|
VĨNH HẰNG
Chúa nhật 32c thường niên (2004)
Một
thiếu phụ trải qua bẩy đời chồng, và mỗi người đều có cưới hỏi
đàng hoàng. Nói một cách thực tế theo từ ngữ hiện thời, nàng đã
lên xe hoa bẩy lần. Như vậy, trên nơi vĩnh hằng nàng sẽ là vợ
ai? Ai sẽ là chồng của nàng? Nhóm Sađốc đã đưa ra câu hỏi này
nhằm thách thức Chúa Giêsu, và ngụ ý chối bỏ sự sống lại, sự sống
vĩnh hằng. Vì không lẽ ở trên Thiên Đàng, và ở đời sau người ta
cũng cưới vợ, gả chồng, sinh con, đẻ cái; hoặc tranh dành vợ chồng
với nhau sao?
Chối
bỏ đời sau, không tin nhận giá trị của sống lại, cũng có nghĩa
là chôn bám và chấp nhận giá trị của vật chất, của thế giới hữu
hình. Đây có lẽ cũng là quan niệm và lối sống của nhiều người
không riêng gì mấy người theo nhóm Sađốc. Tuy nhiên, một mặt nói
là không tin có đời sau, nhưng dường như họ vẫn không chối bỏ
sự hoài nghi về đời sau, nên họ đã muốn dùng hình ảnh người thiếu
phụ với bảy đời chồng ấy, để dò hỏi, và để xem Chúa giải quyết
cách nào nếu như thật sự có đời sau. Hiểu được tâm lý hụt hẫng,
hoang mang, và nghi ngờ ấy, Chúa Giêsu đã nói với họ và cho tất
cả những ai đang có cùng một thắc mắc về vĩnh hằng, rằng: “Con
cái đời này lấy vợ, gả chồng, nhưng những ai được tuyển chọn và
sống lại từ cõi chết không lấy vợ, gả chồng. Họ cũng không chết,
mà là giống như các thiên thần. Là con cái của sự sống lại, họ
cũng là con cái Thiên Chúa” (Lc 20:34-36). Vì theo Chúa Giêsu
thì: “Thiên Chúa không phải là Chúa kẻ chết nhưng là Chúa của
kẻ sống vì tất cả đều sống cho Ngài” (Lc 20:38). Câu trả lời của
Chúa Giêsu đã đem lại một cái nhìn đầy xác tín về đời sau, về
vĩnh hằng.
Trước
hết, nó mở ra một nhãn quan về vĩnh hằng, và cho thấy rằng sự
sống đời sau, Thiên Đàng và hỏa ngục là có thật., khi Ngài gọi
những người được lên nơi cao xanh ấy là “những người được tuyển
chọn và sống lại từ cõi chết”. Điều này cho thấy rằng là mọi người
đều sống lại, tuy nhiên, chỉ có những ai được tuyển chọn mới sống
lại để sống với Ngài mà thôi. Và lý do để ta có thể xác tín được
điều này, chính là vì: “Thiên Chúa không phải là Chúa của kẻ chết
nhưng là Chúa của kẻ sống”.
Nhưng
sống lại rồi người ta sẽ làm gì trên chốn vĩnh hằng. Liệu rồi
có diễn lại cảnh lấy vợ, gả chồng, sinh con, đẻ cái nữa không?
Để trả lời câu hỏi này, Chúa Giêsu đã hé mở cho ta biết về sinh
hoạt của con người trên nơi cao xanh ấy bằng một lối diễn tả cũng
rất “cao xanh”, khi so sánh đời sống, và sinh hoạt của họ với
các thần trời: “Người ta sống với nhau như các thiên thần”. Như
vậy, trên nơi vĩnh hằng, con người vẫn là con người, vẫn có tình
cảm, tình thương. Họ vẫn có trách nhiệm, vẫn có những ràng buộc
liên đới với nhau, và vẫn trao đổi, thông cảm với nhau. Tuy nhiên,
sinh hoạt của họ, tình cảm của họ, và cách thức trao đổi của họ
không giống như con người tự nhiên qua lối diễn tả của xác thịt,
của cái nhìn vật chất, đầy tính thế tục. Những hành động trực
tiếp liên quan đến thân xác, hay việc làm vật chất như con người
vẫn thường đối xử với nhau trong thế giới hữu hình không thể mang
áp dụng nơi thế giới siêu hình. Tóm lại, Chúa Giêsu qua câu trả
lời cho nhóm người Sađốc, đã vẽ cho chúng ta một bức tranh về
hoạt động và sinh hoạt của con người ở thế giới siêu hình. Các
thiên thần giao tiếp, thông cảm, chia sẻ, trao đổi với nhau như
thế nào, con người sau khi đã lên nơi cao xanh ấy, cũng giao tiếp,
trao đổi, và thương yêu nhau như vậy.
Quan
niệm về đời sau, về cuộc sống vĩnh hằng nếu đem áp dụng vào sinh
hoạt tâm linh của người Việt Nam, chúng ta cũng thấy rất gần gũi.
Tuy không đồng nhất về quan niệm tín lý và thần học, nhưng phần
đông mỗi người Việt Nam đều có một ý niệm về đời sau. Tại mỗi
gia đình đều có bàn thờ tổ tiên. Họ cúng quả hàng ngày, đặc biệt
vào những dịp giỗ lạt. Họ tảo mộ, họ dâng hương, đốt tiền mã,
đồ dùng giả ngụ ý giử về bên kia thế giới cho người thân mình
tiêu dùng. Hành động như vậy, vì họ tin rằng ông bà, cha mẹ, anh
chị em họ đang sống bên kia thế giới, và đang cần những thứ ấy.
Bằng con mắt tâm linh, họ luôn nhắc về người quá cố, cầu xin với
người quá cố. Như vậy, là chúng ta đã tin nhận có đời sau, có
cuộc sống bên kia thế giới. Và nếu đem tâm tình sống ấy lồng vào
niềm tin Kitô Giáo, và cho tâm tình ấy một cái nhìn đời đời qua
sự tin nhận Chúa Kitô, chúng ta sẽ không thấy khó khăn gì khi
chấp nhận sự sống lại, và đời sống vĩnh hằng.
Nhưng
một khi đã tin nhận đời sau, đã tin vào Chúa Kitô thì niềm tin
ấy phải đi tới chỗ thực hành: “Đức tin không việc làm là đức tin
chết” (Giacôbê 2:17). Và một khi áp dụng thực hành niềm tin của
mình, người Kitô hữu phải làm sao để phản ảnh đầy đủ khuôn mặt
của Chúa Cứu Thế trong mọi khía cạnh của cuộc đời mình cách thành
thật, đơn sơ, nhưng đầy xác tín.
Con
cái đời này cưới vợ, gả chồng, nhưng con cái đời sau thì lại đối
xử với nhau như các thiên thần. Đó là hai mặt của một đồng tiền,
hai mặt của một bàn tay, hai cách nhìn và lối sống của người Kitô
hữu trong khi còn ở trần thế và sau khi đã về Thiên Đàng. Trong
lúc còn sống trên thế gian này, họ phải hoàn tất vai trò và trách
nhiệm của mình như một phần tử của gia đình, của cộng đoàn, và
của xã hội. Tuy nhiên, để chuẩn bị cho sự sống đời sau, thì họ
phải làm sao để những việc làm ấy mang lại những giá trị đời đời,
bằng cách như Đúc Thánh Cha Gioan Phaolô II đã diễn tả khi nói
về sự thánh thiện, là phô diễn gương mặt Chúa Cứu Thế qua những
biến cố của đời mình khi vui cũng như khi buồn, khi gặp gian nan
thử thách, cũng như khi được may mắn, và an ủi. Và đó cũng là
đời sống của một Kitô hữu biết tin tưởng, và xác tín về đời sau
và về vĩnh hằng.
T.s.
Trần Quang Huy Khanh
|
|