|
Tháng các linh hồn và lòng hiếu thảo
Lễ
Các Đẳng Linh Hồn 2-11-07
Ca dao Việt Nam thì nhiếu lắm. Nó là sự đúc kết kinh nghiệm sống của bao nhiêu
người qua bao nhiêu thế hệ mà thành. Dành riêng cho chữ hiếu,
ca dao Việt Nam lại càng phong phú. Có lẽ chữ hiếu đứng hàng
đầu trong ca dao Việt Nam.
Bất cứ ai sinh ra làm người, nếu không từ giã cuộc đời quá sớm, đều có thể chứng
kiến những cái chết của những người thân yêu của mình. Là người
Công giáo, chúng ta mang trong mình dòng máu Việt Nam. Vì thế,
nếu người Việt Nam đặt chữ hiếu lên hàng đầu, thì người Công
giáo Việt Nam lại càng khắc sâu lề luật của Thiên Chúa trao ban
một cách tuyệt đối về nghĩa đạo hiếu. Bởi nếu người Việt Nam,
tự bản chất, vốn yêu mến chữ hiếu, thì người Công giáo nói chung
và người Công giáo Việt Nam nói riêng, có lề luật Thiên Chúa
ban làm hướng đạo cho mình.
Chẳng
hạn, khi khiển trách người Dothái về lối sống vụ hình thức, hay
những kiểu làm dối trá nhằm tự
đánh
lừa lương tâm trong việc giữ đạo hiếu, Chúa Giêsu đã nói thẳng,
nói dứt khoát: "Thiên Chúa dạy: ‘Ngươi hãy thảo kính cha mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải
bị xử tử’. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha mẹ rằng:
Những gì con có để giúp cha mẹ đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi,
thì người ấy không phải thảo kính cha mẹ nữa’. Như thế, các ông
dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ Lời Thiên Chúa" (Mt 15, 4- 6).
Với
thái độ lấp liếm như thế, họ đã bị Chúa Giêsu vạch trần: "Hỡi những kẻ đạo đức giả kia, tiên tri Isaia đã nói rất đúng về các ông: ‘Dân
này kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng
có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy
chỉ là giới luật phàm nhân’" (Mt 15, 7- 9).
Bởi
vậy, nếu sự hiếu thảo là trách nhiệm không thể thiếu của người
Công giáo, thì tháng 11, tháng kính nhớ những
người đã khuất mặt là dịp để ta ý thức lại bổn phận thảo hiếu
của mình. Sự ý thức này đặt trên nền tảng của giới luật Thiên
Chúa ban:
I.
ĐIỀU RĂNG THỨ IV: THẢO KÍNH CHA MẸ
"Ngươi hãy thờ kính cha mẹ để được
sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho
ngươi" (Xh 20, 12).
Đó
là điều răn thứ IV trong Mười điều răn, Thiên Chúa ban cho trần
gian qua ông Môisen. Lặp lại chính lề
luật Thiên Chúa ban, trong kinh Mười Điều răn, Giáo Hội dạy: "Thứ bốn: Thảo kính cha mẹ".
Thứ
tự của mười lề luật mà Thiên Chúa ban gồm hai phần rõ rệt (Xh
20, 2-17):
-
Phần thứ nhất, gồm ba giới răn đầu quy về Thiên Chúa (thờ phượng
một Chúa duy nhất, tôn kính danh Người,
dành ngày Sabbat để tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa).
-
Phần thứ hai là bảy giới răn còn lại hướng về loài người (thảo
kính cha
mẹ, tôn trọng sự sống, giữ thân
xác thanh sạch, hãy sống công bằng, giữ tư tưởng trong sạch
và không tham lam), thì điều răn thứ nhất trong phần thứ hai
này,
không nhắm bất cứ đối tượng nào khác nhưng chính là gia đình,
là cha mẹ.
Như
vậy, với thứ tự như thế trong lề luật đến từ Thiên Chúa, cha
mẹ chỉ đứng hàng thứ hai ngay sau Thiên
Chúa. Cha mẹ cũng là đối tượng đầu tiên của tình yêu mà con
người dành cho nhau. Vì thế, sau lòng kính mến đối với Thiên
Chúa,
con người phải dành sự kính tôn của mình đặc biệt đối với
cha mẹ.
Và
còn hơn bất cứ một tình yêu dành cho đối tượng nào của loài người,
tình yêu dành cho cha mẹ chính là thảo
kính cha mẹ mình. Ta không buộc phải yêu ai bằng tình yêu thảo
kính, ngoại trừ cha mẹ. Chỉ có cha mẹ mới xứng đáng được yêu
kính bằng tất cả tình yêu thiêng liêng nhất, sâu đậm nhất xuất
phát tận trái tim yêu thương của một người con.
Đó
là tình yêu thảo hiếu mà loài người phải sống. Không ai có quyền
vượt
qua lằn ranh của lề luật ấy. Bởi
lề luật ấy là lề luật chính Thiên Chúa trao ban, nếu ta không
tuân giữ, cũng đồng nghĩa với việc ta chống lại Thiên Chúa.
Bất tuân lời của ai, là xúc phạm đến chính người đó. Không đón
nhận
Lời Thiên Chúa trao ban, là chính lúc ta xúc phạm đến chính
Thiên Chúa, Đấng là tác giả của Lề luật.
Đạo
Công giáo trước hết là đạo của tình yêu. Hiếu nghĩa nằm trong
bổn phận của lòng yêu
thương này. Ta không
được lãng quên trách nhiệm hiếu nghĩa với những ai đã có công
sinh thành mình. Chỉ có sống hiếu, con người mới có thể có
khả năng chứng tỏ tình yêu của mình dành cho nhau. Bởi nếu cha
mẹ,
và tất cả những ai có công dưỡng dục như chính cha mẹ mình,
ta không thể yêu thương thảo hiếu, làm sao có thể nói đến tình
yêu
dành cho anh chị em quanh mình!
II.
TẤM GƯƠNG HIẾU THẢO CỦA CHÚA GIÊSU.
Rất
nhiều lần Thánh Kinh, đặc biệt là các sách Tin Mừng cho thấy
nơi Chúa Giêsu là cả một
tâm hồn thảo
hiếu. Đó là bằng chứng xác đáng và bài học cao cả cho mỗi người
chúng ta.
1.
Đối với Chúa Cha.
Chúa
Giêsu luôn luôn làm tròn bổn phận của một người con và luôn luôn
đẹp lòng Chúa Cha (Ga 8, 29). Chính
Chúa Cha đã nhiều lần công khai tuyên bố Chúa Giêsu là Con
yêu quý của mình, là Người Con luôn làm đẹp lòng mình (Mt 3,
17;
17, 5).
Còn
Chúa Giêsu đến trần gian là để làm việc của Chúa Cha, làm theo
ý Chúa Cha: "Điều gì Chúa Cha làm, thì Người Con cũng làm như vậy" (Ga 19). Đó cũng là lý do mà Người ưu tiên làm việc của "Cha trên trời" (Lc 3, 49). Người đã không tìm vinh quang cho mình, nhưng chỉ tìm vinh quang
Chúa Cha (Ga 7, 4). Bởi Chúa Giêsu nên một với Chúa Cha, vì thế,
chỉ có ai hiệp nhất với Người, kẻ đó mới có Chúa Cha nơi mình,
như cành nho gắn liền cây nho (Ga 15, 4; 17, 21- 23; 14, 20-
21; ). Tin Mừng còn ghi nhận Chúa Giêsu luôn luôn gặp gỡ và kết
hợp với Chúa Cha trong sự cầu nguyện liên lỷ (Lc 6, 12; Mt 11,25-
26; 14, 23; 15, 23; 26, 36- 46; 26, 42- 44; 27, 46; Ga 6, 11;
11, 41; 12, 27- 28; 14, 16; 17, 1- 26…).
Nhiều
lần Chúa Giêsu khẳng định, Người được Chúa Cha sai đến trần gian,
vì thế Người
tuân hành ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu đã không hành động, không giảng dạy, không xét đoán,
không thực hiện điều gì mà không theo ý Chúa Cha và quy về Chúa
Cha: "Vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng
đã sai tôi" (Ga 6, 38. 57; 8, 16). Hay đúng hơn, chính Chúa Cha hoạt động nơi Chúa Giêsu: "Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng
luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình" (Ga 14, 10).
Chúa
Giêsu luôn luôn chu toàn thánh ý Chúa Cha trong mọi trường hợp,
mọi hoàn cảnh. Người vâng phục thánh
ý Chúa Cha cách tuyệt đối, dù đứng trước cái chết: “Lạy Cha,
nếu có thể được, xin cho Con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy,
xin đừng theo ý Con mà xin theo ý Cha" (Mt 26, 39). Và cuối cùng, nhận lấy cái chết bi thương trên đồi Sọ, Chúa Giêsu
đã chứng tỏ lòng yêu mến, sự thảo hiếu của Người đối với Chúa
Cha lên đến cực độ (Ga 19, 28- 30).
2.
Đối với Đức Maria và thánh Giuse.
Mặc
dù luôn luôn hướng về Chúa Cha, và ưu tiên thực hiện thánh ý
Chúa Cha, Chúa Giêsu vẫn không
quên nghĩa
vụ thảo hiếu với người cha, người mẹ trần thế của mình. Thánh
Luca đã từng ghi nhận chi tiết này: "Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nagiaret và hằng vâng phục các ngài" (Lc 3, 51).
Về
mặt nhân trần, là con của Đức Maria, và nghĩa tử của thánh Giuse,
Chúa Giêsu rất mực yêu mến cha mẹ.
Người là con ngoan trong gia đình Nagiaret. Người đã lao động
cùng với cha mẹ trần thế để sinh sống. Là Thiên Chúa nhập thể,
Chúa Giêsu hướng về Chúa Cha ngay trên trần thế, nhưng tình
yêu đối với Chúa Cha nơi Chúa Giêsu, không bao giờ lấy mất tình
yêu
mà Người dành cho Đức Mẹ và thánh Giuse.
Dù
không được nhấn mạnh khía cạnh vâng phục và yêu thương thảo kính
đối với cha
mẹ trần gian, nhưng các Tin
Mừng, trong khi ghi nhận cuộc đời và những hoạt động của Chúa
Giêsu, đã hé mở cho ta một tình yêu lớn lao mà Chúa Giêsu dành
cho Đức Maria và thánh Cả Giuse.
Chẳng
hạn, tại tiệc cưới Cana, chính Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thưa
bà, chuyện đó can gì đến
bà và tôi?
Giờ của tôi chưa đến” (Ga 2, 4). “Giờ chưa đến”, nghĩa là lúc
đó chưa phải đã đến lúc Chúa Giêsu công khai chứng minh quyền
năng Thiên Chúa của mình, nhưng Chúa Giêsu vẫn vâng lời Đức
Mẹ đề nghị: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2, 3), thực hiện phép lạ đầu
tiên
biến nước thành rượu ngon.
Một
người con thảo hiếu như Chúa Giêsu, chắc chắn không để mẹ mình
phải hụt hẩng khi thốt lên
lời đề nghị
ấy. Dù không có gì liên can giữa "bà và tôi", và dù "giờ" chưa đến, nhưng vì Đức Maria, vì lời khẩn cầu của Mẹ, Chúa Giêsu đã không từ
chối, nhưng đã hành động.
Trong
cuộc đời công khai của mình, Chúa Giêsu vui lòng nhận lấy tước
hiệu "con của bác thợ mộc Giuse, con của bà Maria" khi được người đồng hương gán cho mình (Ga 6, 42; 7, 27; Lc 4, 22- 23). Nhất
là trên thánh giá, khi biết mình sắp trở về cùng Chúa Cha, Chúa
Giêsu trối Đức Mẹ cho thánh Gioan và trối thánh Gioan cho Đức
Mẹ, càng là bằng chứng cho thấy tình yêu thương của Chúa Giêsu
đối với mẹ mình (Ga 19, 26- 27).
Phải
chăng hành động trao gởi này, là cách thức Chúa Giêsu muốn an
ủi Đức Mẹ, muốn làm dịu
đi những đau
khổ, những cô đơn mà Đức Mẹ gánh chịu? Phải chăng Chúa Giêsu
mong muốn bên cạnh người mẹ của mình, luôn luôn có một người
con nâng đỡ, chở che luc ấy, cũng như trong những năm tháng
già nua tuổi tác?
Chúa
Giêsu đã sống đạo hiếu hoàn hảo. Đến lượt chúng ta, bước theo
Người, làm môn đệ của Người, chúng ta
cũng hãy là những người con thảo hiếu với tất cả những ai có
công sinh thành, dưỡng dục chúng ta.
III.
THÁNG CÁC LINH HỒN VÀ LÒNG THẢO HIẾU.
Dù
đích thực là Thiên Chúa, tấm gương làm con của Chúa Giêsu vẫn
sáng mãi và được nêu cao
muôn đời để bất
cứ ai, nếu sống trong cuộc đời này biết mình không vô cội vô
nguồn, sẽ cố gắng nên tốt lành trong trách nhiệm làm con như
Người.
Có
một điểm mạnh nơi Chúa Giêsu dạy ta một bài học lớn và ý nghĩa
hơn bất cứ một bài học nào trong cuộc
đời. Điểm mạnh đó là, dù là Thiên Chúa – Đấng hằng hữu từ đời
đời, tác thành và cứu chuộc mọi loài – một khi đã chọn cho
mình một người mẹ, người cha trần thế, Chúa Giêsu vẫn thảo hiếu
với
người cha, người mẹ ấy, huống hồ là chúng ta, những con người
được sinh ra bởi những con người.
Đàng
khác, tháng các linh hồn, Hội Thánh dành kính nhớ tất cả những
ai đã qua đời, nay
còn đang được thanh
luyện trong luyện ngục. Sự kính nhớ này, trước tiên hướng về
những người thân thuộc, cách riêng là tổ tiên, ông bà cha mẹ
của mình. Sự tưởng nhớ dành cho những người khuất mặt không còn
có thể thể hiện bằng những nghĩa cử cụ thể "nâng khăn, sửa túi”, nhưng là sự tưởng nhớ tận đáy tâm hồn và lòng biết ơn sâu
xa của chúng ta là những người còn sống.
Là
Kitô hữu, lòng kính nhớ các Đẳng linh Hồn nói chung và ông bà
cha mẹ của mỗi một
người, nay đã qua đời
nói riêng, có thể thực hiện bằng cách thế mà Hội Thánh hướng
dẫn và chấp nhận: dâng thánh lễ, lời cầu nguyện, lời kinh,
tiếng ca, sự hy sinh, chay tịnh, bố thí, lãnh bí tích, nhất là
bí tích
Thánh Thể và hòa giải… của cá nhân hay tập thể, hay của mỗi
gia đình để hưởng nhờ ơn Chúa, nhường lại cho ông bà cha mẹ đã
ra
đi và cho cả các Đẳng Linh Hồn.
Chúa
cần sự nỗ lực cộng tác của ta với ơn cứu độ của Chúa. Bởi Chúa
không cứu độ loài người
cách áp đặc,
nhưng cần tâm hồn nhiệt thành của ta để ơn cứu độ trở thành
giá trị cứu độ đích thực cho chính ta và cho anh chị em quanh
mình.
Không
chỉ dừng lại nơi những người đã qua đời, tháng các Linh Hồn còn
nhắc ta bổn phận thảo hiếu với chính
những người thân còn sống cạnh bên ta. Sách Giáo lý Công giáo
khi bàn về bổn phận của con cái, đã viết: "Lòng tôn kính của con cái đối với cha mẹ (hiếu thảo) phát xuất từ sự biết ơn
đối với những người đã cho chúng được và nhờ tình yêu và lao
công của họ, giúp chúng lớn lên về tầm vóc, khôn ngoan và ân
sủng. ‘Hãy hết lòng tôn kính cha con, và đừng quên ơn mẹ đã mang
nặng đẻ đau. Hãy luôn luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành,
công ơn ấy con lấy chi đáp đền cho cân xứng’ (Hc 7, 27- 28)”
(số 2215).
Thực
tế của đời sống hằng ngày, ta chứng kiến biết bao cuộc chia ly
rơi nước mắt của bao nhiêu người, cũng
có thể là của chính ta. Nhưng trong những giọt nước mắt ấy,
chắc không thiếu gì giọt ân hận vì đã sống thiếu bổn phận nghĩa
hiếu.
Vô phúc cho tất cả những ai phải mang niềm ân hận này suốt
đời vì không sống tròn chữ hiếu.
Hãy
sống ngay hôm nay, sống cho hoàn hảo chữ hiếu trong chính lúc
này, lúc còn có thể sống, để
mai này, dù
có chia tay với người thân, lòng ta thanh thản nhẹ nhàng, không
cảm thấy mất bình an vì bất hiếu. Hãy làm cho giọt nước mắt
tiếc thương người thân ra đi, không lẫn một giọt hối hận cay
đắng
nào!
Nhưng
tháng các Đẳng Linh Hồn còn nhắc ta về một chữ hiếu rộng hơn,
thuộc về điều răn thứ IV. Đó là lòng
biết ơn của ta đối với tất cả những ai làm ơn cho mình. Sách
Giáo lý Công giáo ghi nhận: "Điều răn này còn rộng mở tới bổn phận của học trò đối với thầy, thợ với chủ,
kẻ thuộc cấp đối với người chỉ huy, công dân đối với tổ quốc
và với tất cả những người điều hành cai trị đất nước” (2199a).
Ca
dao Việt Nam có viết: "Cây
có gốc mới nở nghành sanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông
sâu, người ta có gốc từ đâu? Có cha có mẹ, rồi sau có mình". Nếu lòng thảo hiếu dành cho các bậc sinh thành hết sức quan trọng đối với người
Việt Nam, thì điều đó đối với các tín hữu Công giáo lại càng
lớn lao và là một đòi buộc ngặt không thể thoái lui hay chối
cãi. Lòng thảo hiếu của đức tin Công giáo lớn đến nổi, không
chỉ là điểm quy chiếu giữa những con người với nhau, mà còn có
lề luật hoàn hảo của Thiên Chúa và mẫu gương sống động của chính
Đấng Thiên Chúa làm người làm chuẩn mực tuyệt đối hướng dẫn đời
sống hiếu thảo của mọi người…
Lạy
Chúa, xin dẫn đưa linh hồn ông bà, cha mẹ, anh chị em của chúng
con đã qua đời về dự tiệc vui
trong
nhà Chúa muôn đời… Lm.
VŨ XUÂN HẠNH - 2013
|
|