế và tương quan nào cũng thế, tất cả đều cần với nhau lòng trung thành, sự chung thủy với nhau.

Tham dự Thánh lễ hôn phối, ta vẫn thường cầu chúc cho đôi hôn nhân không chỉ là trung thành mà còn chung thủy với nhau cho đến ngày răng long đầu bạc ! Bạn bè chơi với nhau thì ai ai cũng muốn người bạn của mình trung thành.

Và như vậy, chúng ta thấy lòng chung thủy, sự trung thành đó luôn luôn là điều mà mọi người chúng ta phải gìn giữ trong mọi mối tương quan với nhau.
Tương quan giữa con người với Thiên Chúa, nhìn lại lịch sử cứu độ, ta sẽ thấy mối tương quan đó như thế nào đó. Tương quan đó nhiều lần đổ vỡ vì lẽ con người vì chạy theo tà thần, chạy theo ngẫu tượng để rồi quay lưng lại và thất tín bất trung với Chúa. Với Chúa thì ngược lại, dù con người thất tín bất trung đó nhưng Thiên Chúa vẫn nhẫn nại và nhẫn nại.

Bằng chứng rõ nét nhất là hôm nay, chúng ta vừa nghe lời của ông Giosuê nói với toàn dân như : "Nếu các ngươi không muốn tôn thờ Thiên Chúa, thì cho các ngươi lựa chọn: hôm nay, các ngươi hãy tuỳ ý chọn phải tôn thờ ai hơn: hoặc là các thần cha ông các ngươi đã tôn thờ ở Mêsôpôtamia, hoặc các thần của người xứ Amôrê, nơi các ngươi đang ở. Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa".

Nghe lời của Giosuê, dân chúng đáp lại với vẻ khẳng khái và hết sức tự tin và thêm tình thống thiết xem ra rất tình cảm : "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ những thần ngoại. Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, chính Người đã dẫn chúng tôi và cha ông chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Người đã làm những việc kỳ diệu cả thể trước mắt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt con đường chúng tôi đã đi, giữa tất cả mọi dân chúng tôi đã đi qua. Chúa đã trục xuất tất cả những dân đó cũng như người Amôrê trên phần đất chúng tôi đã tiến vào".

Nghe những lời ấy, ta cũng thấy đi vào lòng người bởi những lời ấy hết sức tình cảm, hết sức gắn bó với Thiên Chúa.

Ngày hôm nay, ta cũng nghe lời hết sức tình cảm từ miệng của ông Simon Phêrô : "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa".

Những lời của ông Simon Phêrô xem ra cũng thống thiết, cũng tình cảm như lời của dân Do Thái ngày xưa. Thế nhưng, sau những lời thống thiết ấy, những lời xác tín ấy, ông Simon Phêrô lại cứ ngã lên ngã xuống và có những lúc đã bỏ thầy và cũng sẵn sàng chối Thầy.

Hành trình theo Chúa của mỗi người chúng ta dường như cũng có nét gì đó giống dân Do Thái ngày xưa hay cũng giống như ông Simon Phêrô vậy.

Chúng ta đã thiếu lòng trung thành với Thiên Chúa. Nói về Thiên Chúa, có vẻ hơi xa, ta nhân cơi hội này nên nhìn lại lòng trung thành của chúng ta với vợ, với chồng, với bạn bè thân tín của ta, với đồng nghiệp, với công ty của ta.
Ngày hôm nay, cũng không thể nào phủ nhận sự tiến bộ quá nhanh chóng của xã hội, của cuộc sống để rồi đôi khi đâu đó ta nghe người này người kia trong một năm đã "nhảy" đến 3 công ty ! Hẳn nhiên họ có quyền để tìm cho mình một công việc thuận lợi, một đồng lương phù hợp nhưng đàng sau đó, có những trường hợp thiếu lòng trung thành với cái nơi mà đã cưu mang mình mà cưu mang trong khoảng thời gian đặc biệt mới ra trường.

Ngày xưa đi làm cũng vậy, trong phòng của tôi, những anh em được lãnh đạo cưng chiều cũng như nâng đỡ lại là những người thiếu lòng trung thành cũng như biết ơn với những người đã cưu mang họ. Bi đát hơn nữa là họ đã lập công ty khác để cạnh tranh với chính người chủ của mình. Đàng rằng họ có quyền tự do để làm chuyện đó nhưng xem ra không có nhân có nghĩa. Khởi đầu tất cả cũng do sự thiếu trung thành với nhau.

Không chỉ là công việc, ngày hôm nay phải nói là hơn lúc nào hết, lòng trung thành, sự chung thủy trong đời sống hôn nhân đang ở mức báo động đỏ. Người ta thống kê được rằng cứ  2 đôi cưới nhau rồi thì sau đó không lâu 1 đôi bỏ nhau hay hơn nữa mà trong đó người Công Giáo chiếm số lượng không nhỏ. Cũng khởi đầu từ sự bất trung bất tín với nhau.

Bạn bè chơi với nhau ngày hôm nay cũng thế ! Chơi với nhau như có chơi vậy thôi nhưng họ sẵn sàng đạp đổ nhau vì cái lợi cá nhân, vì sự ích kỷ của họ.

Là con người mà người ta còn coi thường lòng trung thành, sự chung thủy với nhau thì cũng dễ hiểu sao với Thiên Chúa họ cũng thất tín bất trung như vậy.

Như tâm tình của Thánh Phaolô nói thật hay : Ðức Kitô yêu thương Hội Thánh và phó mình vì Hội Thánh, để thánh hoá Hội Thánh, khi Người dùng nước và lời hằng sống rửa sạch Hội Thánh, ngõ hầu bày tỏ cho mình một Hội Thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo hay phải điều gì khác tương tự, nhưng thánh thiện và vẹn tuyền.

Đức Kitô mãi mãi yêu thương chúng ta, Đức Kitô chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống để rồi chỉ mình Đức Kitô mới là cùng đích của chúng ta. Chúng ta xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày ta luôn giữ lòng trung thành với Chúa và ta luôn nói với Chúa rằng : "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời".  

Huệ Minh .

 

THỨ BA TUẦN 21 TN
THÁNH GIOAN TẨY GIẢ BỊ  CHÉM ĐẦU
St 3:6-10,16-18; Tv 128:1-24-5; Mt 23:27-32
SỨ MẠNG CỦA GIOAN TẨY GIẢ

          Có những cái chết để lại cho đời  niềm thương nhớ khôn nguôi .Có những sự ra đi làm cho con người thương nhớ ,nhắc nhớ tên người chết mãi mãi không ngơi. Có những cái chết khiến người khác trề môi,phỉ nhổ. Chết là trở về nơi cũ. Chết là ra đi. Chết là trở về với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và tác sinh. Cái chết của thánh Gioan tẩy Giả, Giáo Hội mừng kính hôm nay khiến nhân loại phải ghi nhớ, khiến nhiều người thương tiếc,nhưng cũng không khỏi nguồn rủa sự điên rồ, ngạo nghễ và dại gái, khôn nhà dại chợ của Hêrôđê, một vị vua tàn ác và thiếu tư cách làm người .
Qua lệnh truyền của một bạo chúa, một chiếc gươm gieo, một chiếc đầu rơi trong ngục tối. Ðó là những diễn tiến đã kết thúc cuộc đời của thánh Gioan Tẩy Giả, một biến cố mà Giáo Hội mời gọi chúng ta tưởng niệm hôm nay.
Thánh Gioan tẩy giả là người anh họ của Đức Chúa Giêsu. Thân mẫu ngài là thánh nữ Êlizabeth và thân phụ ngài là ông Zacaria. Chương đầu tiên của Tin mừng theo thánh Luca thuật lại biến cố sinh nhật tuyệt vời của thánh Gioan. Và Tin mừng theo thánh Marcô, nơi chương thứ 6, các câu 14-29, kể lại những chi tiết tàn bạo về cái chết của Gioan tẩy giả.
Vua Hêrôđê lấy vợ của anh mình là bà Hêrôđia. Gioan nói cho Hêrôđê biết điều ấy là sai, nhưng Hêrôđê và Hêrôđia không muốn nghe và giữ giới luật của Thiên Chúa. Họ chỉ muốn làm theo ý riêng mình. Và Gioan tẩy giả đã phải trả giá cho lòng tốt của ngài !
Tuy nhiên, thánh nhân không thể hành động theo cách khác được. Ngài không im lặng trước tội lỗi và bất công. Sứ mệnh của Gioan là mời gọi người ta cải hối cuộc đời; và ngài mong muốn cho hết thảy mọi người được ơn giao hòa cùng Thiên Chúa.
          Hêrôđê đã đi vào con đường tội lỗi . Sự dại gái,khôn nhà, dại chợ của Hêrôđê đã khiến vị vua này trở nên ngông cuồng điên dại.Sống trong tội lỗi,tâm hồn của Hêrôđê đã trở nên mù quáng, tối tăm.Ở trong bóng tối, Hêrôđê đã không còn biết phân biệt đâu là phải,đâu là trái. Ông  đã hành động tùy tiện việc nước, đã ăn chơi,chè chén trác táng. Ông không còn biết nhận ra sự thật. Số là Hêrôđê đã cướp vợ của ngay người em mình. Sự loạn luân không thể tha thứ, đã làm cho Gioan Tẩy Giả phải lên tiếng quở trách nặng lời hành động vô luân của Hêrôđê và Hêrodias, vợ loạn luân của Hêrođê. Đúng như lời Kinh Thánh nói: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về  ánh sáng…” (Ga 1, 6-7).

Gioan không phải là ánh sáng,nhưng Gioan tới để minh chứng về ánh sáng . Vì chứng minh cho Chúa Giêsu là sự thật, là ánh sáng. Gioan đã không bao giờ chịu khuất phục trước những việc chướng tai gai mắt của con người,của xã hội đương thời và của nhân loại. Gioan đã có lần nói: “Có Đấng đến sau Ông và Ông không xứng đáng cởi giây dép của Ngài”. Gioan quả thực đã tới trần gian để dọn đường cho Chúa cứu thế. Làm công tác dọn đường, Gioan đã sống đích thực sứ mạng của vị tiên tri .
Ngôn sứ phải nói lên sự thật và không bao giờ sợ nguy hiểm cho dù công tác của vị ngôn sứ luôn gặp sự hiểm nguy. Để làm chứng cho Đấng cứu thế, Ngài đã nói công khai với mọi người khi họ lầm tưởng Gioan là Đức Kitô: “Người phải lớn lên,còn tôi phải nhỏ lại”. Gioan đã lớn lên trong sự minh chứng cho sự thật. Chống lại hành động loạn luân và dâm dật của đôi dâm phụ Hêrôđê và Hêrodias.
Gioan Tẩy Giả đã phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời ngôn sứ của mình: cái chết. Hêrôdias vì không chấp nhận sự thật, không chịu nổi lời quở trách của vị tiên tri. Nên đã căm thù tìm cơ hội khử trừ vị ngôn sứ đầy uy tín. Với sự nhảy múa cuồng nhiệt nhân ngày sinh nhật, Hêrodiađê đã làm ngây ngất vua Cha. Cái đầu, vẫn là sự căm tức ngông cuồng của Hêrôdias. Đầu của vị ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã nằm gọn trong chiếc dĩa trước mặt Hêrôđê.
          Dù biết rằng mình sẽ phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời, Gioan Tẩy Giả vẫn nói lên tiếng nói bất khuất của vị ngôn sứ. Mọi tiên tri đều phải trả giá cho lời chứng của mình. Gioan Tẩy  Giả đã sống anh dũng, can trường với lời nói của mình.Cái đầu phải trả là giá nặng nề và đáng nguyền rủa nhất của vị ngôn sứ sau cái chết chịu đóng đinh nơi thập giá đối với người Do Thái lúc đó. Gioan Tẩy Giả đã tự xóa nhòa mình để cho Đấng cứu độ lớn lên trong lịch sử nhân loại.
Lời chứng và cái chết của Ngài, đã nói lên sự thật muôn đời là Gioan đã hoàn toàn đáp trả hoàn toàn lời mời gọi của Thiên Chúa: “Ngài không sợ hãi,lớn tiếng trước mặt các vua chúa.Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý”.
Thánh Gioan tẩy giả rao giảng phép rửa sám hối, chuẩn bị cho người ta đón nhận Đấng Mêsia. Ngài đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu trong dòng sông Giođan và được hưởng kiến niềm vui vì sứ mệnh công khai của Chúa Giêsu đã khởi sự. Gioan tẩy giả đã khích lệ các môn đồ của mình đi theo Đức Chúa Giêsu. Ngài biết rằng danh Chúa phải tỏa sáng ra, còn danh mình phải lu mờ đi.
Trong chương thứ nhất Phúc âm theo thánh Gioan, thánh Gioan tẩy giả nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, chỉ thức tỉnh người ta hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng mà thôi! Thánh nhân mời gọi mọi người hãy sẵn sàng để chuẩn bị đón nhận Đấng Mêsia.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã sống hoàn toàn đúng nghĩa của một vị ngôn sứ chân chính, đích thực, Ngài đã hoàn toàn đáp trả lại lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa: “Ngài đã không sợ hãi, lớn tiếng trước mặt các Vua Chúa. Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý”.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã vạch mặt chỉ tên mọi người sống bê tha, tội lỗi. Lời rao giảng sám hối và phép rửa cải tà qui chánh, cải hoá nội tâm của Ngài đã nói lên một sự thực muôn đời: “Tất cả đều phải sám hối và ăn năn”. Thánh nhân đã không chùn bước trước những thế lực mạnh nhất lúc đó là Hêrôđê. Ngài đã can đảm nói lên việc Hêrôđê cướp vợ của anh mình là Philíp, nàng Hêrôđia…
Sự can đảm và cương quyết của Ngài đã bị cường bạo đè bẹp bằng lời hứa thật đê hèn và thô bạo. Nhưng cái chết của thánh Gioan Tẩy Giả đã minh chứng cho chân lý ngàn đời: “Sự thật sẽ giải phóng tất cả”. Gioan Tẩy Giả đã chết đi để bảo vệ cho sự thật, minh chứng cho Chúa Giêsu: “Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14, 6).
Mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng được kêu mời để đáp lại tiếng gọi. Và mặc dù không ai có thể tái diễn vai trò của thánh Gioan Tẩy Giả, nhưng mọi Kitô hữu phải tiếp diễn sứ mệnh của ngài trong mọi hoàn cảnh mình đang sống. Ðó là sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.
 HUỆ MINH

 

THỨ NĂM TUẦN 21 THƯỜNG NIÊN
1 Cr 1:1-9; Tv 145:2-3,4-5,6-7; Mt 24:42-51
TỈNH THỨC ĐÍCH THỰC

Nhiều lần trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nói lên quan niệm của Ngài về quyền bính. Vì các tông đồ hay tranh luận với nhau về quyền bính; các giấc mộng công hầu khanh tướng luôn ám ảnh các ông, ai trong các ông cũng muốn ngồi chỗ cao, chỗ trọng vọng trong Vương quốc mà họ tưởng Chúa Giêsu đã đến để thiết lập. Thế nhưng, chuyện quan trọng mà ta thấy Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ phải sẵn sàng chờ đợi Chúa đến với tinh thần tỉnh táo và trong tư thế sẵn sàng hành động như người đang canh phòng kẻ trộm.
Sự tỉnh thức sẵn sàng của các môn đệ không giống như sự tỉnh thức của toán quân đang phục kích chờ địch đến để tiêu diệt; nó cũng khác với sự tỉnh thức trong run sợ của một tử tội chờ đến giờ mình bị hành quyết. Chúa Giê-su chân dung người tôi tớ trung thành, đó là: chu toàn với tinh thần trách nhiệm các bổn phận được giao phó, tận tâm chăm lo cho tha nhân trong tình huynh đệ, sẵn sàng chờ đón chủ bằng lòng yêu mến trung thành. Việc chủ trở về cách bất ngờ không phải là một điều gây sợ hãi mà trái lại càng làm sâu đậm hơn sự gắn bó của người tôi trung với chủ mình.
Hai dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay cho thấy ý nghĩa bổ túc cho nhau: dụ ngôn thứ nhất nói về kẻ trộm đến bất ngờ trong đêm, do đó người chủ phải sẵn sàng luôn; sự sẵn sàng này được giải thích trong dụ ngôn thứ hai về người đầy tớ trung tín và khôn ngoan thi hành mệnh lệnh của chủ, cứ đúng giờ mà cấp phát lương thực cho người nhà.
Thật không dễ dàng mà có thái độ sẵn sàng theo đúng ý Chúa muốn. Vào thời các Tông đồ, có những tín hữu quá sốt sắng chờ đợi Chúa trở lại đến độ lơ là việc bổn phận của mình. Ðó là thái độ của tín hữu cộng đoàn Thessalonica mà thánh Phaolô đã phải khuyến cáo:  Thưa anh em, về ngày Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm và tập hợp chúng ta về với Ngài, thì tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Ðừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào".
Nhưng đối lại với tham vọng ấy, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền bính là để phục vụ; trong nước Ngài, kẻ càng được trao nhiều quyền bính là kẻ càng biết phục vụ; trong Nước Ngài, kẻ càng được trao nhiều quyền hành, thì càng phải là người phục vụ, mà phục vụ theo đúng nghĩa là hoàn toàn quên mình để sống cho người khác.
Do phép rửa, người Kitô hữu chúng ta được tham dự chức vụ vương giả của Chúa Kitô. Chúa Kitô là Vua, nhưng là Vua của phục vụ. Cung cách vương giả của Ngài là quì trước các môn đệ và rửa chân cho họ. Do đó, tham dự chức vụ vương giả của Chúa Kitô, chúng ta cũng được trao cho một thứ quyền bính, và quyền bính ấy tương đương là để phục vụ. Người ta tưởng không thể là Kitô hữu, không thể là môn đệ Chúa Kitô mà lại khước từ việc phục vụ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tỉnh thức: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến… nên anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
Tỉnh thức không phải là không ngủ. Nhưng tỉnh thức là luôn ở trong tư thế sẵn sàng đón tiếp Chúa bất cứ lúc nào, sẵn sàng cả trong khi ngủ. Tỉnh thức là tỉnh táo nhận ra Chúa đến viếng thăm chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, Chúa đến với chúng ta qua mọi biến cố của cuộc sống với những biến cố mừng vui hy vọng và cả những biến cố đau buồn tang tóc. Chúa sẽ đến để gọi mỗi người chúng ta về với Chúa, Chúa cũng sẽ đến trong ngày Quang Lâm để phán xét nhân loại. Nếu chúng ta biết lắng nghe, chúng ta sẽ nhận ra được bước chân Chúa đến và sẵn sàng mở cửa để đón tiếp Ngài.
Sự tỉnh thức đích thực của người Kitô hữu chúng ta chính là phục vụ. Càng phục vụ, chúng ta càng nhận ra được Chúa đang đến. Càng phục vụ, chúng ta càng nên giống Chúa trong cung cách vương giả của Ngài. Ai lãnh nhận nhiều sẽ bị đòi hỏi nhiều. Ân sủng dồi dào mà chúng ta lãnh nhận qua bí tích rửa tội là để san sẻ; tình yêu chúng ta cảm nhận được trong đức tin là để trao ban cho mọi người.
Sự tỉnh thức đích thực của người kitô hữu chúng ta chính là ý thức rằng: sống tích cực để yêu thương và phục vụ, và đó cũng là hạnh phúc đích thực của chúng ta, vì như Chúa Giêsu đã nói: “Cho thì có phúc hơn là nhận”.
Vì thế, phải tỉnh thức.
Tỉnh thức là người luôn sống trong ân sủng của Chúa. Luôn sẵn sàng đón chờ Chúa đến bất cứ lúc nào...;
Tỉnh thức là luôn biết hồi tâm để nhận ra cái sai cần sửa, để ngày càng đẹp lòng Chúa hơn;
Tỉnh thức là luôn biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống;
Tỉnh thức là người luôn cầm đèn sáng trên tay với đầy đủ dầu, để khi Chúa đến, họ sẵn sàng ra đi đón Ngài.
Ngược lại với người tỉnh thức là những kẻ ngủ mê.
Vì ngủ mê nên nghĩ đời mình vẫn còn dài, chưa vội dừng cuộc chơi, phí đời trai trẻ;
Ngủ mê là những người không nhận ra tội của mình mà sửa sai;
Ngủ mê là những người luôn kết án kẻ khác, trong khi bản thân mình lại dung túng cho những sự xấu xa lên ngôi.
Sống chờ đợi Chúa lại đến không phải bằng thái độ thụ động, nhưng bằng thái độ tích cực. Thánh Phaolô mô tả thái độ đó như sau: "Anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, là con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ, hãy mặc áo giáp là đức tin và đức mến, hãy đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ".
Sống đức tin, đức cậy, đức mến, trong khi chờ đợi Chúa đến, không có nghĩa là chúng ta bỏ quên sự dấn thân của mình. Mỗi người chúng ta cần phải luôn tỉnh thức với thái độ tích cực, đồng thời nỗ lực góp phần xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng. Đó là Chúa muốn chúng ta dành trọn thời gian, dành trọn cuộc đời để yêu mến Ngài không giới hạn, khao khát Ngài không điểm dừng. Vì Chúa muốn nói với chúng ta: Chúa là tất cả. Vì Chúa là tất cả nên ngoài Chúa ra chúng ta đừng tìm thứ hạnh phúc nào khác. Chúng ta hãy cố gắng sống những tâm tình của Thánh Augustinô : “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên hồn con luôn khát khao cho đến khi được về an nghi bên Chúa”.
Ước gì chúng ta luôn thức tỉnh trong hướng đi ấy, và xin Chúa cho chúng ta đừng trốn tránh hay làm ngơ trước trách nhiệm quan trọng tỉnh thức là yêu thương và phục vụ.


THỨ SÁU TUẦN 21 THƯỜNG NIÊN
1 Cr 1:17-25; Tv 33:1-2,4-5,10,11; Mt 25:1-13
CẨN TRỌNG GIỜ CHÚA ĐẾN

Còn nhớ câu đồng dao:
Thiên đàng hỏa ngục hai bên
Ai khôn thì dại, ai dại thì khôn
Ranh giới giữa khôn và dại rất “mỏng”, khó mà phân biệt rạch ròi. Bởi lẽ chỉ cần ta tích chứa “một chút dầu” ắt sẽ trở thành người khôn, trái lại chỉ cần lơ là quên “một chút dầu”, ta trở thành kẻ dại khờ bất hạnh. Và sâu xa hơn nữa, cái khôn ngoan theo kiểu thế gian lại là cái dại dột đối với Thiên Chúa. Và cái dại dột của thế gian mới thật là cái khôn ngoan mà Thiên Chúa đòi hỏi.
Tìm kiếm sự khôn ngoan là mối bận tâm của tất cả mọi người. Nhưng khám phá ra đâu là dại, đâu là khôn thì không phải là chuyện dễ dàng. Nhà thơ Trần Tế Xương đã “triết lý” về cái lẽ “dại khôn” ấy rằng: “Thiên hạ đua nhau nói dại khôn.  Biết là ai dại biết ai khôn.”
          Trang Tin mừng theo thánh Matthêu hôm nay đề cập đến chuyện khôn - dại ở đời. Bằng một ví dụ cụ thể về câu chuyện mười trinh nữ đi dự tiệc cưới. Trong số đó có 5 cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Nhưng chỉ có “Top 5 cô khôn ngoan” đón được chàng rể và vào dự tiệc cưới.
Chúa Giêsu kể dụ ngôn mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể để dạy chúng ta biết phân định sự khôn ngoan không phải theo quan niệm của đời này mà là theo chuẩn mực của Tin Mừng. Sự khôn ngoan ấy hệ tại tinh thần tỉnh thức, sẵn sàng cho những đòi hỏi của Nước Trời. Hình ảnh chiếc đèn luôn đầy dầu nói lên sự chuyên chú, trung kiên sống theo những giá trị của Tin Mừng mọi lúc trong cuộc sống cho đến lúc kết hợp trọn vẹn với Chúa trên Nước Trời.
Theo văn hóa Do Thái, nghi lễ hôn nhân được tổ chức vào ban đêm và vào giờ thời gian bất ngờ không ai được biết trước. Vì thế mọi người phải canh thức chờ đợi. Tác giả Tin Mừng cho biết, tất cả mười cô trinh nữ đều cầm đèn trong tay chờ đợi, nhưng chỉ có 5 cô khôn ngoan biết mang theo dầu để dự trữ. Chuyện khôn dại là lẽ thường trong đời.
Một lần nữa Tin Mừng đặt ra cho chúng ta một giá trị phải chọn lựa. Đó là chọn khôn ngoan theo kiểu loài người hay theo kiểu của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của Nước Trời đó là thái độ sẵn sàng và tỉnh thức, sống trọn vẹn giây phút hiện tại, chu toàn bổn phận hàng ngày với lòng yêu mến. Là sống như lời Thánh Phaolô khuyên nhủ giáo đoàn Ephêsô: “Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan biết tận dụng thời buổi hiện tại vì chúng ta đang sống giữa những ngày đen tối” (Ep 5, 15-16).
Trong dụ ngôn, cho ta thấy thái độ của mười cô trinh nữ hoàn toàn khác nhau: “Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình.” Năm cô trinh nữ khôn ngoan chuẩn bị dầu đèn đầy đủ; khi chàng rể đến vào ban đêm, các cô đã theo chàng rể vào dự tiệc cưới. Trái lại, năm cô trinh nữ khờ dại mang đèn mà không có dầu, nên các cô khờ dại chậm trễ, không kịp đón chàng rể, và khi đến phòng tiệc, cửa đã đóng lại. Các cô khờ dại đá đánh mất cơ hội dự tiệc cưới.
Chúa dạy mỗi người Kitô hữu cần sẵn sàng và tỉnh thức để đón Chúa vào Ngày Chúa giáng lâm lần thứ hai.
Muốn cho ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng, chúng ta phải nỗ lực “châm dầu” vào. Một giọt dầu của hy sinh nhỏ bé âm thầm, giọt dầu của sự cho đi, tiêu hao vì bổn phận. Có thể đó là dầu của những trái ý, những giằng xé trong tâm hồn khi phải đối diện và chọn lựa giữa điều tốt và điều xấu. Giọt dầu đó phải được châm vào mỗi ngày, bền bỉ và tha thiết trong cầu nguyện, tận tụy và vẹn tròn trong bổn phận. Giọt dầu ấy có thể khô cạn vì những đam mê của tính xác thịt, vì những ươn hèn do bản tính yếu đuối mỏng dòn của thân phận con người nhưng nếu không có nó chúng ta sẽ bị loại khỏi Nước Trời.
Người Kitô hữu chúng ta được mời gọi trở thành người khôn ngoan trong ý nghĩ, lời nói và hành động. Muốn chiếm được Nước Trời, chúng ta phải từ bỏ thái độ sống ươn hèn, không sống buông thả và dễ dãi chiều theo những lời mời gọi của thế gian mà quên đi bổn phận hàng ngày. Chỉ có con tim yêu mến Chúa Giêsu chúng ta mới vượt qua được những lời mời mọc của thế gian mà sống cho những giá trị Nước Trời.
Thật vậy, người tín hữu hôm nay, vì quá mải mê công việc trần thế, mà quên lãng việc chuẩn bị dầu đèn của mình, cũng sẽ bị chung số phận như các cô trinh nữ khờ dại.
Bởi vậy, mỗi Kitô hữu hãy nhìn vào gương của các cô trinh nữ khôn ngoan, luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Chúa đến bất ngờ. Còn ta có biết chuẩn bị dầu đèn đủ hay không, tùy vào thái độ của ta.
Ta thấy hằng ngày, nhiều tín hữu rất siêng năng đi lễ, đọc kinh mân côi nhiều chuỗi, hy sinh làm việc tông đồ, bố thí cho người nghèo khổ hết sức quảng đại, ... Những điều  đó rất tốt, đáng trân trọng.
Tuy nhiên, còn rất nhiều bổn phận chúng ta phải chu toàn:  Chúa muốn chúng ta có thái độ khôn ngoan của năm cô trinh nữ biết chuẩn bị dầu đèn đầy đủ. Thái độ khôn ngoan đích thực mà chúng ta cần trang bị cho tâm hồn mình, đó là: -Sống đức tin, cậy, mến Chúa, -Sống yêu thương, phục vụ như Chúa, -Sống từ bỏ và biết chết đi chính mình, -Và chu toàn việc bổn phận trong gia đình, trong giáo xứ, trong Hội Thánh và xã hội.
Muốn sống khôn ngoan theo Tin Mừng, chúng ta cần tới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, vì Ngài là chính sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Chúng ta chạy đến với Chúa Thánh Thần và kêu xin Người trợ giúp, để chúng ta biết lượng giá các sự việc, biết chọn lựa và biết sống theo Tin Mừng.
Chúng ta khôn khéo việc đời, nhưng lại chậm trễ trong việc sống đạo. Trong cuộc sống hôm nay, sống khôn ngoan theo Tin Mừng quả là khó!
Xin cho chúng ta đừng mải mê chuyện đời thế sự mà quên đi bổn phận làm con cái Chúa. Xin cho chúng ta luôn tỉnh thức chờ đợi với hy vọng được vào dự tiệc hoan lạc trên Nước Trời

 

Thứ Bảy tuần XXI TN
Mt 25, 14-30

HÃY QUẢNG ĐẠI
Thiên Chúa cho ta nhiều hơn những gì ta xin. Ngài cho một cách quảng đại, không xẻn so tính toán. Và Chúa cũng dạy ta hãy cho đi như vậy. Dụ ngôn ông chủ và những nén bạc một lần nữa minh chứng cho lòng quảng đại của Thiên Chúa.
Thiên Chúa trao cho mỗi người số nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít. Nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là cách mỗi người xử dụng những nén bạc đó. Bởi thế người đã lãnh năm nén và người đã lãnh hai nén mà xử dụng tốt đều được thưởng như nhau, là “vào hưởng sự vui mừng của chủ”. Cách xử dụng tốt những nén bạc là làm cho chúng sinh lời. Làm cho chúng sinh lời không hệ tại số lượng nén bạc được gia tăng, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ: người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.
Chúng ta cũng có thể hiểu nén bạc là đức tin. Đức tin được ban cho chúng ta một cách nhưng không, nhưng không bởi vì chúng ta có được đức tin mà không do bất cứ công lao nào của chúng ta. Một niềm tin được chia sẻ là một niềm tin sống động, trái lại một niềm tin chôn cất sẽ là một niềm tin bị mai một và chết dần. 
Trước khi có việc đi xa, ông chủ gọi các đầy tớ đến và trao cho họ những nén bạc. Người năm nén, người hai nén, người một nén. Với số vốn ban đầu, mỗi người đều có cách riêng làm cho nén bạc đó sinh lời. Thế nhưng trong số họ, có người không biết sinh lời đã đem chôn nén bạc xuống đất và còn phiền trách ông chủ hà khắc. Ông chủ phán xử bằng cách “ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi”. Mới nghe qua câu chuyện, ta sẽ cho rằng ông chủ này thật bất công, nhưng có lẽ đó mới là ông chủ nghiêm minh và công bình.
Ông chủ này giao phó cho người đầy tớ thứ nhất năm nén bạc, người thứ hai hai nén, và người thứ ba một nén. Trong thời gian ông chủ đi vắng, ba đầy tớ này phải làm cho những tài sản này sinh lợi. Người đầy tớ thứ nhất và thứ hai, mỗi người làm lợi gấp đôi số vốn được trao ban đầu; tuy nhiên, người thứ ba, vì sợ mất trắng, nên đã chôn vùi nén bạc đã nhận trong lỗ. Đến khi chủ trở về, hai người đầy tớ đầu tiên nhận lãnh được lời khen và phần thưởng, trong khi người thứ ba, thì chỉ hoàn trả lại số tiền đã nhận, nên đã bị khiển trách và trừng phạt. 
Ông chủ nói với người đầy tớ : “Khá lắm ! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (Mt 25,23)
Như vậy, chủ đã biết rõ tài năng của mỗi người. Chỉ còn xem ai tốt ai xấu thôi. Kẻ tốt sẽ trung thành với sự tin tưởng của chủ, anh sẽ hết lòng hết sức làm, không thắc mắc lương bao nhiêu ? không sợ lỗ lãi nhiều ít, miễn là cố gắng làm, hoàn toàn tín nhiệm vào lòng tốt của chủ, ca dao đã nói đúng : " Kẻ có nhân mười phần chẳng khó". Kẻ xấu, sợ khó khăn, sợ lỗ lãi, chỉ vì lười biếng hay bất phục ông chủ nên không muốn làm. Tục ngữ có câu : "Kẻ bần, trí đoản" - hạng bần tiện, trí khôn chỉ nghĩ đến những cái lợi trước mắt, những điều thiển cận, bo bo ích kỷ, không thấy được những điều cao xa hữu ích rộng lớn. Nó lười biếng, còn bất trung dám nghĩ xấu, nói đổ oan cho chủ là người keo kiệt, gặt nơi không gieo, thu nơi không vãi.
Hàng ngày chúng ta nhận lãnh từ thiên nhiên vũ trụ, từ cuộc sống nhiều hơn những gì chúng ta cho đi. Mặt trời cho ta ánh nắng ban mai ấm áp, bầu trời cho ta làn gió mát. Cỏ cây hoa lá đem đến cho ta sự tươi mới. Thời tiết tuần hoàn, vũ trụ nhịp nhàng chyển dịch đó chẳng phải là món quà vô giá mà ta nhận lãnh hàng ngày sao. Cha mẹ, gia đình, bạn hữu cho ta mối tương giao đằm thắm gần gũi. Mỗi phút giây ta sống trên đời đều gửi đến cho ta một lời nhắn nhủ thiết thân. Mỗi sớm mai thức dậy, ta có biết cám ơn cuộc đời cho ta có thêm một ngày sống để yêu thương không? Với ý nghĩa đó, hóa ra chúng ta là người rất giàu có, rất nhiều cái để cho, nhiều điều để sẻ chia với tha nhân.
Trong sách Công vụ tông đồ, thánh Phaolô viết “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). “Cho” với một xác quyết rằng chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều ân sủng từ Thiên Chúa. Những ân sủng ấy dành để phục vụ mọi người chứ không phải để ích kỷ cho riêng mình. Chúng ta đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Cho như thế không làm chúng ta nghèo nàn mất mát nhưng càng được giàu sang, được lớn lên trong tương giao với người khác.
Cho và nhận đều mang tính tuần hoàn. Điều ta cho sẽ không mất đi nhưng trở lại với những dạng thức khác mới mẻ hơn, vì rằng “trong cái mất luôn có cái được”. Thánh Phanxicô Assisi, vị thánh của sự nghèo khó nhưng lại rất giàu có. Gia tài của Ngài là Thiên Chúa, bạn hữu của Ngài là thiên nhiên vũ trụ, tinh tú trăng sao...Ngài đã nên thánh bằng cuộc sống nghèo nhưng vẫn tự do bát ngát, nên thánh với niềm xác tín rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”.
Như thế, cái chúng ta cho không chỉ là của cải vật chất mà là chính con người chúng ta. Chúng ta có thể trao cho nhau những điều rất đơn giản, sự chăm sóc yêu thương, một lời nói động viên, một cái nhìn thông cảm hay một lời cám ơn, xin lỗi...
Dụ ngôn này khuyến khích chúng ta không được che giấu niềm tin và sự thuộc về Chúa Kitô của chúng ta, không được chôn vùi Lời Chúa, nhưng phải để nó lan truyền trong đời sống của chúng ta, trong những tương quan, trong những hoàn cảnh cụ thể, như là sức mạnh nâng đỡ giữa khủng hoảng, để tinh lọc, để đổi mới. Như thế thậm chí sự tha thứ, mà Thiên Chúa đã ân ban cách đặc biệt cho chúng ta trong Bí tích Hòa Giải: đừng chỉ giữ khư khư nơi bản thân chúng ta, nhưng hãy để sức mạnh của Thiên Chúa lan tỏa, một sức mạnh giúp đạp đổ những bức tường mà cái tôi của chúng ta đã dựng lên, giúp chúng ta chủ động trong các tương quan tan vỡ, để nối lại những cuộc đối thoại ở những nơi không còn sự truyền thông... Phải làm như thế. Phải làm cho những tài năng, những món quà, những ân ban mà Thiên Chúa đã ủy thác cho chúng ta, đến được với tha nhân, lớn lên, và kết trái, cùng với chứng tá của chúng ta. 
Người quản lý trung thành không chỉ biết cất giữ tài sản của chủ, mà còn biết sinh lợi nó theo ý chủ mình. Trung thành lúc này có nghĩa là khôn ngoan, tháo vát. Chúa đòi hỏi những phẩm tính ấy khi ban cho con người những ơn huệ khác nhau trong đời sống cá nhân và xã hội. Ơn huệ ấy Chúa lại không ban một lần thay tất cả, nhưng từ ơn huệ này, ta trung thành sinh lợi sẽ đưa ta đến những ơn huệ khác liên hệ. Vấn đề không phải là chuyện được giao nhiều hay ít “yến bạc,” mà là tấm lòng yêu mến và trung thành của mỗi người đối với Thiên Chúa, và với tấm lòng ấy, mỗi người sẽ sinh lợi cho Ngài như thế nào. Phần thưởng chủ dành cho tôi tớ trung tín ấy là được Chúa tín nhiệm và giao phó nhiều tài sản lớn hơn trong Nước Chúa. 
Thiên Chúa đã tin cậy chúng ta, Thiên Chúa hy vọng nơi chúng ta. Và đây là điều như nhau cho tất cả. Đừng làm cho Người thất vọng! Đừng để mình bị lừa dối bởi sợ hãi, nhưng hãy đáp lại sự tin cậy bằng sự tin cậy! Đức Trinh Nữ Maria là hiện thân tiêu biểu của thái độ này với một cách thức viên mãn và đẹp đẽ nhất. Mẹ đã nhận lãnh và đón tiếp tặng phẩm tuyệt vời nhất, Đức Giêsu làm Người, và đến lượt mình Mẹ đã tặng ban cho loài người Chúa Giêsu với cả con tim quảng đại. Hãy van nài Mẹ phù giúp chúng ta trở thành “những đầy tớ tốt lành và trung tín”, để xứng đáng vào hưởng “niềm vui của Thiên Chúa chúng ta.”
HUỆ MINH