Suy Niệm Chúa Nhật 1 Phục Sinh, năm C
by Trầm Thiên Thu
April 23, 2019
XIN ƠN PHỤC SINH
Lạy Đức Chúa phục sinh
Xin ban nguồn thương xót
Giúp gia tăng hiệp nhất
Mọi người luôn chân thành
Lạy Đức Chúa phục sinh
Xin ban nguồn sống mới
Cho những người yếu đuối
Được vững mạnh, an lành
Lạy Đức Chúa phục sinh
Xin Ngài luôn hiện diện
Thúc giục sống thánh thiện
Cho tất cả gia đình
Lạy Đức Chúa phục sinh
Xin tăng lực biến đổi
Quyết tâm xa lánh tội
Sống trọn ơn phục sinh
Xin ban sự an bình
Mọi nơi trên thế giới
Khiến kẻ ác biến đổi
Thôi bách hại dân lành
TRẦM THIÊN THU
Bát Nhật Phục Sinh – 2019
CHO
[Niệm khúc Cv 3:1-10]
Chẳng nhiều người giàu có
Nên không dư giả gì
Thương xót người nghèo khó
Biết lấy gì mà cho?
Không cho điều tốt đẹp
Thì cũng đừng hại nhau
Cười vừa lành vừa tốt
Vẫn truyền tải thương yêu
Làm mọi sự vì Chúa
Luôn có giá trị cao
Dù làm việc nhỏ bé
Không hẳn việc lớn đâu
Một lời cầu thành ý
Cũng là xót thương nhau
Cách cho mới là quý
Dù của cho chẳng nhiều
TRẦM THIÊN THU
NGƯỜI LẠ
[Niệm khúc Lc 24:13-35]
Em-mau trời ngả bóng chiều
Hai người nặng bước và xao xuyến lòng
Thế là mọi thứ đã xong
Chẳng còn hy vọng mà mong ước gì
Mặt trời lặn cuối trời xa
Khuất cả tiền đồ, thôi nghĩ viển vông
Em-mau thăm thẳm con đường
Bàn đi tính lại, cõi lòng rối thêm
Gặp người khách lạ, chẳng quen
Đôi câu chuyện vãn cho quên nỗi buồn
Tối rồi thì đến lúc ăn
Người lạ chia phần bánh mới bẻ ra
Ôi chao, là Chúa đây mà!
Mắt quáng mắt mờ nên chẳng thấy quen
Chúa không xa, Chúa ở gần
Hiện thân ở chính tha nhân bên mình
Vậy mà mặc kệ, coi khinh
Bóng xa tìm bắt, bỏ tình gần đây!
Xin thương mở mắt con ngay
Để nhận biết Ngài nơi mỗi tha nhân
Dù cho người lạ hay quen
Vẫn khuôn mặt Chúa dịu hiền phục sinh
TRẦM THIÊN THU
Bát Nhật Phục Sinh – 2019
ĐẤNG THƯƠNG XÓT PHỤC SINH
Chúa Giêsu đã phục sinh
Nhiệm mầu minh chứng ân tình xót thương
Tín nhân tin tưởng tựa nương
Sống tình thương xót để mong Quê Trời
Chúa thương xót mãi muôn đời
Phản chiếu rạng ngời Con Chúa phục sinh
Niềm vui hạnh phúc lung linh
Máu hồng và nước trắng tinh – đôi dòng
Chảy ra từ cạnh nương long
Thánh Tâm của Đấng oai hùng phục sinh
TRẦM THIÊN THU
Bát Nhật Phục Sinh – 2019
ĐẶT VẤN ĐỀ
[Niệm khúc Cv 2:36-41]
Người ta đã biết mười mươi
Giêsu sống lại như lời hứa xưa
Lương tâm cắn rứt sớm khuya
Muốn biết điều gì cần phải làm ngay
Trước tiên là phải thế này
Chịu Phép Rửa để được đầy hồng ân
Hằng ngày sám hối, canh tân
Tránh xa tội lỗi, gian tham, lọc lừa
Sống ngay thẳng, chẳng gian tà
Hồng ân cứu độ chan hòa trong tim
TRẦM THIÊN THU
CHỨNG NHÂN
[Niệm khúc Ga 20:11-18 ≈ Mt 28:9-10; Mc 16:9-11]
Ma-ri-a Mác-đa-la
Đứng bên mộ khóc tỉ tê đau buồn
Bất ngờ hai vị thiên thần
Hỏi sao bà khóc, thở than nỗi gì?
Bà rằng chẳng thấy Chúa mô
Xác Ngài ai đã lấy đi mất rồi
Bà quay lại, thấy một người
Người làm vườn chứ chẳng ai đâu mà
Nghe quen giọng gọi tên bà
Thì ra là Chúa, ai mà lạ đâu
Vâng lời Chúa bảo về mau
Báo tin và kể lại điều thấy đây
Chứng nhân thứ nhất của Ngài
Ma-ri-a đó, tuyệt vời biết bao!
Tin Mừng Sống Lại huyền siêu
Mau mau loan báo cho nhau biết liền!
TRẦM THIÊN THU
Bát Nhật Phục Sinh – 2019
HỐI LỘ
[Niệm khúc Mt 28:8-15]
Thượng tế và kỳ mục
Mưu kế độc với nhau
Cho quân lính tiền bạc
Phao tin đồn tào lao
Kẻ ác luôn hèn hạ
Đủ thủ đoạn bất nhân
Sự thật vẫn còn đó
Dù bẻ dọc, bẻ ngang
Tiền bạc không có tội
Nhưng hiện thân quỷ ma
Tạo lòng tham, hối lộ
Khiến người ta ngã sa (*)
Chúa Giêsu bị bán
Vì kẻ tham bạc tiền
Lương tâm hóa táng tận
Đồn tin giả khắp miền
Tin giả là có thật
Bởi kẻ xấu tạo ra
Người thật mà hóa giả
Bè lũ của quỷ ma
TRẦM THIÊN THU
Phục Sinh – 2019
(*) 1 Tm 6:10 – “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé”.
Con chim cất tiếng líu lo
Hót giai điệu đẹp hoan ca đầu ngày
Hoan ca Chúa Nhật ngất ngây
Mừng Chúa muôn loài sống lại hiển vinh
Líu lo chim hót bình minh
Nắng pha lê chiếu lung linh ánh vàng
TRẦM THIÊN THU
Phục Sinh – 2019
KÍNH MỪNG PHỤC SINH
Kính mừng Con Chúa phục sinh
Đất trời mới, ánh bình minh sáng ngời
Môn sinh giờ đã biết cười
Các bà cũng chẳng còn rơi lệ sầu
Mọi người hạnh phúc vui reo
Phục sinh điệp khúc vút cao tưng bừng
Al-le-lui-a hào hùng
Rộn rã kính mừng Con Chúa phục sinh
TRẦM THIÊN THU
Nghe lời phụ nữ khó tin
Phải đi kiểm chứng, phải nhìn tận nơi
Ôi chao, họ nói đúng rồi
Mấy bà nói thật, chẳng lời vẩn vơ
Chính mình mới thật ngu ngơ
Cứng lòng mà lại cứ chê trách người
Chúa Giêsu sống lại rồi
Sự thật rạch ròi, chẳng có vu vơ
Người tin không phải là khờ
Người không tin mới đúng là... “đáng thương”
Vô thần dở dở ương ương
Phao tin đồn nhảm là phường ác nhân
TRẦM THIÊN THU
Sáng sớm Chúa Nhật Phục Sinh – 2019
MỘ TRỐNG, LÒNG ĐẦY
[Hoan ca Lc 24:1-12 ≈ Mt 28:1-10; Mc 16:1-8; Ga 20:1-9]
Các bà vội vã ra đi
Khi trời tảng sáng, sương khuya vẫn còn
Đem theo dầu quý, dầu thơm
Cõi lòng nặng trĩu nỗi buồn chưa nguôi
Ô kìa, kỳ lạ quá trời!
Tảng đá bên ngoài, ai đã lăn ra?
Hai người ngời sáng xiêm y
Hỏi sao lại kiếm Giêsu nơi này
Ngài không còn ở nơi đây
Vì Ngài đã sống lại ngay đêm rồi
Đúng như Ngài đã hứa lời
Mọi sự rạch ròi, sự thật minh nhiên
Trở về họ kể lại liền
Các tông đồ chẳng chịu tin các bà
Phêrô đứng dậy, chạy đi
Rõ ràng mộ trống, thật là ngạc nhiên!
Gioan cũng thấy và tin
Hiển nhiên sự thật, chẳng còn hồ nghi
Trống trơn ngôi mộ đá kia
Nhưng lòng đầy ắp diệu kỳ niềm tin
TRẦM THIÊN THU
Phục Sinh – 2019
KHOẢNG TĨNH LẶNG
Can-vê vắng vẻ giờ đây
Phủ kín độ dày tĩnh lặng thương đau
Không còn quang cảnh xôn xao
Cũng không còn những tiếng kêu rợn người
Cửa ngôi mộ đá khép rồi
Nhưng niềm hy vọng tuyệt vời trong tim
Xung quanh tất cả im lìm
Lính canh cẩn mật, mắt nhìn gian manh
Ác nhân mưu chước tinh ranh
Hả hê tự mãn cho mình thành công
Xem chừng khoảng lặng mênh mông
Trong lòng kẻ ác, trong lòng thân nhân
Chúa trong mộ đá nằm yên
Đức Mẹ bồn chồn cùng nhóm môn sinh
TRẦM THIÊN THU
Thứ Bảy Tuần Thánh – 2019
Chúa Nhật Phục Sinh, chúng ta cần biết điều Giáo Hội yêu cầu. Tâm lý gia Jordan Peterson, người Canada, nói về phương pháp tâm lý và biểu tượng mà ông đánh giá về sự phục sinh là nguyên lý giải thoát quan trọng, nhưng ông nói rằng vấn đề phục sinh của Chúa Giêsu là vấn đề “khó hiểu và phức tạp”.
Tâm lý gia Jordan Peterson đã SAI LẦM. Vấn đề đơn giản thôi: Có một thời điểm trong lịch sử mà Chúa Giêsu đã chết và rồi có một thời điểm mà Ngài sống lại chăng? Về vấn đề này, chứng cớ rất mạnh mẽ: Có, Chúa Giêsu đã sống lại từ trong cõi chết.
1. TRANH LUẬN VỀ SỰ YẾU ĐUỐI CỦA ĐỨC KITÔ
Cần phải nhìn vào cách tường thuật trong Tân Ước. Bằng vài cách, đây không là “truyện huyền thoại về sự phục sinh”, như truyện Phoenix mà những người đa nghi theo kiểu Peterson đã đề cập.
Chúa Giêsu không là một nhân vật huyền thoại đầy phép thuật đã chiến thắng kẻ thù. Ngài có vẻ yếu đuối lắm. Ngài đã thốt lên: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha. Lạy Thiên Chúa, sao Ngài bỏ rơi con?” (Lc 22:42; Mt 26:39 và 42; Mc 14:36 – Mt 27:46; Mc 15:34).
Sau khi bị đóng đinh, hình ảnh anh hùng của Chúa Giêsu không phai nhạt trong tâm trí những người theo Ngài. Các tông đồ trở lại vì có điều khác lạ đã xảy ra: Thủ-lãnh-thua-cuộc của họ đã SỐNG LẠI từ cõi chết.
2. TRANH LUẬN VỀ SỰ YẾU ĐUỐI CỦA CÁC TÔNG ĐỒ
Nếu các tông đồ lập ra một tôn giáo, họ không làm theo cách đa số các vị sáng lập của một tôn giáo mới đã làm. Họ không làm cho họ vĩ đại và xứng đáng kính trọng. Họ làm cho họ giống như tàu hỏa hư hỏng.
GLCG cho biết: “Phúc Âm giới thiệu cho chúng ta các tông đồ yếu đuối và sợ hãi. Họ không tin các phụ nữ vừa thăm mộ trở về và không tin lời các bà nói. Khi Chúa Giêsu hiện ra với 11 tông đồ vào chiều Chúa Nhật Phục Sinh, Ngài quở trách họ không tin à cứng lòng, bởi vì họ đã không tin các phụ nữ đã thấy Ngài sau khi Ngài sống lại”. Nếu họ lập ra một tôn giáo, họ làm điều sai lầm, và người ta có lý do để không tin họ.
3. SAOLÊ BIẾN ĐỔI
Ngoài các tông đồ, có trường hợp của Thánh Phaolô. Ông từng là người hăng hái bách hại những ai tin vào Đức Kitô sống lại. Đây là cuộc biến đổi khác thường: Saolê trở thành Phaolô. Nếu Đức Kitô không sống lại thì chỉ là vô nghĩa.
Thánh Phaolô lặp đi lặp lại sự kiện phục sinh của Đức Kitô, ngay cả lúc ông bị bắt bớ. Điều đó củng cố đức tin của chúng ta, tất cả đều khác hẳn đối với ông. Thậm chí ông còn nói: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15:14). Ông dám “cá cược” mọi thứ về sự phục sinh thực sự của Đức Kitô, và mời gọi chúng ta cũng làm như vậy.
4. GIÁO HỘI SƠ KHAI KHÔNG TRANH LUẬN
Giáo Hội sơ khai tranh luận nhiều điều cơ bản, ngay cả bản chất của sự phục sinh, nhưng không tranh luận về sự kiện phục sinh. Đó là điều đã rõ.
Theo Phúc Âm theo Thánh Gioan, khi hai ông Phêrô và Gioan đến thấy ngôi mộ trống, các băng vải còn ở đó, có cả khăn che đầu của Chúa Giêsu, không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Đối với Gioan, quang cảnh đó cho thấy rằng Chúa Giêsu không còn ở đây, Ngài đã sống lại nhưng không sống lại như Ladarô đã sống lại. Có điều mới lạ đã xảy ra. Phúc Âm cho biết: “Ông đã thấy và ông đã tin”.
5. ĐỨC TIN CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO
Các Kitô hữu, từ những ngày đầu cho tới nay, vẫn sẵn sàng chết vì tin chắc rằng Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết. Đối với họ, sự phục sinh không là giấc mơ ngọt ngào mà họ ấp ủ, mà là một thực tế khó khăn mà họ phải chịu đau khổ và chết đi.
Thánh Ignatius, bị sư tử xé xác vì đức tin năm 108, xác định: “Chúa Giêsu thực sự sống lại từ kẻ chết, Chúa Cha phục sinh Ngài, và cũng như vậy sau khi Chúa Cha cho những người đã tin Ngài qua Đức Giêsu Kitô”. Thánh tử đạo Polycarp, bị thiêu sống vì đức tin năm 155, nói: “Chúa Giêsu sống lại từ kẻ chết cũng sẽ cho chúng ta sống lại, nếu chúng ta làm theo ý Ngài, sống theo mệnh lệnh của Ngài, và yêu mến những gì Ngài yêu mến”.
6. LỜI KỂ “MÂU THUẪN”
Các tác giả Tin Mừng bao gồm các chi tiết khác nhau và các tài liệu từ các nguồn khác nhau – tất cả đều đề cập sự phục sinh. Chúng ta có các câu chuyện trên đường Emmaus, bữa sáng trên bờ biển, Thomas nói rằng Chúa Giêsu vẫn còn dấu đinh, Maria Mácđala, và còn nữa... Các câu chuyện này đều minh chứng một sự thật: Chúa phục sinh.
Những người nghi ngờ Kinh Thánh đã chỉ ra các điểm khác nhau giữa các lời kể, còn những người bảo vệ Kinh Thánh cho thấy cách các điểm đó cùng tồn tại. Đây là điểm quan trọng thường bị bỏ mất: Họ đọc như kinh nghiệm của những người khác nhau về cùng một sự kiện, chứ không như một nỗ lực ý thức của một nhóm người để hiểu sự việc.
7. NHÂN CHỨNG
Trong thư gởi giáo đoàn Côrintô, các học giả cho rằng có thể được viết vào khoảng năm 53, Thánh Phaolô nói về cách Đức Kitô hiện ra sống động với 500 người. Nếu đó là điều không thật, chắc hẳn không thể được đề cập rất sớm sau khi sự kiện đó xảy ra.
Khi Phaolô nói đi nói lại về Chúa phục sinh, có hai điều quan trọng đối với ông: Ngôi mộ trống rỗng, và Chúa Giêsu hiện ra với nhiều người. Đó là các chứng cớ thuyết phục bởi vì chúng tương đối dễ dàng để những người nghe bác bỏ.
8. LỊCH SỬ KHÔNG THUỘC KITÔ GIÁO
Chỉ có một số ít chứng cớ về sự hiện hữu của Chúa Giêsu trong các nguồn cổ xưa như Tacitus, Pliny the Younger, Josephus, Babylonian Talmud, và Lucian of Samosata của Hy Lạp. Các tài liệu này đề cập các phương diện trong cuộc đời của Chúa Giêsu.
Sử gia Josephus, người Do Thái, viết lịch sử vào năm 93, nói rằng Chúa Giêsu bị đóng đinh và sau đó hiện ra với những người theo Ngài. Mặc dù bản văn được các học giả đặt vấn đề, vẫn có nhiều bản không thừa nhận yếu tố chính về việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại.
Tacitus cũng đề cập Chúa Giêsu, nói rằng Ngài bị đóng đinh vì không thể chấm dứt “sự dị đoan” của Kitô giáo. Tuy nhiên, cuộc tranh luận về nhiều bản văn vẫn cho rằng quan điểm của Tacitus là đúng. Tại sao việc đóng đinh của Chúa Giêsu chấm dứt phong trào tôn giáo? Bởi vì Ngài sống lại từ cõi chết.
9. CHÚA GIÊSU KHÔNG CHẾT NỮA
Các chứng cớ không chỉ ủng hộ sự phục sinh của Chúa Giêsu, mà còn ủng hộ yêu cầu chủ yếu của Ngài: Chính Ngài là Thiên Chúa.
Các tài liệu khác trở lại từ cái chết ngắn ngủi trong thời đại chúng ta, và từ cái chết lâu dài trong các câu chuyện của Tân Ước. GLCG cho biết: “Đức Kitô phục sinh là điều khác. Nơi thân xác phục sinh, Ngài trải qua từ sự chết tới sự sống khác vượt ngoài không gian và thời gian. Khi Chúa Giêsu phục sinh, thân xác Ngài đầy quyền năng Chúa Thánh Thần: Ngài chia sẻ sự sống thần tính trong trạng thái vinh quang, thế nên Thánh Phaolô có thể nói rằng Đức Kitô là Người của Trời”. Chúa Giêsu đã sống lại và không bao giờ chết nữa.
10. HỒI PHỤC TÔN GIÁO
Kitô giáo lan rộng và phát triển mặc dù bị bách hại chứ không vì các tông đồ hoặc đức tin, nhưng vì trải nghiệm sự phục sinh của Kitô giáo thời sơ khai. Sự kiện lịch sử về sự phục sinh của Đức Kitô, trong thân xác vinh quang, là tòa nhà đối với mọi chiều kích của đức tin Công giáo. Đây là vài điểm:
– Chúng ta có thể gặp Chúa Giêsu bằng cách nào, mặc dù chúng ta không sống khi Ngài bước đi trên những con đường ở Palestine? Bởi vì Ngài đã sống lại từ cõi chết và ngày nay Ngài vẫn đang sống.
– Chúng ta có thể được tha tội bằng cách nào khi thú tội? Bởi vì sau khi phục sinh, Ngài đã thổi hơi vào các tông đồ và ban cho họ quyền tha tội.
– Tại sao chúng ta hy vọng về trời? Bởi vì Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời để chuẩn bị cho chúng ta.
Lễ Phục Sinh, chúng ta không cử hành sự huyền thoại hoặc biểu tượng tâm lý, mà chúng ta cử hành sự kiện lịch sử là nền tảng của mọi niềm hy vọng, niềm vui mừng và niềm hạnh phúc.
Alleluia! Chúa Giêsu đã sống lại thật. Đức tin của chúng ta không mơ hồ, không hão huyền hoặc vô ích.
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ Aleteia.org)
Đại Lễ Phục Sinh – 2019
PHÚC LÀNH THƯƠNG XÓT
Trong lần thị kiến ngày 20-4-1968 tại Milan (Ý), Mẹ Carmel hỏi: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn con làm gì?”. Chúa Giêsu nói: “Hỡi con gái của Ta, con hãy viết. Con sẽ làm Tông đồ Tình Yêu Đầy Thương Xót của Ta. Ta sẽ chúc lành cho con. Và Cha sẽ đổ xuống trên con muôn vàn ơn Thánh, và những ân thưởng lớn lao. Ta cảm ơn con đã phổ biến Thánh Nhan của Ta. Ta sẽ chúc lành cho các gia đình trưng bày hình ảnh của Ta, và Ta sẽ cải hoán những kẻ tội lỗi sống trong các gia đình đó. Ta sẽ giúp kẻ lành tự cải tiến thêm, và những kẻ nguội lạnh trở nên sốt sắng hơn. Ta sẽ để mắt đến các nhu cầu của họ, và sẽ giúp họ trong mọi sự cần thiết, vật chất cũng như siêu nhiên”. Chúa Giêsu đã xác nhận: “TA LÀ GIÊSU ĐẦY LÒNG THƯƠNG XÓT”.
Qua Thánh Faustina, Chúa Giêsu đã hứa: “Linh hồn nào truyền bá Lòng Thương Xót của Ta sẽ được Ta bảo bọc suốt đời” (Nhật Ký, 1075). Đồng thời Chúa Giêsu cũng khuyến cáo: “Nhân loại sẽ không có hòa bình nếu không tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót” (Nhật Ký Thánh Faustina, số 300).
Như chúng ta đã biết, ngày 30-4-2000 là ngày Giáo Hội tuyên thánh cho Nữ tu Maria Faustina Kowalska (OLM, 1905-1938), và cũng là ngày Thánh GH Gioan Phaolô II chính thức ấn định Chúa Nhật II Phục Sinh là lễ kính Lòng Chúa Thương Xót (LCTX). Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót và cũng chính là Chúa Chiên Lành, hai cách gọi nhưng vẫn mang một ý nghĩa. Vả lại, đó cũng chính là ước muốn của Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina, vị Tông Đồ tiên khởi của LCTX.
Một điều hợp lý kỳ diệu, bởi vì chính Chúa Giêsu đã bày tỏ với Thánh Faustina: “Ta muốn một tấm hình được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta muốn tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi linh hồn đều biết đến tấm hình đó” (Nhật Ký, số 341). Tất cả mọi thứ, dù chỉ là một sợi tóc mỏng manh còn trên đầu hay rụng xuống, cũng không ngoài Thánh Ý Chúa.
Chúa Nhật II PS thật đặc biệt vì trong ngày này, “linh hồn nào xưng tội và rước lễ sẽ được ân xá cả tội lỗi và hình phạt” (Nhật Ký, số 699). Đó là lời hứa chắc chắn mà Chúa Giêsu đã xác định: “Ta muốn ban ơn tha thứ hoàn toàn cho các linh hồn nào xưng tội và rước lễ trong ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Ta” (Nhật Ký, số 1109). Ai có niềm tin chân chính thì thành tâm thi hành điều mà Thầy Chí Thánh Giêsu mong muốn, làm như vậy với lòng tín thác chứ không phải là nhắm vào lợi ích riêng, bởi vì không khéo lại trở thành lạm dụng hoặc lợi dụng LCTX.
Niềm tin không cầu kỳ, phức tạp, chỉ đơn giản là CHẤP NHẬN hay TỪ CHỐI. Thế thôi, có vẻ rất đơn giản mà lại phức tạp, vì khoảng cách chỉ là một làn ranh mong manh. Vấn đề quan yếu là tin ai, tin cái gì, và tin như thế nào? Động từ TIN có vẻ đơn giản, nhưng vấn đề TIN lại không hề đơn giản. Cái khoảng “giằng co” đó cần phải thực sự can đảm thì mới có thể dứt khoát, sâu sắc, đúng kiểu tin mà Chúa Giêsu vẫn đề cập mỗi khi Ngài chữa lành: “Niềm tin của bạn đã cứu bạn”.
Bằng cảm nghiệm sâu xa, Thánh nữ Faustina đã tâm sự: “Lạy Chúa Giêsu, khi con được đắm chìm vào Ngài, nếu so sánh với Ngài, mọi sự chỉ là không. Đau khổ, chống đối, nhục nhã, thất bại, và hoài nghi trên đường con đi, tất cả chỉ như viên đá lửa làm làm bùng lên ngọn lửa tình yêu con dành cho Ngài mà thôi” (Nhật Ký, số 57). Cảm nghiệm đau khổ là cảm nghiệm sự thật phũ phàng mà Chúa Giêsu đã phải chịu khi những người thân nhất lại nỡ lòng phản bội, và bị người ta vu oan giáng họa.
Là người Công giáo, hằng ngày chúng ta tuyên tín qua kinh Tin (Lạy Chúa, con tin thật có một Đức Chúa Trời là Đấng thưởng phạt vô cùng…), và mỗi Chúa Nhật cùng nhau tái tuyên xưng: “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình…”, rồi lại tuyên xưng sau truyền phép (Lạy Chúa, chúng con loan truyền…; Lạy Chúa, mỗi lần ăn bánh…; Lạy Chúa cứu thế, Chúa đã dùng Thánh Giá…). Các động thái tin được lặp lại nhiều lần trong ngày, đơn giản nhất là khi chúng ta làm Dấu Thánh Giá, nhưng rất quan trọng khi chúng ta thể hiện lúc ăn uống ở tiệm. Thật buồn khi thấy có những người không dám Làm Dấu, có những người Làm Dấu mà chỉ là Làm Giấu hoặc làm chiếu lệ.
Xuyên suốt Kinh Thánh, LCTX luôn được đề cập bằng nhiều cách, đặc biệt trong Phúc Âm có một số dụ ngôn “điển hình” về LCTX: Người Samari Tốt Lành (Lc 10:30-37), Con Chiên Bị Mất (Lc 15:4-7), Đồng Bạc Bị Mất (Lc 15:8-10), và Người Cha Nhân Hậu (Lc 15:11-32).
Tuy nhiên, có điều quan trọng cần lưu ý: Đừng đến với LCTX với sự tò mò, chỉ tìm kiếm những “sự lạ”. Đôi khi chỉ vì “hiện tượng lạ” nào đó chứ không vì “phép lạ của lòng tin”. Phép lạ thực sự hằng ngày là Bí tích Thánh Thể nhưng người ta lại không quan tâm. Kể cũng “lạ” thật!
Thánh Luca cho biết trong sách Công Vụ: “Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các Tông Đồ. Không một ai khác dám nhập đoàn với họ. Nhưng dân thì lại ca tụng họ. Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông, đàn bà rất đông” (Cv 5:12-14). Họ đã chấp nhận lời rao giảng của các Tông Đồ là thật nên họ mới TIN vào Đức Kitô là Thiên Chúa, và sẵn sàng tín thác vào LCTX. Vô tri bất mộ.
Không chỉ vậy, còn có điều đặc biệt hơn nữa: “Người ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó. Nhiều người từ các thành chung quanh Giêrusalem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành” (Cv 5:16). Quả thật là “sự lạ” hiển nhiên!
Ngày xưa, Thánh Vịnh gia đã lên tiếng tuyên xưng: “Ít-ra-en hãy nói lên rằng: muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Nhà A-ha-ron hãy nói lên rằng: muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Ai kính sợ Chúa hãy nói lên rằng: muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:2-4). Điệp khúc “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọng tình thương” thật là tuyệt vời vô cùng!
Đôi khi cái cụ thể vẫn cần thiết. Tương tự, niềm tin phải được thể hiện ngay cả trong lúc gian truân, đó mới là đức tin chân thật: “Chúng xô đẩy tôi, xô cho ngã, nhưng Chúa đã phù trợ thân này. Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi. Kìa nghe tiếng reo mừng chiến thắng trong doanh trại chính nhân: Tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực” (Tv 118:13-15). LCTX có từ ngàn xưa chứ không phải theo phong trào. Thật vậy, Thiên Chúa vẫn thương xót mặc dù Cain đã phạm tội giết em mình, Cain lo sợ nhưng Ngài hứa: “Bất cứ ai giết Cain sẽ bị trả thù gấp bảy” (St 4:15).
Cuộc sống đời thường mà vẫn khác thường, các sự lạ không ngừng nối tiếp nhau: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ” (Tv 118:22-24). Nỗi vui mừng ấy thật rộn rã, tưng bừng hoan hỉ và không thể diễn tả đầy đủ bằng phàm ngôn!
Chân thành bộc bạch, Tông-đồ-trẻ-được-Chúa-yêu cho biết: “Tôi là Gioan, một người anh em của anh em, tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân, cùng hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Đức Giêsu. Lúc ấy, tôi đang ở đảo gọi là Pát-mô, vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng của Đức Giêsu. Tôi đã xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đằng sau tôi có một tiếng lớn như thể tiếng kèn nói rằng: ‘Điều ngươi thấy, hãy ghi vào sách và gửi cho bảy Hội Thánh: Ê-phê-xô, Xi-miếc-na, Péc-ga-mô, Thy-a-ti-ra, Xác-đê, Phi-la-đen-phi-a và Lao-đi-ki-a’. Tôi quay lại để xem tiếng ai nói với tôi. Khi quay lại, tôi thấy bảy cây đèn vàng. Ở giữa các cây đèn, có ai giống như Con Người mình mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng” (Kh 1:9-13). Số 7 kỳ diệu – được coi là con số hoàn hảo về số lượng và về tâm linh.
Sau đó, Thánh Gioan còn cho biết thêm: “Lúc thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy. Người đặt tay hữu lên tôi và nói: Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ. Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này” (Kh 1:17-19). Đó là điều tiên tri, đã đúng, đang đúng và sẽ đúng đến từng chi tiết, dù một chấm một phẩy cũng không sai (x. Mt 5:18).
Một điều minh nhiên mà Giáo Hội đang hân hoan tin kính là Chúa Giêsu Phục Sinh. Là hậu sinh, chúng ta không được chứng kiến sự kiện trọng đại này, nhưng chúng ta vẫn TIN. Đó là sự may mắn mà chúng ta có được niềm hạnh phúc kỳ diệu như vậy. Và đó là phép lạ thực sự, bởi vì không thấy mà vẫn tin – đức tin có lý trí kiểm chứng chứ không nhẹ dạ cả tin hoặc mê tín dị đoan.
Theo lời chứng trong Kinh Thánh (Ga 20:19-31), vào chiều ngày ấy – ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở đều đóng kín các cửa, vì các ông sợ người Do Thái quấy rầy, kiếm chuyện. Bất ngờ Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”. Cửa đóng, then cài, thế mà Chúa Giêsu vào một cách dễ dàng. Vẫn Con Người đó, nhưng hoàn toàn khác nhau giữa lúc còn là xác thể trần tục (cũ) và xác thể đã biến đổi (phục sinh, nên mới). Thân xác chúng ta mai mốt cũng được trở nên như vậy – sau khi chết và sống lại. Thế thì kỳ diệu quá, thật tuyệt vời biết bao!
Vừa chúc bình an xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn để minh chứng là Ngài đã sống lại thật như Ngài đã nói trước. Các môn đệ vui mừng vì được gặp lại Thầy như vậy. Rồi Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Hai lần Ngài chúc bình an, đồng thời Ngài cũng trao sứ vụ cho những người tin theo Ngài: Làm nhân chứng loan báo Tin Mừng và Lòng Thương Xót. Ngài còn trao quyền tha tội khi Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ”. Đó là Bí tích Hòa Giải, một bí tích liên quan Lòng Thương Xót. Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến cùng nên Ngài tìm mọi cách để cứu độ chúng ta.
Hôm đó, khi Chúa Giêsu hiến ra với Nhóm Mười Hai, không hiểu vì lý do gì mà vắng mặt Tôma – cũng gọi là Điđymô. Sau đó, các môn đệ khác nói với ông rằng “đã được thấy Chúa”, nhưng Tôma thản nhiên nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Rồi tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, lần này có cả ông Tôma. Các cửa cũng vẫn đóng kín. Đức Giêsu lại hiện đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. Rồi Ngài bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Ông Tôma hết hồn hết vía bèn sụp lạy mà thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”. Không thấy mà vẫn tin, vậy mới đáng nói. Chúa Giêsu xác định điều đó mới là diễm phúc. Đức tin quan trọng lắm, bởi vì người ta nên công chính cũng nhờ đức tin – cụ thể như Tổ Phụ Ápraham và Đức Dưỡng Phụ Giuse.
Ngoài ra, Thánh sử Gioan còn xác định: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em TIN rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô là Con Thiên Chúa, và để anh em TIN mà ĐƯỢC SỰ SỐNG nhờ danh Người”. Động từ TIN cứ được lặp đi lặp lại nhiều lần, điều này càng chứng minh rằng TIN là điều thực sự vô cùng quan trọng. Tin Chúa là tin vào tình yêu của Ngài, tin vào Ơn Cứu Độ của Đức Kitô, và tín thác vào Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa – Đấng Tam Vị Nhất Thể.
Tin tưởng và tín thác được cụ thể bằng việc cầu nguyện. Nhưng cầu nguyện như thế nào? Thánh Faustina cho biết cách cầu nguyện hiệu quả và đẹp lòng Thiên Chúa: “Khi cầu nguyện, chúng ta ĐỪNG NÀI ÉP CHÚA ban cho điều chúng ta muốn, mà chúng ta NÊN TUÂN PHỤC Thánh Ý Ngài” (Nhật Ký, số 1525). Vâng ý Cha chứ không phải theo ý riêng mình.
Niềm tin cũng cần được lưu ý, bởi vì Thánh Phaolô đã từng cảnh báo: “Lạ gì đâu! Vì chính satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ nó đội lốt người phục vụ sự công chính. Chung cục, chúng sẽ lãnh nhận hậu quả công việc chúng đã làm” (2 Cr 11:14-15). Đừng lẫn lộn giữa phép lạ và sự lạ, vì có thể rất dễ lầm tưởng!
Lạy Thiên Chúa hằng hữu, xin cho chúng con được ngụp lặn trong Đại Dương Thương Xót của Ngài và được tắm gội trong Máu và Nước tuôn ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Vì cuộc khổ nạn đau thương của Đức Giêsu Kitô, xin thương xót dân Việt chúng con và toàn thế giới. Xin Thánh Faustina và Thánh Gioan Phaolô II cầu thay nguyện giúp cho chúng con, hôm nay và mãi mãi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
SỢ và MỪNG
(Lễ Vọng Phục Sinh – năm C)
Lối Gian Nan Dẫn Tới Miền Hạnh Phúc
Đường Thập Giá Đưa Về Cõi Trường Sinh
Bóng tối biến tan vì ánh sáng tràn ngập. Tội lỗi đỏ như son và thẫm tựa vải điều chợt hoá trắng như bông (Is 1:18). Bất công phải khuất phục vì công minh chính trực. Sự ác phải thoái lui khi sự thật trị vì. Tử thần chiến bại trong tủi nhục khi Đức Kitô sống lại trong vinh quang y như lời Ngài đã nói trước. Phục Sinh là Miền Ánh Sáng, là Cõi Sống chan chứa Hồng Ân, là tặng phẩm của Lòng Chúa Thương Xót.
Trình thuật St 1:1–2:2 tường thuật chi tiết về quá trình Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ từ thuở hồng hoang. Giáo hội muốn nhắc chúng ta nhớ lại công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, vì sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô là công cuộc sáng tạo mới, những thụ tạo bị chết bởi tội đã trở thành những thụ tạo sống động nhờ Đức Kitô vâng phục và hoàn tất ơn cứu độ: Alleluia!
HÀNH TRÌNH VỀ ĐẤT HỨA
Đó là một hành trình đằng đẵng suốt 40 năm, chặng cuối cùng là vượt qua Biển Đỏ. Khi dân chúng hành trình về Đất Hứa và gặp bước hoạn lộ, Đức Chúa đã phán với ông Môsê: “Có gì mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái Ít-ra-en cứ nhổ trại. Phần ngươi, cầm gậy lên, giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa lòng biển, để con cái Ít-ra-en đi vào. Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá. Chúng sẽ tiến vào theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh bại Pharaô cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy. Người Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là Đức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại Pharaô cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy” (Xh 14:15-18). Quả thật, nước đã rẽ ra cho dân đi qua, khi người Ai-cập đuổi theo thì nước ập lại, họ hoảng hồn mà không kịp chạy thoát.
Tất cả chúng ta cũng đang trên đường lữ hành trần gian, tức là chúng ta cũng đang làm một cuộc xuất hành, một hành trính tiến về Đất Hứa, không là Đất Hứa bình thường ở thế gian này mà là về Thiên Quốc – Đất Hứa Vĩnh Sinh. Theo lẽ thường, hành trình nào cũng lắm gian nan, đầy vất vả, cam go vô cùng – dù đó là hành trình dài hay ngắn. Nhưng thật hạnh phúc vì Thiên Chúa luôn độ trì, Ngài không bỏ mặc chúng ta một giây phút nào.
Đêm nay, đêm ánh sáng, đêm hồng phúc, chúng ta cùng xem lại các chi tiết mà Sách Xuất Hành tường thuật:
Thiên sứ của Thiên Chúa đi trước hàng ngũ Ít-ra-en, lại rời chỗ mà xuống đi đàng sau họ. Cột mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau, chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Ít-ra-en. Bên kia thì mây toả mịt mù, bên này thì mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm không xáp lại gần nhau được. Ông Môsê giơ tay trên mặt biển, Đức Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước rẽ ra, và con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. Quân Ai-cập đuổi theo; toàn thể chiến mã, chiến xa và kỵ binh của Pharaô tiến vào giữa lòng biển, đằng sau dân Ít-ra-en.
Vào lúc gần sáng, từ cột lửa và mây, Đức Chúa nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập, Ngài gây rối loạn trong hàng ngũ chúng. Ngài làm cho chiến xa kẹt bánh, khiến chúng phải vất vả mới di chuyển nổi. Quân Ai-cập bảo nhau: “Ta phải trốn bọn Ít-ra-en, vì Đức Chúa chiến đấu chống lại người Ai-cập để giúp họ”. Đức Chúa phán với ông Môsê: “Hãy giơ tay trên mặt biển, nước sẽ ập xuống trên quân Ai-cập cùng với chiến xa và kỵ binh của chúng”. Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, và biển ập lại như cũ. Quân Ai-cập đang chạy trốn thì gặp nước biển, Đức Chúa xô ngã quân Ai-cập giữa lòng biển. Nước ập xuống, vùi lấp chiến xa và kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của Pha-ra-ô đã theo dân Ít-ra-en đi vào lòng biển. Không một tên nào sống sót. Còn con cái Ít-ra-en đã đi giữa lòng biển khô cạn, an toàn nhờ Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập.
Sau đó, toàn dân biết kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Mô-sê – tôi trung của Chúa. Bấy giờ ông Môsê cùng với con cái Ít-ra-en đồng thanh hát mừng Đức Chúa: “Tôi xin hát mừng Chúa, Đấng cao cả uy hùng: Kỵ binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương. Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi. Người là Chúa tôi thờ, xin dâng lời vinh chúc, Người là Chúa tổ tiên, xin mừng câu tán tụng” (Xh 15:1-2).
Bất cứ một tù nhân nào cũng vô cùng hạnh phúc khi được phóng thích, ngỡ như vừa từ Hỏa ngục được vào Thiên đàng vậy. Ai đã từng vào tù rồi mới khả dĩ cảm nhận được niềm vui sướng khi đuộc ra khỏi nhà tù. Bệnh nhân rất hạnh phúc khi được phục hồi. Người đang khát rất hạnh phúc khi được giải khát. Người mong chờ rất hạnh phúc khi được mãn nguyện. Và còn nhiều dạng hạnh phúc khác khi chúng ta được như ý. Nhưng chắc chắn không có hạnh phúc nào lớn hơn hạnh phúc được “cải tử hoàn sinh”.
Các Kitô hữu và những người Công giáo luôn có một niềm hạnh phúc khác nữa là CHÚA GIÊSU THỰC SỰ PHỤC SINH, đúng như lời Ngài đã nói trước: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9:31). Và mọi điều đã xảy ra đúng từng chi tiết.
Nỗi lo, nỗi buồn, nỗi sợ, nỗi khổ,... chồng chất chật cả Tuần Thánh, nhất là “miền” Tam Nhật Vượt Qua, nhưng đêm nay niềm vui nối tiếp nỗi mừng. Cho nên trong bài Công bố Tin mừng Phục sinh (Exultet), Giáo hội nhiều lần mời gọi mọi người “mừng vui lên!”, vì Đức Kitô “đã thay thế chúng ta trả nợ của Adam với Chúa Cha muôn thuở, và đã lấy máu hồng quý giá rửa sạch án tổ tông xưa”, và “vì đây là lễ vượt qua, lễ mà Chiên thật bị sát tế, trong máu Chiên môi miệng tín hữu được thánh hiến đêm nay”.
Đêm nay còn là đêm hạnh phúc tột đỉnh vì “là đêm mà cha ông chúng ta, là con cháu Israel, thoát ly Ai Cập xưa, Chúa đã cho tiến qua Biển Đỏ vẫn khô chân; là đêm nhờ ánh sáng cột lửa thiêng xóa tan mọi bóng tối nhân gian; là đêm mà hết những ai có lòng tin Chúa Kitô khắp trên trần gian, được cứu thoát hết các vết nhơ và tối tăm tội khiên, được ơn thiêng đưa về hợp đoàn cùng các thánh nhân; và “là đêm mà xiềng xích bị bẻ tung, Đức Kitô khải hoàn chiến thắng vinh quang”.
Đặc biệt đêm nay còn là đêm hạnh phúc vì “nếu không được ơn cứu chuộc khỏi tội khiên, chúng ta sinh ra nào có ích chi!”. Thật kỳ diệu đối với phàm nhân: “Ôi nhiệm mầu thay! Lòng Yêu Thương của Chúa không ai hiểu thấu!”. Niềm vui đêm nay được nhân lên vì “tội Adam đã được tẩy xóa chính nhờ sự chết Chúa Kitô!”.Niềm vui tột đỉnh nên Giáo hội gọi Tội Nguyên Tổ là “tội hồng phúc”,chính tội-hồng-phúc đó “đã ban cho chúng ta Đấng cứu chuộc rất cao sang”, và Giáo hội gọi đêm nay là “đêm hồng phúc”, vì đêm nay là “đêm nối kết trời đất”.
Rất rạch ròi, Tv 33:4-6 đã minh định: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất. Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú”. Có đau khổ mới biết hạnh phúc ngọt ngào thế nào, và muốn vinh quang thì phải biết chịu đựng đau khổ. Đức Kitô đã đau khổ tột cùng nên mới được vinh quang, vì thế: “Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp” (Tv 33:12). Đồng thời chúng ta phải luôn cầu nguyện với Chúa: “Xin đổ tình thương xuống trên chúng con như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22). Lời cầu đó cũng là lời hứa của chúng ta thân thưa với Ngài.
HÀNH TRÌNH VỀ CÕI SỐNG
Chính câu hỏi của Thánh Phaolô cũng chính là câu trả lời: “Anh em không biết rằng khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Ngài sao?” (Rm 6:3). Thánh Phaolô giải thích: “Được dìm vào trong cái chết của Ngài là chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:4). “Được dìm vào cái chết của Đức Kitô” lại chính là niềm hạnh phúc của chúng ta. Nghe chừng quá “ngược đời”, người không có niềm tin sẽ không thể hiểu nổi. Nhưng đó lại là sự thật 100%.
Cụm từ “được dìm vào cái chết của Đức Kitô” không chỉ diễn tả niềm hạnh phúc mà còn diễn tả sự may mắn của chúng ta, vì “chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Ngài đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Ngài, nhờ được sống lại như Ngài đã sống lại” (Rm 6:4), không chỉ vậy, “con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa” (Rm 6:6). Đó là cả một chuỗi kỳ diệu của cuộc đời người Công giáo.
Thật vậy, không kỳ diệu sao được bởi vì “ai đã chết thì thoát khỏi quyền lực của tội lỗi” (Rm 6:7). Chắc chắn như vậy, bởi vì “nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6:8). Thánh Phaolô xác quyết đó là niềm tin của chúng ta. Từ 3 giờ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, Tử thần tưởng đã chiến thắng, nhưng hắn đành “bó tay” từ Đêm Vọng Phục Sinh: “Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết thì không bao giờ Ngài chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Ngài”. Ngài đã chết là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ” (Rm 6:9-10). Đức Giêsu sống lại thật, Ngài sống cho Thiên Chúa, và chắc chắn chúng ta cũng cùng sống lại với Ngài. Còn hạnh phúc nào hơn? Đó là điều “trên cả tuyệt vời”. Nhưng không thể cứ “khơi khơi”, không thể cứ “thấy sang bắt quàng làm họ”, hoặc “cục muối cắn đôi, còn cục đường ăn cả”, mà phải có điều kiện “ắt có và đủ”, nghĩa là ai đã thực sự sống Mùa Chay thì mới có thể cảm nhận niềm vui phục sinh, và ai đã “dám chết cho tội” thì mới xứng đáng cùng phục sinh với Đức Kitô: “Hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6:11).
Ngắn gọn nhưng rõ ràng và chính xác, Thánh sử Luca tường thuật: Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giêsu đâu cả. Họ còn đang phân vân, thì bỗng có hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại” (Lc 24:5-7).
Các phụ nữ này đến mộ nhưng vẫn rất sợ người Do-thái làm khó dễ, khi đến nơi lại chẳng thấy thi hài Thầy Giêsu đâu, họ càng hoang mang hơn. Phụ nữ mà! Thiên thần phải nhắc họ nhớ lại những điều Đức Giêsu đã nói. Và rồi họ mới an tâm. Khi từ mộ trở về, các bà léo nhéo kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy, giành nhau mà nói, nói như sợ người khác nói mất. Phụ nữ mà! Mấy bà nói đây là bà Maria Mađalena, bà Gioanna, và bà Maria, mẹ ông Giacôbê. Cũng có thêm một số các bà khác cùng đi với mấy bà này và cũng nói với các Tông Đồ y như vậy.
Tuy nhiên, các ông cho đó là chuyện vớ vẩn, thế nên các ông cứ bán tín bán nghi. Ra vẻ nam nhi ấy mà! Tuy vậy, có lẽ bán tín bán nghi nên ông Phêrô liền đứng lên chạy ù ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn vào hầm mộ thì… ui da, ông thấy chỉ còn có những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra, nhưng chắc là mẩm bụng: “Mấy bà này nói đúng thật!”.
Thật là tội nghiệp cho các chị em phụ nữ quá! Ngay buổi chiều Thứ Sáu, họ không sợ, cứ cứ lẽo đẽo bước đi để tiễn biệt Chúa Giêsu lên Đồi Can-vê như “đưa đám tang sống”, và họ khóc lóc thảm thiết, khóc hết nước mắt. Chúa Giêsu nói rõ cho họ biết: “Hỡi chị em thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28). Thế mà bây giờ, biết Chúa Giêsu đã sống lại thì họ lại sợ hãi và chạy có cờ. Phụ nữ là vậy, thông cảm. Thế nhưng nam giới cũng chẳng hơn gì họ đâu đấy!
Điều quan trọng nhất và cần quan tâm nhất lúc này là xác tín: ĐỨC KITÔ ĐÃ PHỤC SINH, và HÃY VUI MỪNG LÊN – ALLELUIA!
Chúa Giêsu đã sống lại là ấn tín để chúng ta tiếp tục kiên trì trên hành trình đức tin hàng ngày, tiến về Miền Đất Hứa Đời Đời. Chắc chắn hành trình đó luôn có nhiều gian khổ. Để tự nhủ và động viên lẫn nhau, chúng ta cùng ghi nhớ lời Chúa Giêsu đã nói với Thánh nữ Faustina: “Con đừng ngạc nhiên vì đôi khi bị tố cáo bất công. Chính Ta đã từng uống chén đau khổ bất công này trước vì yêu con” (Nhật Ký, số 289).
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, tất cả là hồng ân vô biên của Ngài. Chúng con thật hạnh phúc được đắm mình trong Sông Ân Biển Tứ của Lòng Thương Xót bao la của Ngài. Chúng con xin tạ ơn Chúa Cha đã ban Thánh Tử Giêsu cho chúng con, chúng con xin tạ ơn Đức Kitô đã thương cứu độ chúng con, và chúng con xin tạ ơn Chúa Thánh Thần luôn hướng dẫn chúng con trong mọi hoàn cảnh. Cúi xin Ba Ngôi gìn giữ, nâng đỡ và thánh hóa chúng con, đừng để chúng con phải thiếu vắng Ngài một giây phút nào. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Thế của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
XÁC TÍN
(Chúa Nhật Phục Sinh)
Tử Thần thua cuộc đành khuất phục
Con Chúa phục sinh giữa vinh quang
Tin là diễm phúc, xác tín là đại phúc. Chúng ta là hậu sinh nhưng lại thực sự diễm phúc vì đã được biết rõ là Đức Kitô Giêsu đã sống lại vinh quang, chứ không bán tín bán nghi như những người thời Chúa Giêsu. Thật vậy, nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta chỉ là hoang đường!
Vâng, Con Thiên Chúa đã chiến thắng Tử Thần và phục sinh khải hoàn. Vì vậy, chúng ta không thể trì hoãn cái sự sung sướng này được, mà phải cùng nhau hân hoan hợp xướng: “ALLELUIA!”. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải cố gắng thực hiện trọng trách: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí Chúa đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4:22-24).
Ánh sáng Phục sinh đang chiếu tỏa chói ngời trên mỗi chúng ta, trên cả thế gian này. Chúng ta vô cùng vui mừng vì Đức Kitô đã sống lại thật và lòng chúng ta đầy tin tưởng nhờ Lời Chúa đã động viên: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1:17-18).
Đức Kitô đã sống lại thật. Đó là một sự thật minh nhiên, thật hơn cả sự thật, không thể chối cãi, lịch sử và khoa khảo cổ đã cho thấy nhiều chứng cớ về những gì liên quan Chúa Giêsu, chứng tỏ rằng thực sự có một Ông Giêsu bị đóng đinh, được mai táng và đã sống lại – dù sự thật này bị một số người bóp méo, vì họ cố chấp hoặc vô thần.
Đã và đang có các nhân chứng ở khắp nơi, điển hình nhất là ông Phêrô. Kinh Thánh cho biết: “Một hôm, tại nhà ông Co-nê-li-ô, ông Phêrô lên tiếng: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Chúng ta cũng nên nhớ rằng Kinh Thánh là bộ sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, và được bán chạy nhất thế giới, ước tính mỗi năm có thêm 100 triệu bản (*). Điều đó chứng tỏ rằng Kinh Thánh nói những điều có thật, chứ không hư cấu hoặc bịa đặt như một số người cố chấp.
Sau khi sám hối vì chối Thầy ngay lúc dầu sôi lửa bỏng nhất, ông Phêrô đã xác tín và can đảm nó sự thật: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào” (Cv 10:34). Đó là điều chắc chắn, và không loại trừ ai, vì mọi người đều bình đẳng trước mặt Chúa. Không ai có thể cậy quyền ỷ thế hoặc ảo tưởng mạo nhận là mình “ngon” hơn người khác!
Khi nói về Sư Phụ Giêsu, ông Phêrô đã giải thích rạch ròi từng chi tiết: “Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài. Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Ngài” (Cv 10:37-38). Sau khi lỡ chối bỏ Sư Phụ mình vì khiếp nhược và nhận biết sự thông cảm của Sư Phụ Giêsu khi Ngài quay lại nhìn mình (x. Lc 22:61), ông Phêrô “thót tim” khi thấy ánh mắt ấy “rất lạ”, vừa nhân từ vừa trách móc, nhẹ nhàng mà có sức xoáy vào sâu vào lòng người, nên ông đã “khóc hết nước mắt” (x. Lc 22:62), không chỉ hối hận mà còn tự xấu hổ, vì vừa mới chịu chức thánh xong (x. Ga 21:15-17) mà đã phản bội ngay, chính Thầy cho biết trước mà vẫn không tránh được. Thật khốn nạn!
Vô tri bất mộ. Biết rồi thì không thể lặng im. Và khi biết rõ Thầy Giêsu đã thực sự sống lại, ông Phêrô mạnh dạn nói một lèo, nói như chưa bao giờ được nói: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Ngài đã làm trong cả vùng dân Do Thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Ngài lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy, và cho Ngài xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Ngài, sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Ngài truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Ngài là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Ngài và nói rằng phàm ai tin vào Ngài thì sẽ nhờ danh Ngài mà được ơn tha tội” (Cv 10:39-43).
Trước đây, một Phêrô-năng-động-và-thẳng-tính (trước mặt đám côn đồ mà ông dám rút gươm chém đứt tai một người đầy tớ thầy thượng tế – Ga 18:10) đã biến thành một Phêrô-khiếp-nhược. Nhưng sau khi Chúa Giêsu phục sinh, một Phêrô-nhát-đảm đã biến thành một Phêrô-can-đảm, lại dám nói thẳng nói thật như xưa. Đó là tác động của Chúa Thánh Thần!
Chúng ta cũng vậy, cũng đã bao phen “chối” Chúa và “bán” Chúa không văn tự. Nếu không tin thì cứ “sờ gáy” và thật lòng xét mình kỹ lưỡng mà xem: Mỗi lần phạm tội là mỗi lần chối Chúa, mỗi lần lườm nguýt tha nhân là liếc xéo Chúa, vân vân và vân vân... Vô kể! Nhưng dù chúng ta có dã tâm với Ngài thì Ngài vẫn cho đó là “chuyện nhỏ”, và Ngài sẵn sàng “cho qua” hết. Vì thế, chúng ta hãy can đảm và tin tưởng mời gọi người khác cùng xưng tụng Ngài: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Cả Thánh vịnh 136 cũng lặp đi lặp lại 26 lần điệp khúc: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Chúng ta tin tưởng và đoan hứa: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:21). Tại sao? Vì:
Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ
Lại trở nên đá tảng góc tường
Đó chính là công trình của Chúa
Một công trình kỳ diệu vô thường
(Tv 118:22-23)
Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men” (1 Cr 5:6-7). Thật không dễ khi phải bỏ một thói quen cũ mà xấu, để sống theo một thói quen mới mà tốt. Muốn được vậy, người ta phải cố gắng rất nhiều và cố gắng không ngừng.
Thiên Chúa Ngôi Hai, Đức Kitô Giêsu, đã phục sinh, vì thế mà chúng ta cũng được sống lại và phải sống lại với Ngài. Thánh Phaolô minh định thêm: “Quả vậy, Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cr 5:8). Phải có đức tin mới khả dĩ thực hiện như vậy.
Người-môn-đệ-Chúa-yêu (tức là nhân chứng Gioan tông đồ) đã tường thuật: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mađalêna đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến.
Bà Maria Mađalêna hốt hoảng thông báo: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu” (Ga 20:2). Vì quá sợ bọn thủ ác mà ai cũng quên khuấy những gì Thầy mình nói trước. Nghe vậy, ông Phêrô và Gioan liền tức tốc đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng Gioan trẻ hơn nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào, vì lịch sự và vì “kính lão đắc thọ”.
Kẻ trước, người sau, rồi ông Phêrô cũng đến nơi. Kính lão đắc thọ. Ông Phêrô đến sau nhưng vào trước, vào thẳng trong mộ. Ông thấy những băng vải để và khăn che đầu Đức Giêsu có ở đó. Khăn che đầu không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ Gioan mới bước vào sau. Ông “đã thấy và đã tin” (Ga 20:8). THẤY và TIN là hai động từ quan trọng. Thấy rồi, liệu có đủ lòng tin? Nếu THẤY và TIN rồi thì phải có bổn phận LAM CHỨNG. Một quy trình hợp lý!
Theo Kinh Thánh cho biết, Đức Giêsu PHẢI trỗi dậy từ cõi chết. Nhưng trước đó, cả Phêrô và Gioan cũng chưa hiểu (x. Ga 20:9), dù cả hai ông đều là những đệ tử ruột của Chúa Giêsu. Thế nên người thời nay, kể cả chúng ta, không thấy thì rất khó tin. Chúng ta không thấy Chúa Giêsu, nhưng chúng ta có thể thấy những nhân chứng can đảm suốt đời sống và chết vì niềm tin vào Đức Kitô. Vả lại, chính Chúa Giêsu đã xác định: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29). Phần còn lại là có xác tín hay không, và đó là phần của mỗi chúng ta.
Xin được nhắc lại lời của Thánh nữ Bernadette (1844-1879, người được Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức): “Người tin thì không cần giải thích, người không tin thì có giải thích cũng vô ích!”.
Lạy Thiên Chúa chí thánh và toàn năng hằng hữu, xin Ngài ban thêm đức tin cho chúng con và xin giúp chúng con sống trọn niềm vui phục sinh ngay trên cuộc lữ hành trần gian này, đồng thời giúp chúng con can đảm làm chứng nhân của Ngài suốt cuộc đời này, mọi nơi và mọi lúc, qua từng nhịp thở. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Trong hơn nửa thế kỷ qua, Kinh Thánh là cuốn sách đứng đầu trong 10 cuốn sách được đọc nhiều nhất trên thế giới: [1] Kinh Thánh (3,9 tỷ bản), [2] Các Trích Dẫn từ Mao Trạch Đông (820 triệu bản), [3] Harry Potter (400 triệu bản), [4] Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn (103 triệu bản), [5] Nhà Giả Kim: 65 triệu bản, [6] Mật Mã Da Vinci (57 triệu bản), [7] Bộ truyện Chạng Vạng (43 triệu bản), [8] Cuốn Theo Chiều Gió (33 triệu bản), [9] Suy Nghĩ và Làm Giàu (30 triệu bản), [10] Nhật Ký của Anne Frank (27 triệu bản). Kinh Thánh là cuốn sách cổ xưa nhất nhưng lại có tỷ lệ “vượt trội” hơn các sách khác.
SUY TƯ MIỀN PHỤC SINH
ALLELUIA! Xristos Anesti! Christ is Risen! Đức Kitô Giêsu, Thiên Chúa của chúng ta, đã sống lại vinh quang!
Thi sĩ Paul Claudel (1868-1955, người Pháp) nhận định sâu sắc: “Chúa xuống thế không để diệt trừ đau khổ, cũng không giải nghĩa đau khổ, mà để chia sớt đau khổ”. Hẳn là Thi sĩ này có đức tin mạnh mẽ và rạch ròi lắm.
Đau khổ luôn là bí ẩn đối với phàm nhân. Càng chạy trốn đau khổ thì càng đau khổ. Muốn thoát đau khổ thì phải chiến thắng nó. Bằng cách nào? Đó là hãy đi xuyên qua nó! Thánh Phaolô cho biết: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5:8-9). Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định với Thánh Faustina: “Con đừng ngạc nhiên vì đôi khi bị tố cáo bất công. Chính Ta đã từng uống chén đau khổ bất công trước vì yêu con” (Nhật Ký, số 289).
Những kẻ thủ ác tự cho mình là KHÔN NGOAN và CHIẾN THẮNG, nhưng rồi họ lại hóa nên NGU XUẨN và CHIẾN BẠI. Và dù muốn hay không, họ cũng phải công nhận một sự thật minh nhiên về Tử Tội Công Chính GIÊSU: “Người này đích thực là người công chính, là Con Thiên Chúa!” (Lc 23:47; Mt 27:54; Mc 15:39).
Sau khi Chúa Giêsu đã sống lại, có những người vẫn cố chấp, họ tìm cách hối lộ và mua chuộc người khác để ngăn cản Tin Mừng về Đức Kitô Phục Sinh. Thánh Sử Mát-thêu cho biết: Có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, và bảo: “Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự” (Mt 28:13-14).
Thánh sử Mát-thêu cho biết thêm: “Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy, và câu chuyện này được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay” (Mt 28:15). Bọn lính thấy món tiền béo bở nên tối mắt hoặc nhắm mắt làm liều, bất cần phải – trái, đúng – sai, thật – giả. Thật tồi tệ! Thế nhưng sự thật vẫn là sự thật: Đức Kitô đã chiến thắng tử thần, chiến thắng bóng đêm, chiến thắng điều ác, chiến thắng tội lỗi, chiến thắng thế gian, chiến thắng ma quỷ. Quả thật, Chúa Giêsu đã phục sinh khải hoàn! Không ai có thể bóp méo chân lý “thật” này, dù người ta cố tình không tin và làm trái lương tâm.
Phần chúng ta, những người tin Đức Kitô Giêsu đã thực sự sống lại, chứ không mơ hồ, không a dua, hoặc nghe lời dụ dỗ của bất cứ ai. Đức tin cần có lý trí chứ không là cảm xúc tùy hứng. Thánh Phaolô, một người không tận mắt chứng kiến, vả lại hồi đó Phaolô rất ghét Chúa Giêsu, và ông đã ra tay bắt giết bất kỳ ai dám tin theo Ông Giêsu. Thánh Stẹphanô là nạn nhân của Phaolô. Nhưng rồi mọi chuyện đả xoay chuyển hoàn toàn khác hẳn sau cú ngã ngựa chí tử trên đường Damascus.
Chúng ta hãy nghe Thánh Phaolô nói: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:20-24).
Sự thật bị từ chối cũng vẫn là sự thật. Sự thật không lệ thuộc vào người ta tin hay không tin. Đừng “giả nai” hoặc cố chấp như Philatô mà đặt vấn đề: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38). Thánh Phaolô xác định: “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô” (1 Cr 15:25-26).
Ai càng đau khổ thì càng cảm thấy mức độ ngọt ngào càng nhiều của niềm hạnh phúc. Ai đã chết cho tội thì cũng cảm thấy niềm vui sướng khi được phục sinh với Đức Giêsu Kitô. Trong cuốn “St. Teresa of Avila” (Thánh Teresa Avila), tác giả William Thomas Walsh ghi lại lời của thánh nữ tiến sĩ này: “Để đạt tới vinh quang phục sinh, được nếm trước sự thú vị của Nước Trời ngay ở thế gian này, linh hồn phải biết về nỗi khao khát, niềm ước muốn, sự hiểu lầm, nỗi đau buồn, nỗi cô đơn nơi Vườn Dầu mà Thiên Chúa có vẻ như bỏ rơi, sự đóng đinh kéo dài của ước muốn xác thịt, của tham vọng, và của sự kiêu ngạo. Như vậy, linh hồn phải chiến đấu và mệt mỏi, cố gắng đứng dậy và té ngã, rồi lại té ngã và lại đứng dậy, lao vào và được kéo ra khỏi cơn khủng hoảng khủng khiếp, mỗi khi có vẻ như gặp nguy hiểm lao xuống vực thẳm của sự thất bại và sự chết”.
Vượt qua thật là ý nghĩa. Vượt ngưỡng khổ để qua miền sướng, vượt cõi chết để qua cõi sống, vượt cõi tội lỗi để qua miền hồi sinh. Phục sinh là sự sống mới. Thánh Phaolô nói: “Ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2 Cr 2:17). Tuyệt vời biết bao!
Đêm Phục Sinh là Đêm Hồng Phúc, Giáo hội mời gọi mọi người cùng “mừng vui lên” qua bài công bố Tin Mừng Phục Sinh Exultet (*): “Mừng vui lên, hỡi muôn lớp cơ binh thiên thần trên trời! Mừng vui lên, hỡi những nhiệm mầu Thánh này! Tiếng loa cứu độ hãy vang rền không gian, mừng reo chiến công khải hoàn Vua nhân trần”. Vâng, không thể trì hoãn sự vui mừng này được!
Mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta càng phải ghi nhớ và quyết tâm thực hành công bình và bác ái: “Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn; minh oan cho người khốn khổ, kẻ bần cùng, giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng, cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân” (Tv 82:3-4). Tất nhiên, chúng ta cũng phải khắc dạ ghi lòng điều mà Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11:26).
Trong niềm hạnh phúc và vui mừng tột độ khi hiện hữu giữa Miền Phục Sinh, chúng ta hân hoan cùng chúc mừng nhau lời của Đức Kitô Giêsu Phục Sinh: “Bình an cho anh em! – Pax vobis! – Peace to you!” (Lc 24:36; Ga 20:19, 20, 26).
TRẦM THIÊN THU
Phục Sinh – 2016