|
Cúi
mình xuống
Chúa nhật 30 thường niên năm C (28-10-07)
Dụ
ngôn người Biệt phái và Thu thuế lên Đền thờ cầu nguyện cho thấy
sự tương phản giữa hai thái độ của con người trước tình yêu thương
bao la của Thiên Chúa.
Người Biệt phái là nhân vật được xã hội đương thời kính trọng, vì thuộc thành
phần nhiệt tâm giữ luật, thực thi đức ái hơn nguời khác. Người
thu thuế, kẻ bị xã hội mạt sát, khinh chê.
Hai
mẫu người đối lập cùng bước vào Đền thờ và làm cùng một công
việc là cầu nguyện.
Tại đây, sự tương phản
giữa hai con người trở nên rõ nét khi tâm tính và thái độ sâu
kín được bộc bạch trước nhan Thiên Chúa.
Người
Biệt phái ung dung tự tại, đứng thẳng cầu nguyện : Lạy Thiên
Chúa, con cảm
tạ Chúa vì con không giống các người khác,
không tham lam, không bất công, không ngoại tình hay như tên
thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, dâng một phần mười
thu nhập của con. Người Biệt phái đang báo cáo thành tích.
Ông nói điều ông đã làm và những gì ông làm thì không chê vào
đâu được: không gian tham, không chiếm đoạt, không rối vợ rối
chồng, không đam mê tội lỗi, thậm chí về phần đạo đức bác ái
, ông còn làm quá điều luật dạy. Thường người ta chỉ ăn chay
một ngày trong năm vào dịp lễ Sám hối, đàng này ông ăn chay
hai ngày trong tuần. Luật buộc các nông dân nộp một phần mười
sản phẩm cho việc phụng tự, ông lại nộp thuế thập phân tất
cả thu nhập của ông. Đây là lời cầu nguyện mà nhiều người Do
thái thời ấy mơ ước. Không thấy ông xin gì cho bản thân. Lời
cầu nguyện chỉ là lời tạ ơn. Điều đáng tiếc là lời cầu nguyện
của ông đầy nét tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân : Vì tôi
không như bao người khác, tôi không như tên thu
thuế kia. Rõ ràng người Biệt phái tốt lành quãng đại nhưng
lại tự phụ khoe khoang, khinh người. Đây là biểu tượng cho
hạng người hay chúc tụng, tôn thờ bản thân mình. Thật đúng,
kiêu căng đứng trước trong danh sách bảy mối tội đầu.
Người
thu thuế đến thú tội, anh ý thức mình là tội nhân nên run rẩy
xấu hổ, đầu cúi xuống chẳng dám ngước
lên. Anh đã nghe thấy lời cầu nguyện của người Pharisiêu (hay
như tên thu thuế kia), nên anh thấy khỏi cần cáo tội mình. Anh
chỉ còn đặt mình trước nhan Thiên Chúa một cách trung thực và
khẩn khoản nài xin : Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.
Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hoà
với anh em. Anh chỉ đứng xa xa vì thấy mình bất xứng. Lời cầu
hết lòng khiêm tốn đó có sức an ủi anh ngọt ngào biết bao. Anh
cảm thấy đầy lòng tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu của Thiên
Chúa, vì anh biết rằng : dù tội lỗi như Aaron đúc bò vàng cho
toàn dân thờ, dù thủ đoạn như vua Đavít đã cướp vợ giết chồng
người khác nhưng họ đã hết lòng ăn năn sám hối và Thiên Chúa
đã sẵn lòng tha thứ; dẫu rằng cả toàn dân bỏ Chúa và bị bắt lưu
đày Babylon, lại bị thủ tướng Aman ra tay diệt trừ nhưng trong
cơn cùng khốn như thế, hoàng hậu Ette cùng toàn dân đã biết ăn
năn sám hối tội lỗi, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ; hay tội lỗi như dân ngoại Ninivê, Thiên Chúa còn thương, bắt
buộc Ngôn sứ Giona đến rao giảng cho họ biết cải tà qui chính,
Thiên Chúa liền tha thứ cho họ khi họ sám hối chân thành. Thấy
tất cả những sự kiện lịch sử thống hối đó, người thu thuế càng
thêm tin tưởng vào lòng thương xót khoan dung cùa Thiên Chúa,
anh càng đấm ngực hết lòng ăn năn.
Đức
Giêsu kết luận: Người thu thuế trở nên công chính còn người biệt
phái thì không được….
Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống,
ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Tội
lỗi hay hành động xấu không làm người ta mất sự công chính cho
bằng tính tự mãn, thói kiêu
căng. Người
thu thuế đã thật sự phạm nhiều tội lỗi nên đã làm mất đi sự
công chính, nhưng hành động khiêm tốn biết nhìn nhận mình tội
lỗi
và hết lòng thống hối nên được công chính trước Thiên Chúa.
Khiêm
nhường có khả năng biến tội lỗi thành thánh thiện, bất chính
thành công chính. Trái lại, kiêu ngạo tự mãn có thể biết
điều tốt thành điều xấu.
Khiêm
nhường, tự hạ, quên mình luôn được coi là nền tảng của sự thánh
thiện, là gốc rễ của các nhân
đức. Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô I đã nói : Trên thiên đàng không thiếu
bọn thu thuế và gái điếm, nhưng không có kẻ kiêu ngạo. Dưới
hoả ngục có cả Hồng Y, Giám mục nhưng không có người khiêm nhường.
Khiêm
nhường bao nhiêu cũng không đủ, chỉ một chút kiêu ngạo cũng quá
nhiều. Đừng vì mình đạo đức mà khép
kín trong tự mãn, cũng đừng vì mình tội lỗi mà khép kín trong
tuyệt vọng. Ơn Chúa chỉ đến với người biết mở tâm hồn ra để
đón nhận. Tội lỗi hay công đức đều có thể làm ta khép lại hay
mở
ra. Điều quan trọng là thấy mình luôn luôn cần Chúa.
Sự
triển nở trong đời sống thiêng liêng nằm chỗ là ta trở nên nhỏ
lại,
là nhường bước để cho Chúa xâm chiếm
và chi phối trọn vẹn đời ta. Càng lớn lên trong Chúa, ta càng
cảm thấy một cách mạnh mẽ rằng mình cần đến Chúa ngày một hơn.
Cha Nguyễn Tầm Thường đã viết những bài suy niệm thật hay trong
cuốn sách “Con biết con cần Chúa”.
Một
Đấng Thánh vĩ đại như Phaolô mà đã tự nhận mình là kẻ thấp
hèn nhất (1Cor15,9); một
ngôi sao chói lọi
trong công việc bác ái từ thiện như Thánh Vincent Phaolô
mà cũng đã tự gọi mình là người thấp hèn nhất trần gian thì huống
là
chúng ta !
Người
tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và
thấp, chỉ quì xuống mới vào được mà thôi.
Tại
Đền Thờ Thánh Phêrô có một bức tượng Chúa Chịu Nạn do Thorvaldsen
( 1770-1844), nhà
điêu khắc Đan Mạch
nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng,
ông ta nhìn mãi rồi lắc đầu nói : tôi nghe đồn bức tượng này
nổi tiếng là đẹp lắm nhưng tôi chẳng thấy có gì đẹp cả. Một
người quỳ sau lưng ông nói : Ông phải quì gối xuống mới thấy
đẹp. Ông
du khách liền quì gối. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi
cuốn của bức tượng Chúa Chịu Nạn. Muốn gặp gỡ Chúa, muốn đón
nhận lòng thương xót của Người, con người cần quì gối với tâm
tình khiêm tốn.
Đức
Cha Fulton J. Sheen đã viết : “Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa
trời, nơi người ta có thể đứng thẳng, nhưng
Ngài giáng
sinh trong hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào.
Đó là một cử chỉ khiêm nhường. Một số người quá tự mãn không
hạ
mình sẽ không thấy được niềm vui bên trong hang đá. Các mục
đồng và các đạo sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm
như thế, họ thấy mình không ở trong một cái hang, nhưng ở
trong một thế giới khác. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội
mặt
trời, chân đạp mặt trăng, và cánh tay ẵm Hài Nhi – Đấng dùng
những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất, nơi chúng
ta đang sống. Và khi các mục đồng và các đạo sĩ quỳ gối,
tôi tự hỏi : không biết những người thông thái ghen với những
người
đơn sơ, hay những người đơn sơ ghen với những người thông
thái ? Tôi hướng tới xác tín rằng : các đạo sĩ ghen với các mục
đồng, bởi vì con đường của các mục đồng ngắn hơn, họ tìm
thấy
sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.” (Người Galilê
vĩnh cửu, trang 36).
Lm.
Giuse NGUYỄN HỮU AN
|
|