|
LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
I.
DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Chính
Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II là Vị Giáo Hoàng đã lập Ngày Lễ
Kính Lòng Thương Xót Chúa và cổ võ lòng sùng kính ấy trong Hội
Thánh theo mạc khải (gọi là mạc khải tư) mà Thiên Chúa đã ban
cho thánh nữ Maria Faustina (1) để chuyển lại cho Hội Thánh: “Ta
muốn ngày Lễ Kính Lòng Thương Xót là một trợ giúp và nơi trú ẩn
cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương.
Trong ngày ấy, Lòng Thương Xót của Ta sẽ rộng mở; Ta sẽ tuôn đổ
một đại dương hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch Lòng
Thương Xót của Ta.” (Trích nhật ký, số 699).
Việc
Hội Thánh đặt Ngày Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa vào Chúa Nhật
II Phục Sinh thật thật vô cùng ý nghĩa! vì cái chết thập giá của
Chúa Giê-su là biểu hiện cao nhất, mạnh mẽ nhất của Lòng Chúa
Thương Xót nhân loại chúng ta.
Vì
thế các bài Thánh Kinh của hôm nay phải được đọc và suy niệm theo
ý hướng của việc Sùng Kính Lòng Thương Xót Chúa.
II.
LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1
Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1)
Bài đọc 1: Cv 5, 12-16: Càng ngày càng
có thêm nhiều người tin theo Chúa Giê-su, cả đàn ông đàn bà rất
đông.
12
Hồi ấy nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ
bàn tay các Tông Đồ. 13 Không một ai khác dám nhập đoàn với họ.
Nhưng dân thì lại ca tụng họ. 14 Càng ngày càng có thêm nhiều
người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông. 15 Người ta còn
khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên
chõng, để khi ông Phê-rô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ
lên được một bệnh nhân nào đó. 16 Nhiều người từ các thành chung
quanh Giê-ru-sa-lem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm
đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa
lành.
(2) Bài đọc 2: Kh 1,9-11a.12-13.17-19: Ta
đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời.
9
Tôi là Gio-an, một người anh em của anh em, tôi cùng chia sẻ nỗi
gian truân, cùng hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với
anh em trong Đức Giê-su. Lúc ấy, tôi đang ở đảo gọi là Pát-mô,
vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng của Đức Giê-su. 10
Tôi đã xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đằng sau tôi có một
tiếng lớn như thể tiếng kèn 11 nói rằng: "Điều ngươi thấy,
hãy ghi vào sách và gửi cho bảy Hội Thánh.
12
Tôi quay lại để xem tiếng ai nói với tôi. Khi quay lại, tôi thấy
bảy cây đèn vàng. 13 Ở giữa các cây đèn, có ai giống như Con Người
mình mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng.
17
Lúc thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy.
Người đặt tay hữu lên tôi và nói: "Đừng sợ! Ta là Đầu và
là Cuối. 18 Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến
muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ. 19
Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và
những gì sẽ xảy ra sau này.
(3)
Bài Tin Mừng: Ga 20,19-31: Tám ngày sau,
Đức Giêsu dến.
19
Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở,
các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giê-su
đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! "
20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ
vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với các ông: "Bình
an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh
em." 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh
em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người
ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
24
Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô,
không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. 25 Các môn đệ khác nói
với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp:
"Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ
ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người,
tôi chẳng có tin."
26
Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả
ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến,
đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." 27 Rồi
Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem
tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng
nữa, nhưng hãy tin." 28 Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa
của con, lạy Thiên Chúa của con! " 29 Đức Giê-su bảo: "Vì
đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà
tin!"
30
Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ;
nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. 31 Còn
những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su
là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống
nhờ danh Người.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa
là Đấng nào?
(1)
Bài đọc 1 (Cv 5,12-16) là
đoạn Sách Tông Đồ Công Vụ miêu tả nét đặc thù của cộng đoàn Ki-tô
hữu tiên khởi với nhiều dấu lạ điềm thiêng mà Thiên Chúa thực
hiện trong/qua cộng đoàn ấy. Với những phép lạ chữa bệnh và trừ
quỉ của các Tông đồ nói chung và của Tông đồ trưởng Phê-rô nói
riêng cộng đoàn đã tạo nên một sức hút rất đáng kể và khiến mọi
người phải nhắc đến với lòng ngưỡng mộ. Cũng vii thế mà càng ngày
càng có nhiều người gia nhập vào cộng đoàn Ki-tô hữu mới này.
Trong
đoạn sách Cv 5,12-16 trên chúng ta thấy rõ tấm lòng yêu thương
của Thiên Chúa đối với các tín hữu đầu tiên. Bỏ hay đúng hơn là
vượt qua truyền thống tôn giáo ngàn năm, những người Do Thái không
dễ gì thực hiện được việc khó khăn này. Tin vào một con người
(Đức Giê-su Na-da-rét) đã sống như bao người, đã bị nhà cầm quyền
tôn giáo (đền thờ) và chính trị (đại diện đế quốc Rô-ma đô hộ)
loại trừ bằng bản án “gây rối phá hoại an ninh quốc gia” (nói
theo kiểu nói ngày nay) và bị giết chết trên thập giá mà nay được
các môn đệ công khai rao giảng là đã sống lại và là Đấng Thiên
Chúa thì lại càng là việc khó khăn hơn bội phần. Hơn ai hết Thiên
Chúa của Chúa Giê-su hiểu những khó khăn mà các tín hữu đầu tiên
gặp phải. Chính vì thấu hiểu và cảm thông với họ và với các môn
đệ của Chúa Giê-su trong công trình khó khăn và trọng đại là chinh
phục người ta tin theo Chúa, nên Thiên Chúa mới thực hiện nhiều
“dấu lạ điềm thiêng” cho cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi. Những
phép lạ nhãn tiền và kỳ diệu trở thành những “dấu chỉ” của sự
hiện diện và hành động của một Đấng Thiên Chúa đầy lòng xót thương
và từ bi.
(2)
Bài đọc 2 (Kh 1,9-11a.12-13.17-19)
là lời Thánh Gio-an Tông Đồ kể về một thị kiến tức một mạc khải
mà Thiên Chúa đã ban cho ngài để ngài chuyển lại cho các người/cộng
đoàn tin theo Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh. Nội dung thị kiến là
về chân tướng của Chúa Giê-su Ki-tô: "Đừng sợ! Ta là Đầu
và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến
muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ.”
Trong
đoạn thư Kh 1,9-11a.12-13.17-19 trên, chúng ta cũng thấy tấm lòng
yêu thương của Thiên Chúa đối với các tín hữu đầu tiên. Nhưng
ở đây Thiên Chúa Cha đáp ứng một nhu cầu rất quan trọng và thực
tế của người tín hữu: Chúng ta biết vào cuối đời của Thánh Gio-an
(cuối thế kỷ thứ nhất theo Công Nguyên) thì Hội Thánh ở nhiều
nơi đang phải đương đầu với những cuộc bách hại từ các nhà cầm
quyền tôn giáo và chính trị. Niềm tin vào Chúa Giê-su Ki-tô và
vào giáo lý của Người cần được củng cố nơi nhiều cá nhân và cộng
đoàn. Thị kiến của Thánh Gio-an có ý nghĩa trấn an và củng cố
các tâm hồn.
(3)
Bài Tin Mừng (Ga 20,19-31) là
tường thuật của Thánh Gio-an về hai cuộc hiện ra của Chúa Giê-su
Phục Sinh. Hai sự kiện ấy xẩy ra một vào chính ngày thứ nhất trong
tuần (sáng Chúa Nhật Phục Sinh) một vào tám ngày sau.
Trong
lần hiện ra lần đầu Chúa Ki-tô Phục Sinh xuất hiện một cách bất
ngờ và lạ lùng (cửa đóng kín mà ngài vào nhà được). Người ban
bình an cho các môn đệ là những người đang còn rất sợ sệt. Người
cho các ông xem cạnh sườn và dấu tay dấu chân bị đóng đinh của
cho các ông Người để họ nhận ra chính Người là Giê-su Na-da-rét
trước đó mấy ngày. Người giao sứ mạng mà Chúa Cha đã giao cho
Người là được sai đến với nhân loại. Người thổi hơi thở mới (sức
sống và tình yêu) trên họ và mời họ mở lòng đón nhận Thánh Thần
của Người.
Trong
lần hiện ra lần sau Chúa Ki-tô Phục Sinh cũng xuất hiện một cách
bất ngờ và lạ lùng (cửa đóng kín mà ngài vào nhà được). Người
cũng ban bình an cho các môn đệ là những người đang còn rất sợ
sệt. Người cho riêng ông Tô-ma (tông đồ này không có mặt ở lần
hiện ra trước và quả quyết với anh em là chỉ có bằng chứng mắt
thấy tai nghe tay sờ thì mới tin) đặt tay vào cạnh sườn và và
dấu tay dấu chân bị đóng đinh của Người. Người nói với Tô-ma”
“đừng cứng lòng nữa mà hãy tin!” Tô-ma đã tâm phục khẩu phục:
"Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa
của con!"
Qua
Bài Phúc Âm Ga 20,1-9 chúng ta không thấy tấm lòng yêu thương
của Chúa Giê-su đối với các môn đệ nói chung và với Tô-ma nói
riêng. Chúa Giê-su hiểu thấu tâm trạng, nỗi khó khăn, ngờ vực
và sợ sệt của các ông. Người thấy và biết các ông cần gì lúc này
và Người đáp ứng hơn mức cần thiết.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì
cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là Tin
& Làm Chứng Cho Chúa Ki-tô Phục Sinh và cho Thiên Chúa là
Cha của Chúa Ki-tô Phục Sinh là Đấng Giầu Lòng Thương Xót đối
với các môn đệ và loài người.
Làm
chứng hay thể hiện lòng tin vào Thiên Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương
Xót bằng tâm tình, thái độ, cử chỉ, lời nói và việc làm. Làm chứng
hay thể hiện lòng tin ấy không chỉ bằng lời kinh, tiếng hát mà
còn bằng cách truyền bá Lòng Thương Xót ấy trong gia đình và/nhất
là ngoài xã hội.
III.
SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi xét mình dựa vào hai
câu hỏi đơn sơ này:
- Tôi
cảm nghiệm Thiên Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót như thế nào?
- Tôi
truyền bá Thiên Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót bằng những
cách nào? ở những nơi nào? cho những ai?
IV.
CẦU NGUYỆN
(Có
thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
1.
Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng Giầu Lòng Thương Xót, Chúa đã thực
hiện nhiều điềm thiêng dấu lạ để xây dựng cộng đoàn tín hữu đầu
tiên và quy tụ nhiều người tin theo Chúa Ki-tô Phục Sinh là Con
Một Chúa. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa là Đấng
Giầu Lòng Thương Xót. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con và
người thời nay những dấu chỉ “hiển nhiên”
của sự hiện diện và hành động yêu thương của Chúa
trong chúng con và cộng đồng xã hội! Lạy Chúa, chúng con cầu xin
Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
2.
Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng Giầu Lòng Thương Xót, Chúa đã củng
cố lòng tin của các tín hữu và cộng đoàn đầu tiên bằng thị kiến
mà Chúa đã ban cho Thánh Gio-an Tông Đồ. Chúng con cảm tạ, ngợi
khen và chúc tụng Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót. Chúng con
xin Chúa củng cố lòng tin của chúng con và của những anh chị em
đang gặp thử thách và bách hại vì Đạo Chúa! Lạy Chúa, chúng con
cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
3.
Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng Giầu Lòng Thương Xót, Chúa đã làm cho
Con Chúa là Đức Giê-su trỗi dậy từ cõi chết, Chúa đã để cho Người
hiện ra với các tông đồ và nhiều tín hữu thời sơ khai đề củng
cố đức tin non yếu của họ. Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc
tụng Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót. Chúng con xin Chúa ban
Chúa Giê-su cho chúng con và cho những người thiện chí để chúng
con trở thành các môn đệ trung kiên của Con Một Chúa! Lạy Chúa,
chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.
Lạy Thiên Chúa Cha là Đấng Giầu Lòng Thương Xót, Chúa đã dùng
thánh nữ Maria Faustina để nhắc nhở loài người hôm nay nhớ và
tin vào Lòng Thương Xót Bao La của Chúa. Chúng con cảm tạ, ngợi
khen và chúc tụng Chúa là Đấng Giầu Lòng Thương Xót. Chúng con
xin Chúa ban Chúa Thánh Thần cho chúng con để chúng con mạnh dạn
và hăng say truyền bá quyền năng và lòng từ bi thương xót của
Chúa khắp mọi chốn mọi nơi! Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô
Nguyễn Văn Nội
Sàigòn ngày 04.04.2007
1.
Thánh Nữ Faustina Kowalska sinh ngày 25/8/1905 ở Glogowiec, nước
Ba Lan và qua đời tại Cracovia năm 1938, lúc mới có 33 tuổi. Faustina
là con thứ 3 trong đại gia đình gồm 10 anh chị em của một gia
đình nông dân rất sùng đạo. Lúc 16 tuổi, Faustina làm việc trong
những gia đình khá giả. Năm 20 tuổi, Faustina xin vào tu tại Dòng
các Nữ tu Đức Trinh Nữ rất thánh, Mẹ của Lòng Thương Xót. Từ nhỏ
Faustina đã nổi bật về đức tin, lòng mộ đạo và sự vâng lời. Faustina
thường lập đi lập lại lời này: “Nơi
Chúa Giêsu có tất cả sức mạnh của tôi.”
Trong
13 năm sống trong Dòng, Faustina đã được nhiều ơn mặc khải và
thị kiến (visions). Ngày 22/2/1931, trong lúc ở tại tu viện ở
Crakow, chị đã thị kiến Chúa Giêsu hiện ra với chị, và yêu cầu
chị thực hành ngày Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa. Chị thấy Chúa
Giêsu trong phẩm phục màu trắng với một tay chúc lành,còn tay
kia chỉ vào tim của Chúa . Tấm hình đã được vẽ lại và loan truyền
đi khắp thế giới . Sau những lần mạc khải, nữ thánh Faustina đã
ghi chép lại rằng Chúa Giêsu yêu cầu lần chuỗi kính Lòng Thương
Xót Chúa, để cầu cho người mắc tội trọng và cũng có thể khấn xin
ơn riêng cho mình. Vào ba giờ chiều mỗi ngày, hãy cầu nguyện cho
kẻ có tội cùng tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu, vì Chúa cũng
đã sinh thì trong giờ này.
Trong
cuốn nhật ký "Lòng Thương Xót Chúa
Trong Linh Hồn Tôi" chị Faustina viết: “Buổi
chiều khi đang ở trong phòng, tôi bổng thấy một thị kiến: Chúa
hiện ra trong trang phục màu trắng, bàn tay mặt giơ lên như để
chúc lành, bàn tay trái áp nơi con tim, từ nơi đó phát xuất hai
luồng ánh sáng, một luồng đỏ và một luồng trắng. Tôi im lặng nhìn
chằm chặp vào Chúa. Tâm hồn tôi dâng lên một nỗi sợ hãi, nhưng
đồng thời với một niềm vui sướng khôn tả. Sau đó, Chúa Giêsu nói
với tôi : 'Con hãy họa một bức ảnh giống
như con đã thấy, kèm theo chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi
Ngài'. Ta hứa rằng linh hồn nào tôn sùng Ta qua hình ảnh
này - sẽ không bị hư mất. Ta cũng hứa sẽ cho họ được chiến thắng
những kẻ thù của họ trên trái đất này, đặc biệt là trong giờ chết.
Ta sẽ bảo vệ họ như chính bảo vệ vinh quang của Ta. Ta sẽ hiến
dâng nhân loại một nguồn mạch mà từ đó tuôn ra những ân sủng của
Lòng Thương Xót. Nguồn mạch đó là bức ảnh này và dòng chữ: 'Lạy
Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Ngài'. Ta mong mỏi bức ảnh
này phải được tôn sùng đầu tiên trong nhà nguyện của con, sau
đó trên toàn thế giới" (trích tài liệu trong
thanhlinh.net/ lòng thương xót).
CẢM TẠ VÀ TÔN VINH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT!
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH NĂM C
[Cv 5, 12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-19; Ga 20,19-31]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Chính Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II là Vị Giáo Hoàng đã thiết lập Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa và cổ võ lòng sùng kính này trong Hội Thánh theo mạc khải (tư) mà Thiên Chúa đã ban cho thánh nữ Maria Faustina:
“Ta muốn ngày Lễ Kính Lòng Thương Xót là một trợ giúp và nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, Lòng Thương Xót của Ta sẽ rộng mở; Ta sẽ tuôn đổ một đại dương hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch Lòng Thương Xót của Ta.” (Trích nhật ký, số 699).
Việc Hội Thánh mừng Lễ Lòng Thương Xót Chúa vào Chúa Nhật II Phục Sinh thật vô cùng ý nghĩa! vì cái chết thập giá của Chúa Giê-su là biểu hiện cao nhất, mạnh mẽ nhất của Lòng Chúa Thương Xót dành cho loài người.
Vì thế các bài Thánh Kinh hôm nay phải được đọc và suy niệm theo hướng chúc tụng, tôn vinh và cảm tạ Lòng Chúa Thương Xót!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lời Chúa trong bài đọc 1 (Cv 5, 12-16): Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa Giê-su, cả đàn ông đàn bà rất đông. 12 Hồi ấy nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các Tông Đồ. 13 Không một ai khác dám nhập đoàn với họ. Nhưng dân thì lại ca tụng họ. 14 Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông. 15 Người ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phê-rô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó. 16 Nhiều người từ các thành chung quanh Giê-ru-sa-lem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành.
2.2 Lời Chúa trong bài đọc 2 (Kh 1,9-11a.12-13.17-19): Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời. 9 Tôi là Gio-an, một người anh em của anh em, tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân, cùng hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Đức Giê-su. Lúc ấy, tôi đang ở đảo gọi là Pát-mô, vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng của Đức Giê-su. 10 Tôi đã xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đằng sau tôi có một tiếng lớn như thể tiếng kèn 11 nói rằng: "Điều ngươi thấy, hãy ghi vào sách và gửi cho bảy Hội Thánh.
12 Tôi quay lại để xem tiếng ai nói với tôi. Khi quay lại, tôi thấy bảy cây đèn vàng. 13 Ở giữa các cây đèn, có ai giống như Con Người mình mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng.
17 Lúc thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy. Người đặt tay hữu lên tôi và nói: "Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. 18 Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ. 19 Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này.
2.3 Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Ga 20,19-31): Tám ngày sau, Đức Giêsu dến. 19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! " 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." 24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. 25 Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."
26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." 27 Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." 28 Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! " 29 Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" 30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI KINH THÁNH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa
3.1.1 Bài đọc 1 (Cv 5,12-16) là đoạn Sách Tông Đồ Công Vụ miêu tả nét đặc thù của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi với nhiều dấu lạ điềm thiêng mà Thiên Chúa thực hiện trong/qua cộng đoàn ấy. Với những phép lạ chữa bệnh và trừ quỉ của các Tông đồ nói chung và của Tông đồ trưởng Phê-rô nói riêng, cộng đoàn đã tạo nên một sức hút mạnh mẽ khiến mọi người phải ngưỡng mộ. Cũng vì thế mà càng ngày càng có nhiều người gia nhập vào cộng đoàn Ki-tô hữu mới này.
à Trong đoạn sách Cv 5,12-16 trên chúng ta thấy rõ tấm lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với các tín hữu đầu tiên. Bỏ hay đúng hơn là vượt qua truyền thống tôn giáo ngàn năm, những người Do-thái không dễ gì thực hiện được việc khó khăn này. Tin vào một con người (Đức Giê-su Na-da-rét) đã sống như bao người, đã bị nhà cầm quyền tôn giáo (đền thờ) và chính trị (đại diện đế quốc Rô-ma đô hộ) loại trừ bằng bản án “gây rối phá hoại an ninh quốc gia” (nói theo kiểu nói ngày nay) và bị giết chết trên thập giá mà nay được các môn đệ công khai rao giảng là đã sống lại và là Đấng Thiên Chúa thì lại càng là việc khó khăn hơn bội phần. Hơn ai hết Thiên Chúa của Chúa Giê-su hiểu những khó khăn mà các tín hữu đầu tiên gặp phải. Chính vì thấu hiểu và cảm thông với họ và với các môn đệ của Chúa Giê-su trong công trình khó khăn và trọng đại là làm cho người ta tin theo Chúa, nên Thiên Chúa mới thực hiện nhiều “dấu lạ điềm thiêng” cho cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi. Những phép lạ nhãn tiền và kỳ diệu trở thành những “dấu chỉ” của sự hiện diện và hành động của một Đấng Thiên Chúa đầy lòng xót thương và từ bi.
3.1.2 Bài đọc 2 (Kh 1,9-11a.12-13.17-19) là lời Thánh Gio-an Tông Đồ kể về một thị kiến tức một mạc khải mà Thiên Chúa đã ban cho ngài để ngài chuyển lại cho các người/cộng đoàn tin theo Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh. Nội dung thị kiến là về chân tướng của Chúa Giê-su Ki-tô: "Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ.”
àTrong đoạn văn sách Kh 1,9-11a.12-13.17-19 trên, chúng ta cũng thấy tấm lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với các tín hữu đầu tiên. Nhưng ở đây Thiên Chúa Cha đáp ứng một nhu cầu rất quan trọng và thực tế của người tín hữu: Chúng ta biết vào cuối đời của Thánh Gio-an (cuối thế kỷ thứ nhất theo Công Nguyên) thì Hội Thánh ở nhiều nơi đang phải đương đầu với những cuộc bách hại từ các nhà cầm quyền tôn giáo và chính trị. Niềm tin vào Chúa Giê-su Ki-tô và vào giáo lý của Người cần được củng cố nơi nhiều cá nhân và cộng đoàn. Thị kiến của Thánh Gio-an có ý nghĩa trấn an và củng cố các tâm hồn.
3.1.3 Bài Tin Mừng (Ga 20,19-31) là tường thuật của Thánh Gio-an về hai cuộc hiện ra của Chúa Giê-su Phục Sinh. Hai sự kiện ấy xẩy ra, một vào chính ngày thứ nhất trong tuần (sáng Chúa Nhật Phục Sinh) một vào tám ngày sau.
* Trong lần hiện ra lần đầu Chúa Ki-tô Phục Sinh xuất hiện một cách bất ngờ và lạ lùng (cửa đóng kín mà Người vào nhà được). Người ban bình an cho các môn đệ là những người đang còn rất sợ sệt. Người cho các ông xem cạnh sườn và dấu tay dấu chân bị đóng đinh của Người, để các ông nhận ra Người. Người giao sứ mạng mà Chúa Cha đã giao cho Người là tìm đến với nhân loại. Người thổi hơi thở mới (sức sống và tình yêu) trên họ và mời họ mở lòng đón nhận Thánh Thần.
* Trong lần hiện ra lần sau Chúa Ki-tô Phục Sinh cũng xuất hiện một cách bất ngờ và lạ lùng (cửa đóng kín mà Người vào nhà được). Người cũng ban bình an cho các môn đệ là những người đang còn rất sợ sệt. Người cho riêng ông Tô-ma (tông đồ này không có mặt ở lần hiện ra trước và quả quyết với anh em là chỉ có bằng chứng mắt thấy tai nghe tay sờ thì mới tin) đặt tay vào cạnh sườn và và dấu tay dấu chân bị đóng đinh của Người. Người nói với ông Tô-ma: “đừng cứng lòng nữa mà hãy tin!” Ông Tô-ma đã tâm phục khẩu phục mà thưa với Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! "
à Qua Bài Phúc Âm Ga 20,1-9 chúng ta thấy rõ tấm lòng yêu thương của Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh đối với các môn đệ nói chung và với ông Tô-ma nói riêng. Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh thấu hiểu tâm trạng, nỗi khó khăn, ngờ vực và sợ sệt của các tông đồ. Người thấy và biết các ông cần gì và Người đáp ứng hơn mức cần thiết.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là Tin & Làm Chứng cho Thiên Chúa và cho Chúa Ki-tô Ki-tô Phục Sinh là Đấng Giầu Lòng Thương Xót.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa
là Đấng Giầu Lòng Từ Bi Thương Xót, thấu suốt mọi nhu cầu của con cái loài người và đáp ứng một cách quảng đại sự mong chờ của các tâm hồn tin cậy phó thác vào Chúa.
Chúng ta sống với Người bằng tâm tình ngưỡng mộ cảm phục và biết ơn.
Chúng ta còn sống với Người bằng cách noi gương Người mà thể hiện một tấm lòng quảng đại xót thương với mọi người chung quanh.
4.2 Thực thi Sứ điệp của Lời Chúa
Làm chứng hay thể hiện lòng tin vào Thiên Chúa Giầu Lòng Thương Xót bằng tâm tình, thái độ, cử chỉ, lời nói và việc làm. Nói cách khác là chẳng những chúng ta thể hiện lòng tin ấy bằng lời kinh, tiếng hát mà còn bằng cách sống bao dung, quảng đại và xót thương đối với mọi người trong gia đình và ngoài xã hội.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ.» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các dân tộc sống trên mặt địa cầu này, để nhiều người khám phá ra Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa Hằng Sống và là Chủ Tể Muôn Loài!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.2 «Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông.» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho tất các cả các Ki-tô hữu, cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế, để mọi tín hữu nhiệt tâm làm chứng cho Chúa Giê-su Ki-tô chết và phục sinh và lôi kéo nhiều người tin theo Chúa và Hội Thánh!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.3 «Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy có được lòng tin mạnh mẽ và luôn có những tâm tình thích hợp đối với Chúa Ki-tô Phục Sinh!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.4 «Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người không tin và những người yếu tin, để những người ấy biết mở rộng tâm hồn mà đón nhận ơn Cứu Độ mà Thiên Chúa muốn ban cho mọi người!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. .
|
|