dongcong.net
 

 

 
CHIA SẺ TIN MỪNG
 
 
Alphonse Marie Trần Bình An
 
<<<    

Chia sẻ Tin Mừng CN 3 PS NC (Ga  21, 1-19)

Chia sẻ Tin Mừng CN 3 Phục Sinh 2016 (Ga 21, 1-19)

Hãy theo Thầy!

Từ thuở có trí khôn đến nay, tôi xác định mình là con của một gia đình đạo gốc. Tôi được học từ bé ở một trường Công giáo do các Sơ phụ trách. Tất cả các chị em tôi cũng đều được học như tôi. Cuộc sống đức tin của mình cứ xuôi chèo như thế lâu dài: đi lễ ngày Chúa Nhật, xưng tội mùa chay. Cùng với niềm say mê hát xướng, tôi đã gia nhập vào ca đoàn nhiều năm, hát vì thích nhạc đạo và vì thích được hát, chưa ý thức rằng hát là để ca tụng Chúa.

Tôi đã lập gia đình với một người cũng có đạo gốc như tôi và còn là con nhà một “Ông Trùm“ có nhiều con đi tu. Cuộc sống cứ trôi đi tự nhiên, như dòng nước chảy. Rồi dần dần sự mai một đức tin cứ lớn dần theo thời gian. Tôi còn bị tác động thêm bởi các bất bình, bất mãn cuộc đời xảy đến. Cái ung nhọt mất niềm tin vào Chúa lớn dần, đến mức độ tôi tự thấy xa hẳn Hội Thánh. Tôi đã bỏ đạo trong suốt 15 năm, thưa thớt dần dần bỏ lễ Chúa Nhật, không xưng tôi, rước lễ và cả không tham gia sinh họat giáo xứ! Cuộc sống không có Chúa cứ thế diễn ra, khiến cho mẹ ruột tôi và bố mẹ chồng rất buồn. Các cụ nói xa rồi lại nói gần về sự bất hạnh nếu xa rời Chúa, tôi bất cần ! Tôi lại càng cảm thấy mình đúng khi đã cắt tỉa đi những rườm ra hình thức tôn giáo, mà tôi cho là giả tạo, mê hoặc con người. Thậm chí tôi còn nghĩ rằng tôn giáo là liều thuốc an thần cho nhân loại. Cũng như tôi đã thầm trách nền giáo dục Công giáo, đã làm cho tôi cảm thấy mất tự do. Thọát ra khỏi vòng kềm toả tôn giáo, tôi cảm thấy rất vui sướng vì khung trời tự do thoải mái sống hưởng thụ. Hơn nữa, tôi còn tự biện hộ rằng mình vẫn sống đạo làm người, yêu thương đồng lọại, giúp đỡ tha nhân chung quanh. Tôi đã khóc cười với những người anh em và tự mãn mình đã làm đúng, làm đủ bổn phận con người.

Bất ngờ, con gái tôi bỏ nhà ra đi. Tôi đau khổ khóc thầm. Trải qua bao đêm mất ngủ, tôi hóa ra ngây dại, mất hết mọi cảm giác. Tôi vẫn đến cơ quan làm việc, nhưng không còn một chút hăng hái nào, mà máy móc như con rô bô. Tôi hụt hẫng tột độ. Tôi đã muốn chết vì thương nhớ con. Tôi thất vọng cái kiếp người tràn đầy bi kịch! Gia đình tôi trở thành bãi chiến trường không đổ máu, nhưng lại đổ lệ đầy thương đau! Tôi lại càng thêm oán giận cuộc đời. Điên cuồng chống lại tất cả. Chưa bao giờ gia đình tôi lại sóng gió đến thế! Chính lúc đau khổ đó, Chúa đã đến với tôi, ban lại niềm tin. Ngoài Chúa ra, chẳng còn ai cứu nổi gia đình tôi! Tôi bỗng nhiên nhớ ra, vững tin rằng: “Những gì không thể được đối với loài người, thì đều có thể được đối với Thiên Chúa.“ (Lc 18, 27)

Từ sự cố con gái, Chúa đã dẫn tôi trở về. Hơn nữa, Ngài còn dẫn cả gia đình tôi thật sự trở về. Cứ lần theo con đường để trở về, chúng tôi đã gặp Chúa. Thì ra bấy lâu này, Ngài thầm lặng chờ đợi tôi. Ngài vẫn hằng yêu thương tôi, Ngài đã cho tôi một thể nghiệm của Người Cha mất con đau đớn như thế nào. Tôi đã thật sự khổ sở và sâu xa hối hận. Tôi bước qua nhiều chặng đường trong sự trở về, như một khám phá mới. Tôi cứ phải lột dần những rào cản của cuộc sống đi hoang đã thành nếp. Chúa đã lôi kéo tôi, chồng tôi, con tôi, trên bước đường trở về, vội vã cứ y như là chạy vậy! Hiện nay gia đình tôi bỗng đổi khác tận gốc rễ. Từ ngày Chúa “chạm” tôi, Chúa “chạm” chồng con tôi, chúng tôi liền thấy mình được thoát ra khỏi vòng vây hãm của khổ đau và những mâu thuẫn, như không thể khắc phục được. Nay chúng tôi được dễ dàng thương yêu nhau, vì có Chúa ở trong và ở bên tôi.

Từ khi hai vợ chồng tôi cùng đến cầu nguyện và gia nhập nhóm Thánh Kinh Cầu Nguyện. Chúa đã “chạm” mạnh vào gia đình tôi và hiện nay vợ chồng tôi đã được nhận chìm trong Đức Kitô. Cả gia đình tôi đã cảm nhận được hạnh phúc thật sự. (theo Maria Vũ Kim Hồi, Chúa Giêsu đã biến đổi đời con, Thanhlinh.net)

Sau bao năm xa rời đức tin, chị Maria đã tìm lại Chúa, nhờ sự cố con gái bỏ nhà đi. Chị không ngờ Chúa Giêsu vẫn liên lỉ quan tâm, chờ đón gia đình chị trở về đoàn tụ trong Lòng Thương Xót. Cũng như xưa các môn đệ đâu thể nào ngờ Chúa Phục Sinh, vẫn còn chờ đón vỗ về họ, sau một đêm chài lưới hoàn toàn vô vọng.

Tim Mừng hôm nay, thánh sử Gioan tường thuật Chúa Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tébériade, với bữa sáng sẵn sàng phục vụ. Sau một đêm vất vả, trắng tay, Chúa Giêsu hiện ra hỏi thăm, chỉ chỗ thả lưới hiệu quả, mà không một ai nhận ra Người.

Nhận ra Chúa

Ông Phêrô và các bạn chài đều nhìn thấy, đều nghe thấy Người đang đứng trên bờ Biển Hồ lúc tảng sáng, hỏi thăm họ đánh cá. Vâng lời Người, họ thả lưới bên hữu thuyền, liền bội thu. Thế mà chỉ có ông Gioan, ngạc nhiên khám phá ra Người, chính là Chúa Giêsu Phục Sinh, liền thầm thì tiết lộ cho ông Phêrô: “Chúa đó!”

Tương tự tại “ngôi mộ trống,”cũng chỉ duy nhất một mình ông Gioan thấu đáo hiểu dấu chỉ Người đã sống lại, qua khăn che đầu và băng vải xếp gọn ghẽ. Chắc chắn chân dung, vóc dáng, lời nói của Người hẳn đã hằn sâu, in đậm nét trong lòng, cũng như trí nhớ Người môn đệ Chúa yêu, chẳng thể nào phai nhoà đi. Như vậy, một lần nữa, nhờ con tim mách bảo, linh cảm, nhờ lửa mến nóng bỏng, môn đệ Gioan đã kịp thời nhận ra Thầy Chí Thánh.

Lửa mến xua tan màn đêm tăm tối, tội lỗi, u mê, đốt cháy chướng ngại vật che chắn, vật chất, tiền tài, danh vọng, vượt qua cám dỗ vị kỷ, chia rẽ, dao động, nghi kỵ, phân hoá. “Chúa đó!” một khám phá tuyệt diệu chỉ dành cho một tình yêu bén nhạy, bền bỉ, sâu đậm, trung thành và viên mãn. “Chúa đó!”một lời giới thiệu tràn trề vui mừng và hy vọng! “Chúa đó!” một tiếng reo khải hoàn, vì được cứu thoát khỏi khốn khổ, thử thách, thất bại, lẫn thất vọng.

Đến với Chúa

Lần này, môn đệ Gioan ắt hẳn kính lão đắc thọ, không dám xớn xác, tuỳ tiện, như hôm chạy đua marathon ra ngôi mộ trống, bỏ xa lắc ông Phêrô tội nghiệp, lẹt đẹt theo sau. Mặc dầu ông Gioan rất phấn khích, sốt ruột, mong mau được gặp lại Chúa Phục Sinh, nhưng cũng phải dằn lòng, dành ưu tiên cho vị tiên chỉ Simon Phêrô nhảy xuống nước, bơi vào diện kiến Đấng Phục Sinh trước.

“Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.” Không ngần ngại bỏ tất tần tật, bạn chài, thuyền lưới, cá mú, ông Phêrô tức khắc nhảy ra khỏi thuyền, bơi vào gặp Chúa ngay. Một hành động tích cực cao độ biểu lộ tâm hồn khao khát Chúa, tâm hồn từ bỏ chức tước, danh vọng, tiền tài, của cải, tâm hồn sẵn sàng, tỉnh thức, chạy đến với Chúa. Nhất là sau một đêm hì hục, miệt mài, vất vả chài lưới trắng tay. "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng." (Mt 11, 28-30)

Đi theo Chúa

Dù trên bếp hồng, đã sẵn sàng cá nướng thơm nồng, hoà quyện mùi bánh mới hấp dẫn, Đức Giêsu vẫn yêu cầu các môn đệ đóng góp thành quả vừa đánh bắt được: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!” Rồi Người tiếp tục phục vụ các môn đệ: “Anh em đến mà ăn!” Sau khi ăn xong, Người mới trang trọng phỏng vấn ông Simon Phêrô về tình yêu tối thượng dành cho Người.

Ba câu hỏi lập đi lập lại:“Này anh Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Gọi ngay tên cúng cơm, chính xác con ai, Đức Giêsu thân mật đòi hỏi một tình yêu tận hiến agapé trọn hảo, chứ không dừng lại tình yêu huynh đệ philia thường tình. Bởi vì, “Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi!” Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó.” (Mc 12, 29-31)

Sau ba lần xác nhận tình yêu dâng hiến, ông Simon Phêrô được Chúa mời gọi: “Hãy theo Thầy!” Đồng thời giao cho ông trọng trách phục vụ đoàn chiên: “chăn dắt” và “chăm sóc.”Vừa hướng dẫn vừa nuôi dưỡng như vị mục tử nhân lành,“thấm đẫm mùi chiên,” chứ không phải cất nhắc lên ngôi cai trị, hay chiếm hữu.

Như vậy, ai muốn đi theo Chúa thì nghe và thực hành Lời Chúa: Mến Chúa, yêu người và phục vụ tha nhân. Không riêng gì các đấng bản quyền, mà tất cả con chiên, giáo hữu muốn theo Chúa, cũng đều phải tuân giữ nghiêm nhặt hai điều này.

“Chúa hiện diện bên con, không phải chỉ là một tâm tình, nhưng Chúa phải chiếm hữu cả con người con, hướng dẫn, yêu thương, an ủi con.” (Đường Hy Vọng, số 241) 

Lạy Chúa Phục Sinh, xin mở mắt, mở tai, mở lòng chúng con luôn nhận ra Chúa trong từng anh chị em chung quanh, để yêu thương và phục vụ. Xin thúc đẩy chúng con năng hạnh ngộ cùng Chúa trong bí tích Thánh Thể, để luôn được Chúa hâm nóng lửa mến, hầu luôn được sống kết hiệp cùng Người trong mọi lúc, mọi nơi.

Lạy Mẹ Maria, chúng con khấn xin Mẹ giúp chúng con thấu hiểu những dấu chỉ của Chúa gửi đến, để vâng theo Thánh Ý Chúa trong suốt cuộc đời ba đào, gian lao, vất vả, hầu gặt hái được thành quả đáng mừng, như mẻ cả bội thu của các môn đệ. Amen.

AM. Trần Bình An

 

Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi
phục sinh 3 c - 2013

Tàu Titanic dài 269 m và rộng 28 m. Trọng tải 46.328 tấn, và chiều cao từ mặt nước tới boong tàu là 18 m.Titanic có thể chở tổng cộng 3.547 người, gồm cả thủy thủ đoàn. Vào đầu thế kỷ 20, Titanic được coi là một đỉnh cao của  kiến trúc hàng hải, một tiến bộ công nghệ vượt bực, mà tạp chí The Shipbuilder tấm tắc ca ngợi là con tàu "không thể chìm".

Tàu bắt đầu được đóng vào năm 1909  và được hạ thủy năm 1912. Là con tàu lớn, hiện đại, lộng lẫy và sang trọng nhất lúc đó, Titanic mang theo tham vọng thống trị tuyến đường biển xuyên Đại Tây Dương của công ty sở hữu nó, hãng vận tải biển The White Star Line. Tuy nhiên, trong chuyến vượt Đại Tây Dương đầu tiên và cũng là cuối cùng của nó vào tháng 4 năm  1912, Titanic đã đắm do đâm vào một tảng băng trôi, khiến hơn 1.500 người tử nạn. Vụ đắm tàu này đã đi vào lịch sử như là vụ tai nạn hàng hải nghiêm trọng nhất trong thời bình. (Wikipedia)

Tuy nhiên, con thuyền đánh cá mong manh của ngư phủ Phêrô và quý đồng nghiệp lại ra khơi ròng rã suốt 21 thế kỷ. Đến nay vẫn đang tiếp tục phiêu lưu cùng Chúa Giêsu. Thuyền vẫn hăng say lướt song, dù trải qua biết bao phong ba bão táp. Đó chính là con thuyền Hội Thánh đầy thánh thiện, tình yêu và phục vụ.

Con Thuyền Thánh Hóa

Nhọc nhằn, mệt mỏi thâu đêm, tất cả sáu môn đệ theo thuyền trưởng Phêrô lão luyện, đều phờ phạc trắng tay. Nhưng khi các ông tuân theo Thánh Ý Chúa, thả lưới xuống bên phải mạn thuyền, thì không sao kéo nổi, vì lưới đầy những cá. (Ga 21, 6) Mặc dù trời đã sáng, không còn là thời điểm thích hợp đánh cá, theo như luật tự nhiên. Nhưng Thiên Chúa quyền năng và siêu việt, không hề bị những quy luật của tạo vật chi phối.

Sau khi ĐGH Biển ĐứcXVI từ nhiệm, giới truyền thông quốc tế đua nhau dự đoán người kế vị qua danh sách 10 vị Hồng Y nổi danh. Thậm chí, họ còn tung ra lời tiên báo của thánh Malachi với viễn tượng thật u tối, đau buồn cho Hội Thánh. Nhưng chẳng ai có thể ngờ được rằng, Đức Hồng Y Argentina, Jorge Mario Bergoglio nhận sứ vụ kế vị thánh Phêrô thứ 266, trở thành Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Một bất ngờ thật lớn cho mọi người và toàn thể Dân Chúa, vì đó chính là tác động trực tiếp của Đức Chúa Thánh Thần trên Cơ Mật Viện, trong một thế giói đang đắm chìm vào tà thuyết duy vật và khuynh hướng tục hóa.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã tâm sự cùng các môn đệ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em .. Thật vậy, nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến với anh em” (Ga 16, 7). Như thế nhờ Đức Chúa Thánh Thần bảo trợ, Con Thuyền Hội Thánh mới có thể bền vững tồn tại, sau hơn hai ngàn năm ra khơi, dẫu luôn bị vùi dập bể dâu.

Con Thuyền Tình Yêu

Sau mẻ cá lạ lùng, Chúa Phục Sinh thân mật và ân cần chia sẻ bánh và cá với các môn đệ. Người không nhắc lại ba lần ông Phêrô phản bội chối Người, cũng như không hạch tội đã qua, mà chỉ hỏi ba lần ông Phêrô có yệu mến Người không. Ba lần ông Phêrô đều mạnh dạn khẳng định tình yêu dành cho Người. Ba lần Chúa Giêsu thương yêu trao sứ vụ mục tử, săn sóc đoàn chiên của Người. Một quyết định dứt khoát, minh bạch và công khai sự ủy quyền.

Như thế, vì yêu Chúa Giêsu thực tình, tông đồ Phêrô điều khiển, lèo lái con thuyền Hội Thánh với cả một Tình Yêu nồng nàn, chứ không phải với quyền lực thô bạo, hắc ám, phong kiến, hay độc tài theo thế gian. Di sản Tình Yêu của Chúa Giêsu được lưu truyền muôn đời và trở thành dấu ấn sáng chói của Con Thuyền Hội Thánh, vì Người đã phán: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế!” (Mt 28, 20). Sau này ông Phêrô đã chịu tử hình để minh chứng tình yêu cháy bỏng đó.

Chúa Giêsu đã tin tưởng hoàn toàn ông Phêrô, khi trao phó sứ vụ cao cả đó:  “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi…” (Mt 16, 17-19)

 

Con Thuyền phục vụ

Trước khi chịu cuộc khổ nạn, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ, kể cả người sắp mưu phản, nộp người cho quân dữ, để dạy các môn đệ biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, mà Người trao phó. Hôm nay, Chúa Phục Sinh còn đích thân làm bếp, nhóm than, nướng bánh và cá phục vụ các môn đệ, vừa đói khát đi đánh cá trở về. Người còn lên tiếng mời gọi: “Anh em đến mà ăn!” (Ga 21, 12)

Nhưng không chỉ là phục vụ trong nội bộ, mà Con Thuyền Hội Thánh ra khơi thả lưới khắp nơi, hầu quy tụ mọi dân tộc, sắc tộc, mọi người trong gia đình nhân loại vào một Giáo Hội duy nhất. Thời xa xưa, các nhà vạn vật học Hy Lạp đã thống kê tất cả có 153 loài cá trên thế giới. Như vậy, Thánh Ý Chúa muốn mời gọi mọi người trên dương gian về với Con Thuyền Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô.

“Phêrô, con là đá, Ta xây Hội Thánh Ta trên đá này, và cửa hỏa ngục mở tung không thắng nổi!” Hai mươi thế kỷ qua, bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu biến động, nội công ngoại kích, lắm giai đoạn đến mức tuyệt vọng, nhưng “Hội Thánh Chúa” không phải hội của loài người. (Đường Hy Vọng, 249)

Con tin Hội Thánh, vì Chúa Giêsu đã lập Hội Thánh, và chỉ lập Hội Thánh ấy thôi. Con đau khổ vì những bất toàn nơi bộ mặt nhân loại của Hội Thánh, nhưng con liên đới với những bất toàn ấy. Con nỗ lực để tẩy luyện và thực hiện ý Chúa Giêsu nơi Hội Thánh. (Đường Hy Vọng, 268)

Lạy Chúa, xin cho con biết yêu thương và phục vụ mọi người, để cùng hợp tác với Hội Thánh rao truyền hồng ân cứu độ.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Sao Biển dẫn dắt chúng con đang lênh đênh, lao đao, vất vả giữa giông tố bão bùng cuộc đời, luôn tin yêu vào Giáo Hội và cùng ra khơi với Con Thuyền Hội Thánh. Amen.

AM Trần Bình An ( April 7, 2016 )

 

Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Phục Sinh
CHỦ ĐỀ CÁC BÀI ĐỌC
Sau khi Đức Giêsu Kitô sống lại là đến thời gian dành cho sứ mạng của các tông đồ. 150 con cá bắt được một cách lạ lùng tượng trưng tính chất phổ quát và hoàn hảo của sứ mạng của các tông đồ và của Hội Thánh. Đức Kitô phục sinh đã ba lần trao sứ mạng cho Phêrô là: “Hãy chăn dắt các chiên của Thầy” (Bài Tin Mừng). Sau Lễ Ngũ Tuần, các tông đồ bắt đầu thực hiện sứ mạng lãnh nhận, đi rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô (Bài đọc 1). Sứ mạng không chỉ nhằm cho người ta biết Đức Kitô mà còn đưa họ đến việc tôn thờ Ngài như là Chúa và là Thiên Chúa của họ (Bài đọc 2) 

SỨ ĐIỆP NIỀM TIN
Sứ mạng của Hội Thánh.
Theo cách riêng của mình mỗi tác giả Tin Mừng đều trình bày sứ mạng phổ quát của Hội Thánh như là một phần nền tảng của sứ điệp của Đức Giêsu. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan sử dụng các biểu tượng theo cách riêng của ông. Biển, hình ảnh về thế giới, về mọi dân tộc rất quen thuộc trong thời của Đức Giêsu cũng như của tác giả Tin Mừng; Hình ảnh chiếc thuyền, ví dụ như chiếc thuyền quốc gia, cũng rất quen thuộc, ít ra là với người Hy Lạp và La Mã. Dựa trên một số đoạn văn trong Tân Ước (Lc 5, 3; Mt 8, 23; Mc 1, 17; Ga 21, 1-4) các kitô hữu tiên khởi muốn nói về con thuyền Hội Thánh. Riêng Thánh Gioan có cách dùng biểu tượng khác. Ta nói đến con số những con cá bắt được: 153 con. Theo nền văn hóa thời Đức Giêsu, con số có một giá trị biểu tượng và thường được người ta dùng. Con số 153 chỉ sự trọn vẹn, hoàn hảo. Thường người ta giải thích bằng hai cách: 1+5+3 bằng 9, bội số của 3 và nhờ đó nhấn mạnh đến cao độ của sự trọn hảo. Một cách giải thích khác về sự trọn hảo: 144 là bội số của 12; nếu ta cộng 9 với 144 ta được 153. Đây cũng là một cách để nhấn mạnh đến sự trọn vẹn. Tóm lại, sứ mạng của Hội thánh, trong biển đời, chẳng khác nào một ngư phủ đánh bắt mọi người không trừ ai, và dẫn đưa họ về bến cảng bình an của niềm tin và của đời sống vĩnh cữu.
Hình ảnh con thuyền và việc đánh cá được bổ túc bằng một hình ảnh khác: hình ảnh của người mục tử và đàn chiên. Đức Giêsu Kitô, Vị Mục Tử tốt lành, nói với Phêrô: “Hãy chăn các con chiên của Thầy”. Tiên tri Êgiêkien đã gọi Thiên Chúa là Mục Tử của dân Ítraen; Đức Giêsu cũng dùng hình ảnh này để nói về chính mình như mục tử của Hội Thánh, và giao phó cho Phêrô sứ mạng của Ngài. Người Mục Tử tốt lành chăm sóc đàn chiên, yêu thương, che chở và nuôi dưỡng chúng, bảo vệ chiên khỏi sói dữ đến độ hy sinh mạng sống mình. Sứ mạng của Phêrô và của mọi mục tử trong Hội Thánh phải lấy đó làm gương để mọi con chiên được ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Hai cách để chu toàn sứ mạng.
Trong bài sách Công Vụ (bài đọc 1), sứ mạng được thực hiện bằng việc rao giảng. Các tông đồ rao giảng Đức Giêsu Kitô, đặc biệt mầu nhiệm về sự chết và sống lại của Người, và “lưới bắt đầu đầy cá”. Việc rao giảng mang lại kết quả đến độ các nhà lãnh đạo Do Thái hoảng sợ và cho tống giam các tông đồ vào ngục. Phêrô và các tông đồ đáp lại: “Nghe lời Thiên Chúa hơn là nghe lời người đời.” Là những người đã lãnh nhận cùng một sứ mạng như Đức Giêsu, lại có thể đầu hàng sao? Có sứ mạng nào sánh bằng sứ mạng này trong cuộc đời sao? Các tông đồ cảm thấy không thể có được, và họ đã không ngại bằng mọi giá hoàn thành sứ mạng của họ.
Phương cách thứ hai rút từ sứ mạng, đó là bằng cách tôn thờ, đặc biệt là thái độ thờ phượng Đức Giêsu, Chiên Hy Tế. "Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc.” (bài đọc 2). Để sứ mạng của các tông đồ được hoàn thành, việc rao giảng phải đưa đến việc tôn thờ. Biết Đức Kitô đã chết và sống lại vì chúng ta mà không thờ phượng Người như là Chúa và là Thiên Chúa, như vậy là chưa hoàn thành sứ mạng. Tách biệt hai thực tại này hoặc quá quên lãng một trong hai điều trên thì cũng đồng nghĩa với một hình thức độc thể thuyết có tính tông đồ và mục vụ.
GỢI Ý MỤC VỤ
Truyền giáo trong cộng đồng thế giới.
Ngày nay, thế giới trở thành ngôi nhà chung. Việc truyền thông, thế giới tài chính và thế giới tư tưởng là không biên giới. Nhờ vào vô tuyến truyền hình, mọi người có thể đồng thời theo dõi bất cứ một nghi lễ nào của Đức Giáo Hoàng từ bất cứ nơi nào trên thế giới, nhờ vào mạng Internet, người ta có thể trao đổi về bất cứ chủ đề nào với các người nam nữ ở cách xa nhau hàng ngàn cây số. Với những phương tiện đó, các kitô hữu phải tiếp xúc được những người có một cuộc sống khác ta, có một lối sống khác ta, theo một tôn giáo hay những niềm tin khác ta. Hiện tượng này có thể khơi dậy một tình trạng khủng hoảng nào đó nơi các kitô hữu, điều này có thể dẫn họ rơi vào thuyết tôn giáo tương đối. Tuy nhiên, công bình mà nói, có thể đó là cơ may tuyệt diệu cho họ thực hiện sứ mạng toàn cầu của Hội thánh, trên một quy mộ rộng lớn nhất và với những phương tiện hiện đại nhất. Khi nào thì Hội Thánh có nhiều phương tiện hơn để rao giảng Đức Kitô? Có lẽ chúng ta đối diện với thách đố mạnh mẽ nhất trong lịch sử trong sứ vụ toàn cầu của Hội Thánh. Sứ vụ toàn cầu lớn lao này không chỉ dành cho một số ít các vị thừa sai thực hiện nơi những vùng chưa được phúc âm hóa; nó phải được mỗi kitô hữu chúng ta thực hiện, ngay từ nhà riêng của tôi, văn phòng của tôi. Phải hiểu rõ rằng sứ mạng toàn cầu của Hội Thánh đòi mỗi kitô hữu sống niềm tin của mình, và sẵn sàng giải thích niềm tin cho bất cứ ai cần hỏi, trên đường phố, trong văn phòng hay trên mạng Internet.
Thực hành việc tôn thờ Thánh Thể.
Tôi nghĩ rằng trong những thập niên vừa qua, việc tôn thờ Thánh Thể đã giảm sút nơi người tín hữu. Có nhiều nhấn mạnh đến cộng đoàn phụng vụ mà ít để ý đến Đấng mà cộng đoàn quy tụ xung quanh. Rồi tính chất lễ hội của các bí tích được làm nổi bật hơn là lòng tôn thờ. Thỉnh thoảng cũng nhấn mạnh vài điểm như Đức Giêsu Kitô là người bạn, người thầy và người mẫu mực cho ta, trong khi đó hình ảnh Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Thiên Chúa của ta lại bị lãng quên. Những lý do này hay khác đã làm giảm thiểu ý thức lòng tôn thờ của người kitô hữu. Khởi đầu thiên niên kỷ thứ ba, đặt mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Lời làm trung tâm điểm, là cơ hội thuận tiện cho ta canh tân và tái khám phá tinh thần tôn thờ đối với Đức Giêsu Kitô. Sách Giáo Lý dạy: “Để đào sâu đức tin vào sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể, Hội Thánh coi trọng việc thinh lặng tôn thờ Chúa đang ngự trong Mình Thánh.” (số 1379). Ý thức về sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô trong Mình Thánh cần phải được chấn hưng và làm sống động lại. Nơi số 2145, Sách Giáo Lý viết tiếp, “Việc rao giảng và huấn giáo phải được thực hiện trong tinh thần thờ phượng và tôn kính đối với Thánh Danh Đức Giêsu Chúa chúng ta.” Các giáo lý viên và những nhà rao giảng phải suy niệm điều này! Để có thể tự đổi mới, thế giới cần một Hội Thánh có tinh thần tôn thờ hơn.
Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê chuyển ngữ


+++
Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Phục Sinh
                 Chúng tôi là chứng nhân các lời đó cùng với Thánh Thần
Cả ba bài đọc của chúa nhật hôm nay vẫn còn đượm nét niềm vui Chúa phục sinh. Bài đọc thứ nhất nói lên niềm xác tín của các tông đồ khi tuyên bố sự phục sinh của Đức Kitô, Ngài là con Thiên Chúa và chính Đức Chúa Cha đã phục sinh Con chí ái của Ngài. Điều này bây giờ chúng ta cho là hiển nhiên và không có gì phải bàn cãi nữa. Nhưng vào thời buổi đó thì thật là hết sức quan trọng và không bao giờ các vị tư tế cũng như biệt phái thời đó chấp nhận được. Họ có thể chấp nhận một người từ cõi chết sống lại (thí dụ trường hợp Lazarô em của Matta) dù khó tin nhưng còn có thể hiểu được... đàng này nói "ông ta" là Con Thiên Chúa thì là phạm thượng vô cùng và đi ngược lại với tất cả niềm tin của Do Thái về một Thiên Chúa duy nhất... dù cho đến ngày nay họ cũng không thể chấp nhận điều này. Như thế việc rao giảng "tín điều" mới này cũng không phải là dễ đối với các tông đồ thời đó, cho nên các ngài đã tuyên bố: "Chúng tôi là chứng nhân các lời đó cùng với Thánh Thần". Nếu có Chúa Thánh Thần thì không thể nói là chúng tôi đã "rượu vào lời ra" và dù có bị cấm cách, đánh đòn, tra tấn đến đâu đi nữa thì chúng tôi vẫn "phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta".
- Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng và thiên tính: thánh Gioan là vị tông đồ của tình yêu cũng là người sống lâu nhất của nhóm 12 đã từng được chứng kiến tận mắt những gì đã xẩy ra ngay từ đầu trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu cho đến khi ngài bị kết án, sống lại, lên trời... thì chắc chắn nhân chứng của ngài về "thiên tính" Đức Kitô phải có một nền tảng và giá trị vững chắc hơn ai hết. Cũng như các con chiên vẫn hiến tế mỗi ngày trong đền thờ Giêrusalem mà ai cũng nhìn nhận thấy tận mắt, thánh Gioan đã dùng hình ảnh này để diễn tả thật thâm sâu mầu nhiệm cứu chuộc của Đức Kitô. Thời đó dân chúng biết rằng Do Thái giáo không "sát tế" sinh mạng con người nữa như thời Abraham-Isaac mà họ thay thế vào đó là những con vật (chiên bò) hiến tế thay cho chính mạng sống con người (là dân chúng). Dù hy lễ là người hay chiên bò thì máu vẫn là biểu tượng của sự sống, chỉ có một mình Đấng Tạo hóa mới có quyền trên sự sống mà thôi... vì thế không ai có quyền diệt sự sống nơi anh em mình và cũng không có quyền tự diệt sự sống nơi chính mình và cho đến ngày nay: giết người, tự tử, phá thai vẫn là một trọng tội trong Do Thái giáo... Cho nên bấy giờ, theo thánh Gioan, chính Đức Kitô cũng như một con chiên vô tội đã chấp nhận bị "sát tế" thay cho toàn dân và cả nhân loại để làm "của lễ toàn thiêu" dâng kính Đức Chúa Cha thì chắc chắn rằng của lễ này sẽ là của lễ toàn thiện, toàn hảo nhất và cũng làm đẹp lòng Đức Chúa Cha nhất.
- Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn... tôi vẫn còn nhớ cách đây 22 năm khi còn đang nằm bãi Vũng Tầu chờ thời ra đi vượt biển: rất giống cảnh hôm nay trong Phúc âm... Chưa đến 5 giờ sáng khi trời còn tối lắm thì đã nghe tiếng các bạn chài gọi nhau ơi ới, tiếng của những người rao bán hoặc đi mua tôm cá thật sớm... Cũng thế hôm nay có một "chàng nghệ sĩ" tóc phủ vai đang ung dung ngồi nướng cá và bánh; trong ánh lửa chập chờn các bạn chài của anh chưa nhận ra anh ngay và đang táp thuyền vào bờ với những tiếng thở dài mệt nhọc vì cả đêm họ chả được con cá nào... Không có cá thì lấy gì mà điểm tâm đây vì thế họ vẫn chưa muốn vào bờ. Chàng bảo họ hãy thả lưới bên phải... thế là họ trúng mối được đầy thuyền ca và cùng lúc đó họ cũng nhận ra chàng chính là Đức Kitô, vị sư phụ trẻ đã tuyên bố là Ngài sẽ sống lại từ cõi chết trước khi trước khi bị kết án trên thập giá. Đúng là Ngài chăng? Nhưng không một ai dám hỏi điều đó. Nhưng Chúa Giêsu đã đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn sau khi đã đọc lời chúc tụng... và tất cả các môn đệ đã nhận ra Ngài.
Xin Đức Kitô phục sinh ban cho chúng ta một niềm tin vững vàng nơi Ngài dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào trong cuộc sống tha hương này cũng như biết và nhận ra Ngài trong mỗi người anh chị em chúng ta dù họ là bần cùng khó nghèo nhất trong xã hội.
Lm. Joseph Vũ Mộng Thơ


+++
Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Phục Sinh
NIỀM VUI PHỤC SINH
Theo một số các nhà chú giải, chương cuối cùng trong Tin Mừng thứ tư là phần bổ túc từ một bàn tay khéo léo nào đó trong các môn đệ của Thánh Gioan. Bởi vì không lý nào với những lời từ biệt kết thúc ở chương 20 -- "Các điều đã viết đây, là để anh em tin rằng: Đức Giêsu chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa; và bởi tin thì anh em được có sự sống nhờ danh Ngài" (Ga 20:31) -- rồi sau đó vị thánh sử lại từ biệt thêm một lần nữa-- "Còn lắm điều khác, Đức Giêsu đã làm, nếu viết lại từng điều thì thiết tưởng thế gian không đủ chỗ mà chứa sách viết ra (Ga 21:25).
Tác giả của chương cuối này trình thuật câu chuyện các môn đệ Đức Giêsu đang lâm cảnh "rắn mất đầu." Còn chừng bảy người đang ở với nhau. Sau hôm Thầy chết, họ trở nên buồn phiền, chán nản. Bao nhiêu kỳ vọng đã tan thành mây khói. Nhớ lại quá khứ: bỏ hết tất cả rồi! Nhìn vào tương lai: băn khoăn chẳng có chi. Rồi đây biết tựa vào ai? Đi đâu? Làm gì? Bao câu hỏi chờn vờn tâm trí các ông.
Nhiều người đã rời Giêrusalem trở về quê cũ. Lòng kẻ ở lại trĩu nặng ê chề. Chẳng ai buồn nói chuyện. Trong bầu khí tang tóc u trầm đó, một quyết định vang lên: "Tôi đi đánh cá." Phêrô đã thốt lên câu nói đó.
Thế rồi ông được anh em phụ hoạ: "Chúng tôi cùng đi với ông." Tất cả cùng lên thuyền ra khơi. Đêm đen mịt mù như lòng của họ. Gió lạnh, sương rơi, sóng trào, cả bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn. Nhưng đâu còn gì hơn nữa ngoài việc cật lực tung lưới kiếm cho được ít cá để sống qua ngày.
Thế nhưng, dù vất vả đánh vật với sóng gió của biển khơi, "đêm ấy họ vẫn không bắt được gì" (Ga21:3). Hoá ra, dù có trong tay phương tiện đánh cá, dù đã hăng hái nhất trí cùng nhau, và dù hao công tổn sức cách mấy, nhưng nếu không có Đức Kitô Phục sinh, chắc hẳn kết quả chỉ là một nỗi thất bại ê chề. Song, một khi có Chúa hiện đến, thăm hỏi, hướng dẫn, lúc đó người ta mới thu được kết quả phi thường.
Phải chăng không ít hội đoàn hay tổ chức cũng từng có cùng kinh nghiệm như các người môn đệ: cũng hăng hái, đồng tâm, cũng đầy đủ phương tiện tiến bước, nhưng sao "ra khơi" nhiều lần mà kết quả thu được chẳng là bao. Có phải vì vẫn còn thiếu vắng sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh? Hay vì người ta, như các tông đồ theo Đức Kitô trước Phục sinh, còn tranh chấp ghế ngồi "bên hữu bên tả", và còn trốn chạy cả khi đối mặt với một cô... "đầy tớ"?
Kết quả của lần kéo lưới thứ hai, sau lời hướng dẫn của người-lạ trên bờ hồ, là một mẻ cá đầy ắp. Diễn tiến tiếp theo là việc các môn đệ nhận ra người-lạ đó: "Không ai trong các ông dám hỏi: Ngài là ai, bởi mọi người đều biết là Chúa" (Ga 21:12).
Cuộc tao ngộ Thầy trò bên biển hồ Tibêria được đúc kết bằng việc Đức Giêsu trao ban năng quyền dẫn dắt Giáo hội cho Phêrô. Khởi đầu mỗi lần trao năng quyền là một câu vấn đáp về lòng mến yêu: "Simon, con của Gioan, ngươi có yêu mến Ta không?"
Căn cứ vào mạch văn thì hẳn đây là lần đầu tiên Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, những người đã không yên ủi Chúa được một lời lúc Ngài chịu đau khổ đến rướm máu trong vườn Cây Dầu. Họ cũng đã bỏ Chúa chạy lấy thân khi gặp quân lính hung ác. Thậm chí còn chối Ngài lúc gặp thử thách gian nan. Thế nhưng, đứng trước những con người lỡ lầm và đầy thiếu xót đó, Đức Giêsu không hề nhắc lại quá khứ nhát hèn của họ. Ngài chẳng hỏi: "Các ngươi trốn nơi đâu?" cũng không hề trách: "Này anh Phêrô, Tôma, Giacôbê, các anh có cảm thấy xấu hổ khi bỏ Thầy và chối Thầy không?"
Trong câu hỏi của Đức Giêsu không thấy nhắc gì đến quá khứ, cũng chẳng có giận hờn trách móc hoặc ngăm đe, nhưng chỉ là hiền từ, yêu thương và trao phó. Điều kỳ lạ là khi ký thác đàn chiên cho Phêrô, Đức Giêsu lại muốn vị đại diện phải có lòng yêu mến Ngài, thậm chí còn phải yêu Ngài hơn những người khác (Ga 21:15). Thế ra không yêu mến Chúa sẽ chẳng ai có thể làm trọn trách vụ chăn chiên. Không thương Chúa hơn tất cả, người ta sẽ chẳng bao giờ trở nên người chăn chiên đích thực. Có chăng chỉ là hạng chăn thuê, thấy sói đến là để đàn chiên tan tác.
Chúa gặp lại các môn đệ trong bầu khí yêu thương quảng đại. Không hề có chuyện nhắc đến lỗi lầm của họ. Quá khứ đầy thiếu xót phải nhường cho hiện tại giàu thương yêu. Nhắc nhở lỗi lầm ngày xưa chỉ tạo nên rạn nứt phân ly hôm nay. Tha thứ và khoả lấp bằng lòng khoan dung nhân ái sẽ tăng sức mạnh dâng hiến trao ban tràn đầy. Đây chính là bài học quí báu cho mọi cộng đoàn và gia đình.
Trong yêu thương có thứ tha. Khi tha thứ người ta chấp nhận bỏ mình, ngang qua sự chết. Với hành trình như thế yêu thương sẽ đạt đến cao điểm của phục sinh. Bước theo Đức Kitô Phục sinh là cùng chung hành trình với Ngài. Trong đó có hy sinh, vị tha. Trong đó có thái độ chấp nhận các thói hư tật xấu và những điểm dị biệt của tha nhân với một thiện ý và một lòng mến thương thật sự. Và nhất là trong đó có niềm vui phục sinh sau lúc đã ngang qua sự chết.
Lm Bùi Quang Tuấn CSsr

++++++++++++

Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Phục Sinh
Anh Là Phêrô Nghĩa Là Tảng Đá
Chương đầu sách Tin Mừng của Gioan cho thấy nhân vật chính là Đức Giêsu được vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước giới thiệu (Ga 1,35). Kết quả là hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả liền đi theo Đức Giêsu (c.37). Hai ông này chỉ là những môn đệ đầu tiên. Tiếp theo còn có một loạt những môn đệ khác, trong số đó có ông Simon, con ông Gioan, được Đức Giêsu gọi bằng một tên đặc biệt là Kêpha (c. 42) nghĩa là "Đá!". Danh xưng này gợi ý độc giả nhớ lại lời Đức Giêsu trịnh trọng tuyên bố về vai trò Người trao phó cho khi nói: "Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực của tử thần sẽ không thắng nổi." (Mt 16,18).
Hai mươi chương sách Tin Mừng của Gioan đã cho thấy nhân vật chính là Đức Giêsu đã sống, đã hành động và đã chết, nhưng qua sự chết mà Người tự nguyện lãnh lấy, Người đã bày tỏ vinh quang của Người bằng việc Người phục sinh. Sách Tin Mừng quả thật đã kết thúc ở chương 20. Chương 21 được thêm vào để cho thấy Đức Giêsu Phục Sinh còn ở lại với các môn đệ như thế nào, đặc biệt với ông Simon, con ông Gioan, mà Người gọi là Kêpha, nghĩa là Đá Tảng. Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy thế nào là Hội Thánh được Đức Giêsu thiết lập trên ông Simon Phêrô. 

Hình ảnh sống động nhất về Hội Thánh như sách Tin Mừng của Gioan mô tả là: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho… Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được." (Ga 15,1-5).
Quả thật phần đầu của bài Tin Mừng hôm nay trình bày một số những yếu tố đã thấy trong trình thuật về mẻ cá lạ lùng mà sách Tin Mừng của Luca kể ở chương 5. Trong chương này Luca đặt ta trong bối cảnh đời sống làm ăn của dân chài hồ Galilê với một số người đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Chính lúc ấy, Đức Giêsu xuất hiện với đám đông dân chúng chen lấn nhau. Người phải xuống một chiếc thuyền để ngồi trên đó mà giảng cho dân chúng. Luca xác định rõ đó là thuyền của ông Simon (Lc 5,3).
Phêrô Hoàn Toàn Bị Khuynh Đảo Trước Mẻ Cá Lạ Lùng
Giảng xong, Đức Giêsu bảo ông Simon chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Ông liền thưa: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy tôi sẽ thả lưới." (c.5). Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Cá được chất lên hai chiếc thuyền đầy đến nỗi gần chìm (c.7). Đó là lúc Phêrô hoàn toàn bị khuynh đảo. Ông sấp mình dưới chân Thầy Giêsu mà thưa: "Lạy Chúa xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi." (c.8).
Câu chuyện mẻ cá lạ lùng nói trên hầu như được lặp lại trong bài Tin Mừng hôm nay tuy với bối cảnh khác hẳn: Ở đây Đức Giêsu sau khi đã tự nguyện lãnh lấy cái chết, Người đã sống lại. Riêng ông Simon Phêrô tuy đã chối Thầy nhưng Thầy đã không bỏ ông. Nhờ cái nhìn dịu hiền và tha thứ của Thầy nên ông đã ra ngoài, khóc lóc thảm thiết (Lc 22,62). Do đó ông vẫn còn là điểm qui tụ của các môn đệ của Đức Giêsu Phục Sinh. Do đó ông vẫn còn là điểm qui tụ của các môn đệ của Đức Giêsu Phục Sinh. Ông lên tiếng kêu gọi thì mọi người đều đáp ứng để đi đánh cá với ông (Ga 21,3). Nhưng đêm ấy Phêrô và các bạn không bắt được con cá nào (c.3). Lý do được hiểu ngầm là vì thiếu vắng Đức Giêsu trong đêm tối.
Màn Tin Mừng này bỗng trở nên khác hẳn khi trời đã sáng, với Đức Giêsu đứng trên bãi biển, cho dầu các môn đệ chưa nhận ra đó chính là Đức Giêsu (c.4). Đức Giêsu đã đi bước trước khi hỏi các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư?" Tiếp theo câu trả lời "Thưa không" của các ông, Đức Giêsu liền bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được cá." (c.6). Quả thật, các ông vừa làm theo lời Đức Giêsu dạy, lưới các ông liền đầy cá đến nỗi các ông không sao kéo lên nổi. Người môn đệ Đức Giêsu thương mến liền nói với ông Phêrô: "Chúa đó!" và Phêrô vội khoác áo vào vì ông đang ở trần, để đến với Đức Giêsu.
Điều Được Tái Xác Nhận Trước Than Hồng Cùng Với Bánh và Cá Nướng
Thế là chính Đức Giêsu Phục Sinh tái xác nhận Người sẽ can thiệp để làm cho nên trọn điều Người đã nói với ông Phêrô sau mẻ cá lạ lùng trong trình thuật của Luca là "Đứng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá." (Lc5,10; xem Cv 2,41-47). Người còn cung cấp than hồng cùng với bánh và cá nướng, làm cho các môn đệ được ấm no sau một đêm làm việc vất vả (c.13). Ở đây tiệc Thánh Thể được ám chỉ cho thấy chính Đức Giêsu, đã trở nên của ăn của uống bảo đảm cho sự sống đời đời cho các môn đệ.
Tột đỉnh của bài Tin Mừng hôm nay là việc Đức Giêsu Phục Sinh phục hồi lại tư cách môn đệ của Phêrô với ba câu hỏi đầy kịch tính. Kế đến là việc Chúa giao phó cho Phêrô nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên của Chúa (cc.15-17).
Ba Lần Bị Chất Vấn Về Tình Yêu
Ba lần Đấng Phục Sinh lên tiếng hỏi Phêrô "Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?" Ba lần Phêrô đều trả lời "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Hầu hết các nhà bình giải Kinh Thánh đều đọc thấy ở đây việc Đấng Phục Sinh giải toả tội chối Thầy ba lần của Phêrô. Phêrô được phục hồi lại tư cách môn đệ chính ông đã đánh mất khi chối Thầy. Phải là môn đệ trung thành của Chúa để làm người tông đồ cho Chúa. Phêrô không dám tự hào rằng mình yêu Thầy hơn ai. Nhờ ơn hối cải Chúa ban, ông cậy dựa vào hiểu biết của Chúa mà thôi (c.17)
Ba lần được hỏi và thưa về tình yêu của Phêrô đối với Thầy Giêsu cũng là ba lần Phêrô được giao phó việc nuôi dưỡng hoặc chăm sóc đoàn chiên của Thầy. Tại sao phải lặp đi lặp lại ba lần như vậy? Lý do vì ở Trung Đông xưa cũng như nay, người ta có thói quen nói đi nói lại ba lần trước các chứng nhân điều gì đó cần được nói lên một cách long trọng. Ở đây điều được nhấn mạnh là vai trò của Phêrô là mục tử. Vai trò ấy phải thấm nhuần tinh thần là: "Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèm, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế khi Vị Mục Tử Tối Cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát." (1Phêrô 5,2-4).
Điều rất đáng chú ý là bài Tin Mừng hôm nay được viết và được đọc nơi Giáo Hội sơ khai sau khi ông Phêrô đã qua đời tới hai mươi hoặc ba mươi năm. Điều đó cho thấy vai trò mục tử của Phêrô vẫn còn giữ nguyên tầm quan trọng dọc theo lịch sử.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn thấy điều gì nổi bật khi so sánh hai trình thuật về mẻ cá lạ lùng theo Luca 5,4-11 và theo Gioan 21,1-14? Làm thế nào để sinh hoa trái dồi dào cho đời sống Kitô của bạn?
2. Bạn nghĩ điều gì được tái xác nhận trước bối cảnh than hồng cùng với bánh và cá nướng trong bài Tin Mừng hôm nay?
3. Bạn hiểu và cảm nghiệm được gì qua ba lần Phêrô bị chất vấn về tình yêu của ông đối với Thầy Giêsu? Bạn nghĩ tinh thần của đoạn thư 1Phêrô 5,2-4 có thể được áp dụng với những người làm cha làm mẹ đối với con cái trong gia đình chăng?
Lm Augustine, S.J
+++++++++++++
Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Phục Sinh
GIÚP HIỂU CÁC BÀI ĐỌC
Bài đọc 1 (Cv 5,27-32.40-41)
Việc các Tông Đồ chữa lành cho một số bệnh nhân khiến vị thượng tế và hội đồng cố vấn của vị này nổi giận. Bị tống giam và được giải thoát cách lạ lùng, Phê-rô cùng các Tông Đồ khác lại xuất hiện và tiếp tục giảng dạy cho dân chúng trong Đền thờ. Khi bị điệu đến giữa Thượng Hội Đồng và bị vị thượng tế bắt bẻ, thánh Phê-rô đã trả lời một cách quả quyết : "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm." Đoạn văn bỏ qua một đoạn trong đó Ga-ma-li-en, một tiến sĩ luật, nhắc nhở Thượng Hội Đồng coi chừng việc làm của các ông chống lại chính Thiên Chúa. Tuy nhiên các Tông Đồ vẫn bị đánh đòn. Nhưng không gì có thể ngăn cản các ông tiếp tục giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Ki-tô Giê-su ; các ông vui mừng vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su, xác tín về đời sống chứng nhân của mình và trở nên mạnh mẽ vì Chúa Thánh Thần luôn ở cùng các ông.
Bài đọc 2 (Kh 5,11-14)
Đoạn văn mô tả một lễ nghi phụng vụ nhằm tôn kính Con Chiên, tượng trưng cho Đức Giê-su, đã bị loài người giết chết nhưng giờ đây đang chiến thắng. Hình ảnh Con Chiên gợi lên con chiên vuợt qua mà sách Xuất hành đã đề cập đến ; và nghi thức sát tế chiên vượt qua nhắc dân chúng nhớ lại lúc kết thúc thời kỳ nô lệ của dân chúng. Hình ảnh Con Chiên cũng gợi lên con chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông. Bị sát tế, nhưng từ nay đã trỗi dậy, Con Chiên được vô số các thiên thần tung hô như một vị vua và Thiên Chúa. Trên trời, bảy từ (số bảy có ý nghĩa hoàn hảo) được dùng để ca tụng sự cao cả của Người. Còn đối với mọi loài thụ tạo, thì sử dụng bốn từ. Đấng ngự trên ngai là Chúa, Đấng đưa ra lời phán xử cuối cùng và thưởng công hoặc luận tội mỗi người tuỳ theo việc họ đã làm.
Bài Tin Mừng (Ga 21,1-19)
Các chuyên viên Thánh Kinh thấy trong chương 21 Tin Mừng Gio-an công trình của một môn đệ. Quả thật, chương 20 đã kết thúc bằng một lời kết (xem Tin Mừng Chúa nhật thứ 2 Phục Sinh). Biến cố nhắc lại mẻ cá lạ lùng co Lu-ca kể lại vào lúc Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Lúc đó các môn đệ gồm bảy người sinh sống tại Ga-li-lê, nơi lao động thường xuyên của các ông. Phê-rô giữ một vai trò quyết định. Người môn đệ Đức Giê-su yêu quý thường không được nêu tên ra, nhưng ông luôn nhạy bén trong tình yêu đối với Đức Giê-su. Hai thời điểm khác nhau của việc đánh cá tượng trưng cho các giai đoạn của công cuộc rao giảng Tin Mừng. Trước tiên các môn đệ chỉ có một mình trong đêm tối, và những cố gắng của các ông trở nên vô ích. Các ông không nhận ra Đức Giê-su khi Người đến, ngay cả khi Người nói với các ông. Chỉ nhờ mẻ cá lạ lùng các ông thu hoạch được theo lệnh Đức Giê-su, các ông mới mở mắt ra.
Đức Giê-su đã chuẩn bị bữa ăn sáng cho các ông. Những từ liên quan đến bánh rõ ràng ám chỉ Thánh Thể. Các Ki-tô hữu đầu tiên xem hình ảnh con cá là tượng trưng cho Đức Ki-tô. Tác giả Tin Mừng lưu ý rằng tất cả các môn đệ đều biết đó là Chúa, nên không ai dám hỏi gì … Có lẽ con số 153 chỉ có giá trị tượng trưng, chỉ một số lượng lớn. Với Đức Giê-su Phục Sinh, công cuộc rao giảng Tin Mừng sẽ đạt được thành công mỹ mãn ngoài sức tưởng tượng của con người. Và Người dọn cho các vị thừa sai bữa ăn bồi dưỡng. Chính Người chọn người chăn các chiên của Người - ta đọc thấy điều đó trong phần thứ hai của bài Tin Mừng - Người đòi hỏi người được chọn phải có một tình yêu mãnh liệt, đồng thời cũng báo trước có nhiều thử thách đang chờ họ.
CHIA SẺ LỜI CHÚA (Bài Tin Mừng)
1. Trong khi phần lớn các câu chuyện về Phục Sinh đều diễn ra vào "ngày thứ nhất trong tuần", ở Giê-ru-sa-lem hoặc vùng ven thành phố, thì ở đây Đấng Phục Sinh hiện ra ở Ga-li-lê vào buổi sáng sớm của một ngày lao động bình thường. Cảnh tượng xảy ra bên bờ hồ Ti-bê-ri-a, nơi Đức Giê-su đã gọi các môn đệ đầu tiên của Người và hứa cho các ông trở thành những người thu phục người khác.
2. Đức Giê-su gặp lại các môn đệ thân yêu của mình giữa những lo âu thường ngày. Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nhận ra Người trước tiên, nhưng chính Si-môn Phê-rô kéo vào bờ lưới đầy cá, tượng trưng cho vo số các tín hữu. Chính Đức Giê-su chuẩn bị một bữa ăn và mời các ông chia sẻ. Các Tông Đồ và các môn đệ sau này có sứ mạng tập họp vào trong một chiếc lưới, hình ảnh của Nước Thiên Chúa, tất cả những ai sẽ nhận biết Đức Giê-su là Đấng cứu chuộc họ, Đấng Hằng Sống đang đứng trên bờ cuộc đời đầy biến động của họ và cùng đến ăn chung với họ.
3. Thay vì co cụm lại trên chính mình, Giáo Hội sẽ phải mở ra cho hết thảy mọi người. Làm thế nào Giáo Hội có thể đương đầu với những cơn lốc của lịch sử ? Phải chăng nhờ một bộ luật hoặc một nền hành chánh tỉ mỉ ? Ba câu hỏi Đức Giê-su đặt ra cho Phê-rô trước khi trao cho ông nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Người thật ra chỉ gồm một điểm, nhưng là điểm then chốt : "Phê-rô, anh có yêu mến Thầy không ?" Chính tình yêu Đức Ki-tô đã thôi thúc Phê-rô trả lời cho Thượng Hội Đồng là phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm (bài đọc 1). Khi trả lời cho vị thượng tế, Phê-rô dựa vào chứng nhân : các Tông Đồ và Chúa Thánh Thần. Đây cũng là nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Dần dần, tất cả mọi công cuộc rao giảng Đức Ki-tô Phục Sinh đều liên kết chặt chẽ với chứng từ của các Tông Đồ. Chứng từ này luôn kín múc sức mạnh thường xuyên của Chúa Thánh Thần là Đấng làm cho chứng từ của các ngài luôn mới mẻ và hợp thời.
4. Từ nay về sau, chính tình yêu can trường đối với Đức Ki-tô mới quan trọng trong công cuộc rao giảng Tin Mừng chứ không phải là cơ cấu tổ chức. Lòng trung tín thực sự - giữa những người đã vất vả suốt đêm mà không có kết quả gì - là có đôi mắt gắn chặt vào Đức Ki-tô hằng sống, hiện diện bên bờ của cuộc đời chúng ta.
Lm Ignatio Hồ Văn Xuân

+++++++
CHÚA NHẬT III MÙA PHỤC SINH, NĂM C
CHĂM SÓC ĐOÀN CHIÊN CỦA CHÚA, NHƯ CHÚA GIÊSU LÀ MỤC TỬ NHÂN LÀNH
SUY NIỆM PHÚC ÂM
Đoạn Phúc Âm có thể được chia thành hai phần, như hai câu 1 và 14 nói lên cho chúng ta biết:
- phần đầu, ( Jn 21, 1-13), tường thuật lại buổi lưới cá lạ lùng, phương cách Chúa Giêsu dùng để hiện ra cho các môn đệ lần thứ ba:
* " Sau đó, Chúa Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tiberia...
*" Đó là lần thứ ba, Chúa Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi Người trỗi dậy từ cỏi chết" ( Jn 21, 1.14).
- phần hai là phần đối thoại giữa Chúa Giêsu và Thánh Phêrô, được câu 14 vừa kể nối kết với hai lần hiện ra trước, được Thánh Gioan kể lại ở chương 20. Và ý nghĩa chính của cuộc đối thoại vừa kể được thể hiện qua ba câu hỏi và trả lời:
* " Nầy Simon, con ông Gioan, anh có mến thầy hơn các anh em nầy không?
- Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy" ( Jn 21, 15.16),
- " Hãy chăm sóc chiên con của Thầy" ( Jn 21, 15..16)
- " Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy" ( Jn 21, 17),
- " Hãy chăm sóc các chiên mẹ của Thầy" ( Jn 21, 17).
1 - Trước hết trong các môn đệ được câu 2 của đoạn Phúc Âm đề cập đến, có hai người đóng vai trò tích cực trong biến cố, đó là Simon Phêrô và " người môn đệ Chúa Giêsu thương mến":
- " Ông Simon Phêrô nói với các ông: Tôi đi đánh cá đây" ( Jn 21, 3),
- " Người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: Chúa đó! ...ông Phêrô liền khoát áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển" ( Jn 21, 7).
Một điều đáng chú ý khác là trong câu 2, hai người được Thánh Gioan đích danh đề cập đến, ngoài ra Simon Phêrô, là ông Toma và ông Natanaele.
Cả hai đều là những người tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu là Chúa.
Natanalel tuyên xưng đức tin khi Phúc Âm vừa mới khởi đầu:
- " Ông Natanaele nói: Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là vua Israele" ( Jn 1, 49), Và người kia, tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa Giêsu khi Phúc Âm kết thúc:
- " Ông Tôma thưa với Người: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con" ( Jn 20, 28).
Viết như vậy, kể lại đích danh Natanaele và Tôma trong nhóm các môn đệ, khởi đấu và kết thúc Phúc Âm, Thánh Gioan có ý mời gọi những ai đọc Phúc Âm ngài nhận ra các môn đệ được kể trong câu 2, là những người tin vào Chúa Giêsu và tuyên xưng đức tin của các vị vào Người, từ đầu đến cuối:
- " Ông Simon Phêrô, ông Tôma cũng được gọi là Didimo, ông Natanaele người Cana miền Galilea, các người con ong Zebedeo và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau " ( Jn 21, 2).
Nếu đếm lại số môn đệ được Thánh Gioan kể trong câu 2 vừa được trích dẫn, chúng ta thấy tất cả có 7 người.
Con số 7 là con số tượng trưng trọn hảo trong Thánh Kinh. Từ đó chúng ta có thể kết luận cộng đồng " hoàn hảo" các môn đệ vừa kể cũng tượng trưng cho Cộng Đồng Giáo Hội, trong đó đức tin vào Chúa Giêsu tràn ngập từ đầu đến cuối, từ Natanaele đến Tôma, từ cách xác nhận đến ba lần đức tin của Thánh Phêrô ( Jn 21, 15-17), đến đức tin " Ông đã thấy và đã tin" ( Jn 20, 8) , đến đức tin nhận biết ngay là Chúa, khiến ông phải kêu lên " Chúa đó!" ( Jn 21, 7) của người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến.
Cách diển tả hai khuôn mặt của " người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến", trực giác nhận ra các dấu hiệu của đức tin để tin ngay, " Ông đã thấy và tin" ( Jn 20, 8), và tuyên bố ngay cho mọi người biết, " Chúa đó!" ( Jn 21, 7), cũng như khuôn mặt của Phêrô, một khi nhận ra có Chúa đang hiện diện trước mặt mình liền bỏ hết và lập tức không cần suy tính, chạy ào đến Chúa, " Vừa nghe nói: Chúa đó!, ông Phêrô vội khoát áo vào...rồi nhảy xuống biển" ( Jn 21, 7).
Dù có trực giác nhận được Chúa tức khắc, hay phải mò mẫm lâu ngày mới biết được Chúa, cuộc sống đức tin là cuộc sống " Chúa đó" hay cuộc sống " ...khoát áo vào...rồi nhảy xuống biển", không cần suy tín, khi biết có Chúa ở trước mặt mình: tin cậy và phó thác!
2 - Tư tưởng kế đến chúng ta có thể suy niệm là câu nói của Thánh Phêrô:
- " Tôi đi đánh cá đây " ( Jn 21, 3).
Một vài ý nghĩ có thể gây hiểu lầm đây là câu nói quyết định của Phêrô dẹp bỏ đi kinh nghiệm làm môn đệ, theo Chúa Giêsu trong quá khứ, để trở về cuộc sống thường nhật, trở về nghề cố hữu của Phêrô lúc trước.
Những ý nghĩ vừa kể không có lý chứng. Phêrô không mất đức tin, bởi lẽ câu văn chúng ta vừa trích dẫn từ chương 21, sau những gì Phêrô được chứng kiến ở ngôi mộ trống và được Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra hai lần để trấn an, ban Chúa Thánh Thần với quyền năng tha tội và được chứng kiến tận mắt các lổ đinh và cạnh sườn bị đâm thâu, cùng chung với Toma, ở chương 20 trước đó.
Như vậy, câu nói vừa kể của Thánh Phêrô phải được hiểu là câu nói đơn sơ, nói với các môn đệ khác phải ra đi đánh cá, tìm cách để đáp ứng lại nhu cầu cuộc sống thường nhật.
Và đặt buổi lưới cá lạ lùng của đoạn Phúc Âm hôm nay trong bối cảnh đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu can thiệp cho các môn đệ lưới được nhiều cá, nói cho chúng ta biết Thiên Chúa quan tâm đến cả cuộc sống thường nhật của chúng ta.
Hay nói như Chúa Giêsu, Thiên Chúa là Cha, " ...biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin" ( Mt 6, 8).
Và cũng trong nhãn quang đó, phần cuối của buổi lưới cá lạ lùng, đoạn Phúc Âm thuật lại,
- " Chúa Giêsu cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy" ( Jn 21, 13),
nhắc lại cho chúng ta phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng đến nghe Người giảng dạy, được Thánh Gioan thuật lại ở phần trước của Phúc Âm:
- " Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý" ( Jn 6, 11).
Thiên Chúa chú tâm đến nhu cầu thường nhật của con cái Người, đồng thời với những lời Phúc Âm Người giảng dạy cho họ.
Đó cũng là gương cho người tín hữu Chúa Ki Tô phải quan tâm đến hoàn cảnh sống của anh em mình, nhứt là hoàn cảnh của những anh em đang gặp bất hạnh, cần trợ lực và khuyến khích của chúng ta.
Không có cách chăm lo cho anh em như người Samaritano nhân lành, mà Chúa Giêsu đặt câu hỏi để đánh thức cách suy tư của thầy thông thái luật
- " Vậy theo ông, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người bị rơi vào tay kẻ cướp?"
- " Chính người đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.
- " Ông hãy đi và cũng hãy làm như vậy" ( Lc 10, 36-37),chúng ta không có cách hành xử nào khác " để được sự sống đời đời làm gia nghiệp" ( Lc 10, 25).
Các môn đệ cùng dùng bửa với Chúa Giêsu hôm đó và Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại các môn đệ cảm nhận lại được mối thân tình mà các vị đã có được lúc trước, lúc Chúa Giêsu còn sống cuộc sống trần gian với mình, nên " không ai dám hỏi: Ông là ai ? ", vì các ngài biết rằng đó là Chúa" ( Jn 21, 12).
Câu nói vừa kể có lẽ được tác giả Phúc Âm ghi lại
- để nhấn mạnh đến quyền năng của Chúa Giêsu trong việc thực hiện cho các môn đệ buổi lưới cá lạ lùng, khả năng của Người đáp ứng lại các nhu cầu đòi hỏi cấp thiết của cuộc sống thường nhật con người
- và bánh được Người phân phát cho bảy môn đệ, con số hoàn hảo của Thánh Kinh, tượng trưng cho Cộng Đồng Giáo Hội, cho chúng ta ý nghĩa trọn hảo hơn, ý nghĩa đời sống thông hiệp trọn vẹn với Chúa Phục Sinh trong Thánh Thể, sống hằng ngày của Giáo Hội.
3 - Trong phần hai của đoạn Phúc Âm, cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Thánh Phêrô, hiểu một cách nào đó, là cuộc tuyên xưng đức tin để tẩy trừ đi lại ba lần Phêrô chối Chúa trong lúc Khổ Nạn:
- " Người tớ gái giữ cổng nói với ông Phêrô: Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn dệ của ông ấy sao? Ông Phêro liền đáp: Đâu phải!"( Jn 18, 17).
- " Người ta nói với ông: " Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao? Ông liền chối: Đâu phải!" ( Jn 18, 25).
- " Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phêrô chém đứt tai, lên tiếng hỏi: Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao? Một lần nữa Phêrô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy" ( Jn 18, 26-27).
Những câu Phúc Âm kế đến của Thánh Gioan không thuật lại là Phêrô hối hận, khóc lóc thảm thiết như trong Phúc Âm Nhất Lãm:
- " Ông Phêrô sực nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: Gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần. Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết" ( Mt 26, 75; Mc 14, 72; Lc 22, 61-62).
Tuy vậy, không phải Phêrô không nhận thức mình đã chối Chúa và ý thức được những yếu hèn của mình. Bởi đó, khi tuyên xưng đức tin và tình thương của mình đối với Chúa Giêsu trong đoạn Phúc Âm hôm nay, sau khi Chúa Phục Sinh, Thánh Phêrô trả lời một cách rất có ý nghĩa vừa xác tín tình thương của mình, vừa ý thức được con người có giới hạn, trong câu trả lời lần thứ ba:
- " Thưa Thầy, Thầy biết hết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy" ( Jn 21, 17).
Câu nói rất có ý nghĩa đó cho chúng ta thấy Phêrô cũng như bất cứ ai là môn đệ Chúa Giêsu không thể hoàn toàn tin tưởng vào sức mạnh, ý chí và lòng trung thành của mình, " Thầy biết hết mọi sự ": Thầy biết chúng con thương mến Thầy, hết sức muốn luôn luôn trung thành với Thầy, nhưng chúng con là những con người có giới hạn. Xin Thầy giúp chúng con. Chúng con tin tưởng vào Thầy.
Và câu nói cuối cùng của Chúa Giêsu trong đoạn Phúc Âm hôm nay, " Rồi Người bảo ông: Hãy theo Ta" ( Jn 1, 19), cũng được đặt trong nhãn quang cuộc Thương Khó và những lần chối Chúa được đề cập.
Với tính tình cương trực và bộc phát, Phêrô không chịu được những gì Chúa Giêsu tuyên đoán về ngài, về những sa ngả của ngài:
- " Thưa Thầy, sao con lại không thể đi theo Thầy ngay bây giờ được? Con sẽ thí mạng con vì Thầy!".
- " Chúa Giêsu đáp: anh sẽ thí mạng anh vì Thầy ư? Thầy bảo thật anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần" ( Jn 13, 37-38).
Giờ đây sau những gì đã trải qua, những xác nhận tình thương của mình đối với Chúa Giêsu, mặc cho ý thức về những yếu hèn giới hạn con người của mình, Thánh Phêrô được Chúa Giêsu khuyến khích: " Hãy theo Ta" ( Jn 21, 19).
" Hãy theo Ta", bởi vì giờ đây ngoài tấm lòng thành thât thương yêu thực sự, Phêrô đã ý thức được những yếu hèn con người của mình, nhứt là trước những nghịch cảnh và phó thác mình vào cánh tay Chúa, " Thưa Thầy, Thầy biết hết mọi sự " ( Jn 21, 17).
Con đường bước theo ơn gọi của người môn đệ Chúa Ki Tô không phải là con đường mà con người có thể hoàn toàn đặt tin tưởng vào khả năng khôn ngoan và nghị lực của mình, mà còn vào vâng phục thánh ý Thiên Chúa, biết nhận lãnh ân sủng của Người và sống thân tình với Chúa Phục Sinh, Đấng đã thắng tử thần, trong lời cầu nguyện và trong Thánh Thể.
Một khía cạnh khác trong các lần ủy thác cho Thánh Phêrô làm chủ chăn các con chiên, Chúa Giêsu xác nhận chiên không phải là chiên của Phêrô, mà chiên của mình:
- " Hãy chăm sóc các chiên con của Thầy...Hãy chăm sóc các chiên mẹ của Thầy " (n 21, 15.16.17).
Dù là chiên con ( Jn 21, 15.16) hay chiên mẹ ( Jn 21, 17) cũng là " chiên của Thầy".
Và vì là " chiên của Thầy", nên Phêrô phải chăm sóc chiên như chính Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành chăm lo cho chiên của Người:
- " Ta là Mục Tử Nhân Lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta" ( Jn 10, 14).
Trong chương 10 của câu Phúc Âm vừa trích dẫn, sứ mạng nổi bậc của Chúa Giêsu, Mục Tử Nhân Lành, là hy sinh mạng sống mình vì chiên.
Như vậy
- một đàng Thánh Phêrô và các vị chủ chăn nối nghiệp ngài cũng được mời gọi theo gương Chúa Giêsu, khi cần, biết hy sinh cả mạng sống mình để lo cho chiên, ngay cả khi nghịch cảnh bắt buộc mình phải hy sinh làm những gì và đi đến đâu mình không muốn, như câu 18 của đoạn Phúc Âm hôm nay gợi ý:* " ...nhưng khi về già,
anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắc lưng, và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn" ( Jn 21, 18),
- đàng khác, người chủ chăn được Chúa Giêsu ủy thác cho đoàn chiên, phải làm thế nào để các chiên của Người không thất lạc, tán loạn, phải luôn luôn bênh đở và đi tìm kiếm, để chiên vẫn luôn luôn ở cùng nhau, bên cạnh nhau trong một ràn " chiên của Thầy ".

NGUYỄN HỌC TẬP

Chúa Nhật 3 Mùa Phục Sinh Năm C
Chúa Sống Lại Sai Ði Lưới Người
(Cv 5,27-32.40-41; Kh 5,11-14; Ga 21,1-19)

- Dẫn vào Thánh Lễ:
Hôm nay là Chúa Nhật 3 Phục Sinh. Chúng ta hân hoan mừng Chúa sống lại.
Lời Chúa hôm nay cho biết Chúa sống lại hiện diện giữa chúng ta, giúp chúng ta biến thất bại trong cuộc sống nên thành công, và sai chúng ta đi lưới người như các tông đồ xưa, khi Người ban cho các ông mẽ cá lạ lùng.
Chúng ta hoan hỷ dâng Thánh Lễ. Xin Chúa phục sinh luôn hiện diện với chúng ta, giúp chúng ta thành đạt trong cuộc sống, nhất là trong công cuộc làm chứng Chúa sống lại.
- Dẫn vào bài đọc 1: Cv 5,27-32.40-41
Bài đọc sau đây cho thấy các tông đồ đã tin Chúa sống lại, sẵn sàng hy sinh làm chứng Chúa Giêsu đã chịu chết và sống lại cứu độ loài người. Các ngài còn lấy làm vinh hạnh được chịu khổ vì Chúa.
- Dẫn vào bài đọc 2: Kh 5,11-14
Trong một thị kiến, thánh Gioan thấy Chúa Kitô như Con Chiên bị sát tế, đã được tôn vinh. Thánh nhân có ý dạy chúng ta can đảm chịu khổ vì Chúa để được vinh hiển. Ðó là nội dung bài đọc sau đây.
- Dẫn vào bài Tin Mừng: Ga 21,1-19
Tin Mừng hôm nay thuật lại Chúa Giêsu Phục Sinh cho các môn đệ lưới được mẽ lưới đầy cá, để sai các ông đi lưới người, và chọn thánh Phêrô thay mặt Người chăm sóc đoàn chiên.
- Cầu nguyện cho mọi người:
Chúa sống lại giúp các tông đồ lưới được nhiều cá để sai các ông đi lưới người. Chúng ta quyết tâm theo Chúa lưới người và tin tưởng cầu xin.
1. Chúa đã chọn Ðức Thánh Cha kế vị Thánh Phêrô điều khiển Hội Thánh. Xin Chúa thương gìn giữ ngài luôn mạnh hồn khoẻ xác, để chu toàn trách nhiệm Chúa phú giao.
2. Nhờ vâng lời Chúa, các tông đồ lưới được nhiều cá. Xin cho các nhà truyền giáo luôn làm theo Lời Chúa dạy, để đạt được nhiều kết quả hơn nữa.
3. Nhiều người ngày nay kiêu căng tự đắc, cho rằng mình làm được mọi sự mà không cần Chúa. Xin cho họ biết với ơn Chúa, họ sẽ đạt được nhiều kết quả hơn nữa.
4. Các Tông Ðồ xưa hãnh diện vì được chịu khổ nhục vì Chúa. Xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta sẵn lòng chịu khổ chịu cực vì Chúa, để cứu rỗi chính mình và mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, các tông đồ nhờ có Chúa đã lưới được nhiều cá. Xin Chúa cũng luôn ở với chúng con, giúp chúng con lưới được nhiều người cho Chúa.

Gii Nghĩa Li Chúa Năm C
Những Bài Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

Chúa Nhật 3 Phục Sinh Năm C
Chúa đã dọn sẵn cho các thợ
phần thưởng ở Bến bình an
(Công vụ tông đồ 5,27-41; Khải huyền 5,11-14; Gioan 21,1-19)

Phúc Âm: Ga 21, 1-14 {hoặc 1-19}
"Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: "Simon-Phêrô, Tôma (cũng gọi là Ðiđymô), Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ khác nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.
Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi "Ông là ai?", vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.
[Vậy khi các Ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người lại hỏi: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người hỏi ông lần thứ ba: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: "Con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến". Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: "Con hãy theo Thầy".]

Suy Niệm:
Bài Tin Mừng Chúa nhật trước cho chúng ta thấy Chúa sống lại đã hiện ra một cách đặc biệt cho Tôma; hôm nay chúng ta vừa nghe đọc, Người hiện đến với Phêrô một cách đặc biệt. Nhưng cả hai lần đều phải nói, Người đã muốn đến gặp gỡ tất cả các tông đồ, tức là toàn thể Hội Thánh chúng ta. Ðược sức mạnh của Chúa Phục Sinh thúc đẩy, Hội Thánh đã sinh hoạt rất đáng ngưỡng mộ. Chúa nhật trước chúng ta thấy các tông đồ làm nhiều dấu lạ điềm thiêng, hôm nay các ngài tỏ ra quả cảm trong việc rao giảng Tin Mừng. Người ta không thể nào hiểu được những điều này nếu không tin mầu nhiệm Chúa sống lại khiến Ðức Giêsu Kitô đã trở thành Chúa và là Thiên Chúa. Bài sách Khải Huyền tuyên xưng niềm tin ấy và chúng ta nên bắt đầu với bài sách này để hiểu hai bài Kinh Thánh kia hơn.

1. Chúa Tụng Chiên Con
Vẫn thánh Gioan là tác giả sách Khải Huyền nói với chúng ta. Người viết cho Hội Thánh về những mầu nhiệm mà Người được thấy mở ra ở trên trời, tức là nơi thế giới của Thiên Chúa. Ðó là những mạc khải nhằm an ủi Hội Thánh đang bị thử thách ở trần gian.
Vậy, Gioan nhìn thấy trên trời có đặt một chiếc Ngai. và chung quanh Ngai có đông đảo thiên thần. Số họ là vạn vạn ngàn ngàn. Cảnh tượng này thật ra cũng không lạ gì. Hễ ai nghĩ về thiên quốc đều có thể diễn tả như vậy. Ðiều lạ ở đây là vạn vạn ngàn ngàn thiên thần ấy hoan hô cả tiếng: Chiên Con đã chịu tế sát. Ở thời Gioan không thiếu gì nơi và người thờ các thiên thần. Nếu không thì người ta luôn sẵn sàng nghĩ rằng dưới Thiên Chúa là đến các thiên thần, chứ chẳng có bậc nào hơn được các thiên thần. Thế mà ở đây thiên thần dù đông vạn vạn ngàn ngàn, cũng chỉ đóng vai trò thờ lạy hoan hô... ai? Thiên Chúa ư? Không, họ hoan hô chúc tụng Chiên Con đã chịu tế sát.
Chúng ta ai cũng biết Chiên Con đã chịu tế sát là chính Ðức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh, là Ðức Giêsu Kitô đã sống lại nhưng còn mang trên mình các thương tích của cuộc khổ nạn. Người đã trở thành Chiên Vượt qua của đạo mới để giải thoát dân Người ra khỏi cõi âm u tội lỗi mà đưa vào Nước sáng láng của Người. Bây giờ Người đang ở trên trời, không là Ðấng ngự trên Ngai nhưng cũng được tung hô chúc tụng như chính Ngài.
Thật vậy, tất cả những kiểu nói: quyền năng, phú quí, khôn ngoan, dũng lực, danh dự vinh quang và chúc tụng đều là những công thức qui định để tung hô Thiên Chúa. Nay vạn vạn ngàn ngàn thiên thần đứng quanh Ngai Thiên Chúa để hoan hô cả tiếng Chiên Con chịu tế sát với chính những lời quy định ấy. Ðiều này chứng tỏ Chiên Con đã được đồng hàng với Thiên Chúa. Lời chúc tụng của các thiên thần, công nhận Chiên Con là Chúa.
Mà không phải chỉ có các thiên thần, tất cả tạo thành trên trời, dưới đất, dưới gầm đất, nơi lòng biển, cùng toàn thể vạn vật nơi các chốn ấy cũng tung hô "Kính bái Ðấng ngự trên Ngai cùng Chiên Con" với những lời thánh thiện kia.
Cuối cùng bốn sinh vật tượng trưng cho tứ phương và các lão công tiêu biểu cho tất cả Hội Thánh cũng phục mình thờ lạy, làm chứng Chiên Con bị tế sát, tức là Ðức Giêsu tử nạn phục sinh, được tất cả trời đất vạn vật tôn thờ như Thiên Chúa. Tác giả Gioan nói cả đến gầm đất và lòng biển không phải chỉ để kể tên cho hết mọi nơi trong trời đất và tất cả vạn vật. Nhưng theo quan niệm ở thời của Người đó còn là thế giới của tử thần. Và như vậy Người muốn nói Ðức Giêsu Kitô tử nạn phục sinh bây giờ, cũng là Chúa của những nơi ấy, vì sự chết của Người đã toàn thắng sức mạnh của âm phủ.
Do đó bài sách Khải Huyền hôm nay là một bài tuyên xưng mạnh mẽ vương quyền cao cả của Chúa Giêsu Kitô tử nạn phục sinh. Việc tác giả nhấn mạnh đến từ ngữ "chịu tế sát" khi nói về Chiên Con chứng tỏ Người muốn cho chúng ta hiểu về giá trị thập giá của Ðức Kitô. Người đã chết, nhưng đã sống lại. Và cuộc tử nạn của Người bây giờ đang được tôn vinh.
Ðó không phải chỉ là sự chết, nhưng là sự chết đã trở thành sự sống sau khi đã chiến thắng và nắm giữ được quyền lực của thế giới tử thần. Ðiều này không làm phấn khởi lòng Hội Thánh trong khi bị thử thách sao? Niềm tin phục sinh là sức mạnh lớn nhất cho thân phận những người đang là lữ khách trần gian. Câu chuyện về các Tông đồ hôm nay còn làm chứng điều ấy.

2. Các Tông Ðồ Tuyên Chứng
Trước kia, các tông đồ là những người như thế nào ai ai cũng biết. Họ làm nghề chài lưới, ít học và rất sợ người Do Thái. Phêrô có lúc sợ cả một đứa ở gái. Thế mà hôm nay đứng trước công nghị nghe Thượng Tế cấm không được rao giảng Danh Ðức Giêsu nữa, Phêrô đã trả lời khẳng khái: Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là người ta.
Nhờ đâu đã có một sự thay đổi như vậy? Chúng ta cứ nghe Phêrô. Ông đang tuyên chứng trước công nghị, tức là cơ quan quyền lực tối cao của người Do Thái. Chính cơ quan này đã lập tòa xử án Ðức Giêsu và đã hành động để Người bị treo lên cây gỗ. Nhưng, Phêrô nói: "Thiên Chúa đã cho Ðức Giêsu sống lại". Thiên Chúa đã tỏ rõ phán quyết của Người. Người ta đã treo Ðức Giêsu lên cây gỗ; còn Thiên Chúa lại nhắc Ngài lên bên hữu Người. Vậy phải theo ai? Nhất định phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta. Thiên Chúa đã tôn vinh Ðức Giêsu, thì nhất định chúng ta phải rao giảng Danh Ngài. Mà rao giảng Ngài có thiệt hại gì ai? Trái lại, Ngài được Thiên Chúa nhắc lên làm Cứu tinh và Cứu thế. Rao giảng Ngài chỉ là để ban cho Israen ơn hối cải và tha tội.
Ðây không phải là một lời tuyên xưng cuồng tín vì lý luận như vậy thật chắc chắn. Phêrô không thể một mình làm như vậy được. Chính ông thú nhận khi nói: "Về các điều ấy, chúng tôi đây là chứng nhân cùng với Thánh Thần Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng phục Người". Ông phân biệt rõ những điều ông biết vì đã thấy, đó là việc Ðức Giêsu phục sinh từ cõi chết. Nhưng nói lên được những điều tuyên xưng mạnh mẽ sáng suốt kia, chính là công việc của Thánh Thần mà Phêrô nhận được nhờ tuân phục phán quyết của Thiên Chúa khi Ðức Giêsu Kitô đã sống lại. Và đứng trước một lời tuyên xưng như thế, người ta còn biết làm gì? Họ cho đánh đòn các tông đồ, cấm rao giảng thêm, rồi thả về. Nhưng đó là biện pháp của những kẻ đã thua. Chúng chẳng có hiệu lực gì. Chỉ đáng tức cười thôi. Thế nên ra khỏi công nghị, các tông đồ còn được thêm hân hoan vì thấy mình đã được chịu xỉ nhục vì Danh Chúa Giêsu.
Chúng ta hãnh diện về các ngài. Chúng ta tin tưởng Hội Thánh mà các ngài đã thiết lập. Bề ngoài, đây có vẻ chỉ là đàn chiên nhỏ; hơn nữa xét về mặt xã hội chẳng có gì đáng vênh vang. Nhưng trong Hội Thánh ấy có phụng vụ phục sinh, có lời tuyên xưng Chúa Giêsu đã chết và sống lại, thì đó đã là Nước Trời, đã là Thiên Quốc.
Nơi đây không phải chỉ có vạn vạn ngàn ngàn thiên thần tung hô Chiên Con chịu tế sát cùng với các tín hữu của Chúa, nhưng còn có Thánh Thần được ban xuống dồi dào cho các tâm hồn, để những kẻ vốn tầm thường trở nên những khí cụ rất giá trị cho công cuộc của Thiên Chúa. Trời với Ðất gặp nhau trong các cộng đoàn này, vì khi Hội Thánh cử hành Phụng Vụ Phục Sinh, những điều Gioan viết trong sách Khải Huyền và những điều Luca kể trong sách Công vụ rõ ràng gặp nhau. Hội Thánh ở dưới đất tuyên xưng cũng những mầu nhiệm như ở trên Trời. Và trời cao đã đổ ơn thiêng xuống để Hội Thánh dưới đất không ngừng rao giảng Danh Ðức Giêsu, Ðấng mà vạn vạn ngàn ngàn Thiên Thần trên trời không ngớt tung hô là Chiên Con chịu tế sát.
Tuy nhiên để có sự hòa hợp đó, Ðức Giêsu Kitô phải chịu chết và sống lại; và Người đã phải hiện ra với các tông đồ như chúng ta đọc trong bài Tn Mừng hôm nay. Không có việc hiện ra này, đã không có gì cả. Vì thế chúng ta cần đọc kỹ lại bài Tin Mừng.

3. Chúa Sống Lại Hiện Ra
Ngày nay, người ta đã thấy rõ chương cuối cùng (chương 21) trong tác phẩm Tin Mừng theo thánh Gioan là phần đã được đính thêm vào một quyển sách đã được viết xong rồi. Tác giả đã có lời kết thúc từ biệt (20,30-31); Không có lý do nào Người lại viết tiếp, rồi lại từ biệt một lần nữa. Nhưng vì tư tưởng và lời văn trong chương 21 này rất phù hợp với toàn tác phẩm Tin Mừng thứ tư, nên người ta nghĩ đã có một bàn tay môn đệ của Gioan đã khéo léo viết ra chương này để bổ túc một số ý tưởng mà ông cho là cần thiết. Ở đây chúng ta chỉ để ý vai trò (hay nói đúng hơn, ơn gọi) lãnh đạo của Phêrô.
Chúng ta biết trước khi Phêrô là thuyền chài. Ông có thuyền có lưới và có đồng bạn thường ra khơi đánh cá. Một hôm Chúa đã gọi ông và các bạn đi theo Người. Họ đã bỏ đồ nghề và mọi sự mà đi theo Chúa. Có phải vì họ đã thấy quyền phép của Chúa khi cho họ đánh được một mẻ cá nhiều lạ lùng như Luca kể không? Hay là như Gioan kể ở phần đầu sách, chỉ vì họ nghe tiếng Người gọi? Chắc chắn đã có hai việc: Có việc Chúa gọi các ông và có việc Chúa cho các ông bắt được một mẻ cá nhiều phi thường. Còn ghép hai việc lại với nhau nếu quả thực là những việc rời nhau, là công cuộc của các tác giả để làm nổi bật một ý nghĩa thần học nào đó.
Hôm nay, đoạn Tin Mừng này có thêm một ý tưởng nữa, rất sâu xa và phong phú. Tác giả cho rằng sau ngày Chúa sống lại, Phêrô và đồng bạn lại trở về nghề cũ. Sự thật như thế, hay là ở đây ông cũng muốn làm như Luca ở đoạn nói về hai môn đệ đi đến làng Emmaus? Các ông muốn nói lên điều này, là cuộc tử nạn của Chúa trên thập giá đã làm cho môn đồ của Ngài chán nản, thất vọng muốn trở về nghề xưa. Thêm vào ý tưởng ấy, tác giả Gioan ở đây còn nhấn mạnh ưu vị của Phêrô khi đưa sáng kiến đi đánh cá và được anh em họa theo tức thời. Nhưng cho dù có nhất trí và hăng hái, công việc loài người của họ cũng chỉ thất bại. Phải có Chúa Phục sinh hiện đến, sai đi và hướng dẫn, họ mới đạt được kết quả và kết quả dồi dào phi thường.
Người ta tò mò tự hỏi vì sao tác giả đếm kỹ đến thế? Họ đã bắt được 153 con cá lớn. Con số này có ý nghĩa gì không? Có phải tác giả theo quan niệm của các nhà sinh vật học ngày xưa cho rằng trong biến cố tất cả 153 loại cá? Hay là ông muốn làm một trò chơi toán học, lấy 17 số đầu tiên (cộng lại với nhau sẽ được 153), thay các số ấy bằng số các chấm, đặt các dấu chấm thẳng nhau và lần lượt trên dưới nhau, cuối cùng sẽ vẽ được hình ba góc ba cạnh đều và mỗi cạnh có 17 chấm.
Như vậy số 153 là một số lượng nhất định mà chỉ cần bớt đi một chấm nhỏ đã làm mất cả thăng bằng. Và mẻ cá 153 con sẽ diễn tả thực tại Hội Thánh vừa đông số vừa đủ số, vừa lớn lao vừa duy nhất. Nhưng thôi, chúng ta chỉ cần biết ý của tác giả là nhờ ơn Chúa Phục Sinh, công việc của Hội Thánh sẽ kết quả phi thường; cả nhân loại sẽ gia nhập Hội Thánh.
Và Chúa đã dọn sẵn cho các thợ phần thưởng ở "Bến bình an". Họ đã thấy có bánh và cá, nướng hơ trên lửa để làm thỏa mãn những con người có lẽ đang đói và lạnh vì nước và gió biển. Người ta dễ thấy bánh có thể tượng trưng cho chính Chúa; nhưng còn cá nướng? Chúng ta biết ở những thế kỷ đầu các tín hữu vẫn vẽ hình con cá để làm tín hiệu cho nhau vì chữ Ictus (cá) cũng là những chữ đầu nói lên lời tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Cứu tinh nhân loại. Và như vậy cá nướng sẽ gợi lên ý tưởng Ðức Kitô chịu nạn. Có người còn nói thêm "lửa" kia chính là Thánh Thần. Và người ta kết kuận, Chúa đã dọn sẵn cho Hội Thánh khi lao nhọc chính Mình và Máu Người đầy Thánh Thần.
Nhưng điều ít mầu nhiệm hơn và dễ thấy hơn là việc Phêrô đưa thuyền vào bờ, nói lên chính ông sẽ làm việc nơi các người kế vị ông cho đến khi con thuyền Hội Thánh đưa tất cả các dân tộc vào bến bình an. Và như vậy chúng ta không càn giải thích nhiều nữa việc ông được Chúa đặt làm mục tử coi sóc cả đàn chiên Chúa. Dĩ nhiên đây là chủ đề của bài Tin Mừng hôm nay; nhưng tác giả đã sửa soạn kỹ quá, chúng ta thấy rõ ưu vị của Phêrô và hoạt động của ông; chúng ta sẵn sàng công nhận quyền lãnh đạo của ông khi Chúa đặt ông coi sóc chiên con và chiên mẹ.
Chắc chắn nhiều người vẫn hiểu việc Chúa hỏi Phêrô 3 lần về lòng mến như để bù lại 3 lần ông đã chối Người. Nhưng như thế cũng hơi lạ, vì nếu vậy, sao Chúa không đợi Phêrô trả lời xong 3 lần rồi hãy trao cho trách nhiệm chăn chiên? Do đó, nhiều nhà chú giải ngày nay nghĩ rằng: hỏi và thưa ba lần như vậy, cũng như được trao quyền 3 lần như thế, là để làm nổi bật ý nghĩa trọng đại của sự việc. Ấy là chưa kể ở thời kỳ chữ viết chưa phổ thông, việc lập lại lệnh truyền, hay lời thề ba lần là để nhấn mạnh sự chắc chắn và cho người làm chứng có thể nghe rõ ràng. Dù sao đây cũng là việc trao ban sứ mệnh quan trọng.
Và việc trao ban này đòi Phêrô phải mến Chúa Giêsu "hơn những người khác", vì thật là khó hiểu khi vị đại diện của Người trên trần gian lại không mến Người hơn những anh em khác? Và trách vụ chăn chiên đòi người ta phải theo gương vị Mục tử tốt đã hiến đến mạng sống mình vì yêu thương. Không có lòng yêu thương này, đã không có câu chuyện kể trong bài Tin Mừng hôm nay, và cũng đã không có những việc tốt đẹp thuật trong bài sách Công vụ các Tông đồ, và cũng chẳng có các buổi phụng vụ phục sinh ở dưới đất giống như Gioan nhìn thấy trong sách Khải huyền.
Chính Chúa đã thiết lập và để lại cho chúng ta Phụng vụ thánh thiện này để ở đây nơi bàn thờ này sẽ có Lửa Thánh Thần biến đổi bánh rượu nên Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô Tử nạn Phục sinh. Chúng ta hãy sốt sắng thờ phượng Con Chiên chịu sát tế như vạn vạn ngàn ngàn thiên thần ở trên trời.
Chúng ta hãy nhận lấy lương thực thiêng liêng này để thêm lòng mến Chúa Giêsu, dâng mình cho Người, sẵn sàng rao giảng Người bằng lời nói và hành động, và hợp tác với Hội Thánh và các vị chủ chăn trong việc đưa nhân loại về bến bình an nhờ Thánh Thần hoạt động nơi con người và đời sống yếu hèn của chúng ta; bởi vì Chúa Giêsu Phục Sinh đã giao cho Hội Thánh chúng ta sứ mạng ấy.
Chúng ta hãy đến với Người, tung hô Người, yêu mến Người, lãnh nhận Người, sống với Người và làm công việc của Người là cứu nhân độ thế.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

-dongcong.net

 

<tiểu mục <trang nhà

 

 
     

Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ
1900 Grand Ave - Carthage, MO 64836
Phone: ( 417) 358-7787 Fax: (417) 358-9508
cmc@dongcong.net (văn phòng CD) - web@dongcong.net (webmaster)