Suy Niệm Chúa Nhật Phục Sinh , năm C

by Trầm Thiên Thu

May 11, 2022

 

TÂM SINH TƯỚNG
Nhìn phong cách và động thái của ai đó, chúng ta có thể biết người đó như thế nào. Dĩ nhiên không tuyệt đối, nhưng có thể đa số và với mức đúng cao. Quả thật, tâm hồn thế nào sẽ phát tiết ra tướng mạo. Nói cho dễ hiểu, “tâm” là nhân của “tướng” và “tướng” là quả của “tâm” vậy.
Bề ngoài thể hiện bề trong, và ngược lại. Đó là một loại dấu hiệu hoặc dấu chỉ. Có nhiều loại dấu chỉ, có thể đó là điềm báo tốt hoặc xấu (gở). Dấu chỉ bình thường thì người ta gọi là dấu hiệu, còn về sức khỏe thì người ta gọi là triệu chứng – điềm báo xấu về một chứng bệnh nào đó, có thể trầm trọng hoặc nguy hiểm tới tính mạng. Thời gian qua, người ta “kinh nghiệm” rất nhiều về triệu chứng Cúm Tàu.
Dấu buồn còn đó. Vết đau còn đó. Có lẽ chưa bao giờ có năm nào nhiều gia đình có giỗ như năm nay – năm 2022. Bởi vì số tử vong vì Cúm Tàu trên thế giới là xấp xỉ 6.300.000 người, trong đó Việt Nam có vài chục ngàn trường hợp, có nhà có đến vài người mất, nhiều trẻ em hóa mồ côi vì mất cả cha mẹ. Thật tang tóc!
Bất cứ lĩnh vực nào cũng có dấu chỉ đặc trưng: tôn giáo, xã hội, kinh tế, chính trị, môi trường, y tế, giao thông, thời tiết,… và kể cả tâm linh. Thấy mây vần vũ, người ta đoán có thể mưa; thấy người khác khóc, người ta biết họ buồn; thấy người khác cười, người ta biết họ vui. Hằng ngày chúng ta thấy có nhiều dấu hiệu thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Chúa Giêsu nói về dấu chỉ thời tiết bình thường để nói về dấu chỉ thời đại: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy tất cả những điều đó, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi.” (Mt 24:32-33; Mc 13:28-29; Lc 21:30-31) Tại sao cần nhân biết dấu chỉ? Để ý thức và chuẩn bị hoặc “chấn chỉnh” điều gì đó cho hợp ý Chúa.
Mọi nơi và mọi lúc đều có các dấu chỉ. Mỗi thời mỗi khác. Thời Cựu Ước, dấu chỉ của giao ước là phép cắt bì, (Cv 7:8) dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm là các vầng sáng trên vòm trời, (St 1:14) dấu chỉ của một tâm hồn hạnh phúc là nét mặt vui tươi, (Hc 13:26) dấu chỉ giữa Thiên Chúa với dân chúng là ngày sabát. (Ed 20:12)
Các động thái cũng bày tỏ dấu chỉ: QUỲ GỐI là dấu chỉ của lòng sám hối, tôn thờ và cầu xin, (Cv 7:50; Cv 9:40; Cv 20:30; Kn 41:43; Et 3:2; Lc 5:8; Lc 22:41) ĐỨNG là dấu chỉ kính trọng, là tư thế của kẻ sống lại, (Kh 7:9; Kh 15:2) là tư thế của những người vượt qua về miền đất hứa, (Xh 12:11) là tư thế của những con người tự do, (Ga 5:1; Ep 6:1-4) CHẮP TAY hoặc KHOANH TAY thể hiện sự nghiêm trang và kính trọng, ĐẤM NGỰC chỉ sự khiêm nhường sám hối, DANG TAY chỉ sự cầu nguyện, LÀM DẤU THÁNH GIÁ là dấu chỉ nhận thức và tuyên xưng đức tin Kitô giáo, THINH LẶNG là dấu chỉ suy tư, suy niệm hoặc cầu nguyện,... Rất đa dạng về các dấu chỉ hoặc dấu hiệu.
Về việc truyền giáo, trình thuật Cv 14:21-26 cho biết: Sau khi đã loan Tin Mừng cho thành ấy và nhận khá nhiều người làm môn đệ, hai ông Phaolô và Banaba trở lại Lýtra, Icôniô và Antiôkhia. Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ, khuyên họ giữ vững đức tin và xác định: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa.” Lời xác định này cũng nhắc nhở và thức tỉnh mỗi chúng ta hôm nay. Chắc chắn không thể cứ tà tà hoặc cứ khơi khơi mà được vào Nước Trời. Không phải Chúa “chơi ép” hoặc hù dọa, mà đó là sự thật minh nhiên, vì Nước Trời là Viên Ngọc Quý Giá Nhất.
Hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục trong mỗi Hội Thánh. Sau khi ăn chay và cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin. Rồi hai ông đi qua miền Pixiđia mà đến miền Pamphylia, rao giảng lời Chúa tại Pécghê, rồi xuống Áttalia. Từ đó hai ông vượt biển về Antiôkhia, nơi mà trước đó các ông đã được giao phó cho ân sủng của Thiên Chúa để làm công việc vừa mới hoàn thành. Công việc gì cũng có mức độ khó khăn khác nhau, khó có thể nói việc nào khó hoặc dễ hơn việc nào. Chắc chắn công việc truyền giáo còn khó khăn hơn nhiều, rất cần sự kiên trì. Vả lại, việc chúng ta làm thì cứ làm cho tròn bổn phận, kết quả hay không là do Chúa quyết định.
Chắc chắn mỗi người chúng ta đều muốn công việc đạt kết quả, không ai muốn thất bại, nhưng còn tùy ý Chúa. Cần tâm niệm là “làm mọi sự vì đức ái” (1 Cr 16:14) và “xin cho ý Chúa được thể hiện.” (Cv 21:14) Thiên Chúa chí minh và chí thiện, Ngài thông suốt mọi sự, là “Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Ngài đã dựng nên.” (Tv 145:8-9)
Thất bại có thể là điều xấu đối với chúng ta, nhưng trong cách nhìn của Thiên Chúa, thất bại lại tốt cho chúng ta, ít nhất là Ngài muốn chúng ta không kiêu ngạo vì ỷ mình thành công hơn người khác. Thánh Vịnh gia thành tâm cầu nguyện: “Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng, để nhân loại được tường những chiến công của Chúa, và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.” (Tv 145:10-12)
Thiên Chúa vĩnh hằng, “triều đại Ngài thiên niên vĩnh cửu, vương quyền Ngài vạn đại trường tồn, Ngài thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm.” (Tv 145:13) Vì thế, người khôn ngoan luôn nhận biết mình hèn yếu, cần tín thác vào Ngài và chỉ mình Ngài mà thôi. Thiên Chúa tốt lành, chính Ngài sẽ lau khô mọi giọt lệ và tặng ban trời mới đất mới cho những ai thành tín. Thánh Gioan kể lại thị kiến: “Bấy giờ, tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang.” (Kh 21:1-2)
Tất cả đều mới. Cái gì mới thì lạ. Rất kỳ diệu. Rồi sau đó, Thánh Gioan nghe có tiếng hô to từ phía ngai: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.” (Kh 21:3-4) Rõ ràng. Rạch ròi. Hoàn toàn là sự thật, chắc chắn chứ không chút gì mơ hồ. Rồi Đấng-ngự-trên-ngai còn tuyên phán thêm: “Này đây Ta ĐỔI MỚI MỌI SỰ.” (Kh 21:5a) Và như vậy, tính xác thực càng được nâng cao hơn nữa!
Những lời cáo biệt của Chúa Giêsu trước cuộc khổ nạn và quy luật yêu thương tuyệt đối. Trình thuật Ga 13:31-35 cho biết dấu chỉ đặc biệt: Khi Giuđa ra khỏi phòng, Đức Giêsu nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.” Một câu ngắn mà từ ngữ “tôn vinh” xuất hiện tới 5 lần.
Khi nghe Sư Phụ Giêsu nói vậy, có lẽ các đệ tử vui lắm, vì có thể đã đến lúc mình cũng được sống sung sướng nhờ Thầy. Nhưng không phải như họ tưởng, bởi vì Chúa Giêsu nói: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do Thái: ‘Nơi tôi đi, các người không thể đến được,’ bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy.” Có lẽ họ bắt đầu lờ mờ hiểu về “sự chẳng lành” nào đó sắp xảy ra... Vâng, nhưng làm sao các đệ tử hiểu được hết ý cao siêu của Thầy, vì họ còn là phàm nhân và đầy mơ ước trần tục, còn Thầy là “người cõi trên” mà!
Và dấu hiệu đặc biệt nhất được chính Chúa Giêsu cho biết: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ NHẬN BIẾT anh em là môn đệ của Thầy ở ĐIỂM này: là anh em có LÒNG YÊU THƯƠNG NHAU.” Cũng chỉ một câu ngắn mà chữ “yêu thương” được lặp lại tới 4 lần.
Đạo của Đức Kitô Giêsu là Đạo Làm Người, là Nhân Đạo, điều mà ai cũng cần, tôn giáo nào cũng cần, xã hội nào cũng cần, thể chế nào cũng cần,… Nói chung là ai cũng cần, mà cần thì phải thực hiện. Rất chí lý, mình muốn có thì phải thể hiện với người khác. Luật Yêu là Khuôn Vàng Thước Ngọc, là “thước đo” cuộc sống: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta.” (Mt 7:12; Lc 6:31) Thánh Phaolô xác định: “Ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Yêu thương là chu toàn lề luật.” (Rm 13:8 và 10)
Tương tự, hiền triết Khổng Tử (551-479 trước công nguyên) đã dạy đệ tử: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân.” (Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác.) Và hiền triết Aristotle (384-322 trước công nguyên) cũng dạy: “Đừng áp đặt trên người khác những điều mà bạn không thích.”
Trong Do Thái giáo có hai trường phái đạo đức: Trường phái của Shammai chủ trương khắc khổ, và trường phái của Hilel chủ trương phóng khoáng. Một hôm, có một người đến xin học tập với Shammai, anh ta thưa: “Thưa thày, tôi muốn làm môn đệ thày, nhưng trước hết, xin thày cho tóm gọn luật phải giữ trong bao lâu tôi còn có thể đứng trên một chân để nghe thầy giảng.” Shammai liền đuổi anh ta đi và trao cho một cuốn sách dày về luật mà ông đang cầm trên tay. Anh ta đến gặp Hilel và cũng nói với ông lời ấy, Hilel nói với anh ta: “Những gì anh không thích thì đừng làm cho người khác, đó là tóm tắt về luật.” Anh ta giác ngộ và nhận thấy đó là BÀI HỌC QUÝ GIÁ NHẤT ở đời.
Lạy Thiên Chúa, xin ban Thần Khí và soi sáng cho con nhận ra Ý Ngài qua các sự kiện đời thường, những gì xảy ra với con, xin giúp con phân định đúng đắn và thực sự ý thức, sẵn sàng chấp nhận và thi hành theo Ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU

 

Chuá nhật 5 phục sinh, năm C

THĂNG THIÊN VÀ CUỘC ĐẤU TRANH ĐỨC TIN

Ngày nay nhiều Kitô hữu đang mất dần đức tin vì nhiều lý do. Đức tin có thể bị mất vì những bi kịch trong cuộc sống, thiếu thực hành đức tin theo thời gian, những cám dỗ nặng nề và mạnh mẽ, những vụ bê bối trong Giáo Hội, những tội chưa sám hối, những cuộc trôi dạt tình cờ, những mối quan hệ tan vỡ và ly dị, yếu đuối,... Sự mất đức tin tràn lan trong thời đại của chúng ta khiến cho việc duy trì và phát triển đức tin là cuộc đấu tranh lớn hơn nhiều so với việc bắt đầu đức tin ngay từ đầu.

Đức Kitô Phục sinh nhắc nhở các môn đệ, những người đã tin Ngài, về sự cần thiết phải duy trì niềm tin vào Ngài trong thế giới này: “Ai tin và chịu phép rửa thì sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án.” (Mc 16:16) Cho dù chúng ta đang trải qua những gì trong cuộc sống này hoặc những khó khăn mà chúng ta đang đối mặt, chúng ta không thể để mất niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép rửa. Nếu giữ vững niềm tin vào Ngài, chúng ta sẽ không bao giờ xa lạc khỏi con đường cứu rỗi.

Kinh Thánh cho chúng ta thấy hai cách có thể đánh mất đức tin nơi Đức Kitô Phục Sinh, với sự hiện diện và hành động của Ngài trong đời sống của chúng ta, mặc dù có Thần Khí Ngài ở trong chúng ta.

Thứ nhất, đức tin của chúng ta suy giảm đến mức chúng ta bị dao động trong cuộc sống bởi bất cứ điều gì ngoại trừ những chỉ dẫn của Chúa Giêsu. Chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã ban chỉ thị qua Chúa Thánh Thần cho các môn đệ mà Ngài đã chọn. Chúng ta biết rằng “có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô." (Rm 10:17) Khi chúng ta luôn tin vào Đức Kitô Phục Sinh, sẵn sàng hành động theo chỉ dẫn của Ngài mà không cần bào chữa hay thỏa hiệp, ánh sáng đức tin càng thêm mãnh liệt trong chúng ta và chúng ta không còn phải đoán già đoán non về những việc phải làm trong đời này: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8:12) Nhờ ơn Chúa Thánh Thần trong lòng chúng ta, Chúa Phục Sinh tiếp tục ban những lời chỉ dẫn khơi dậy đức tin trong lòng chúng ta ngày nay. Câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có bị dao động bởi các chỉ dẫn thiêng liêng này hay bởi điều gì khác hay không.

Thứ hai, chúng ta mất đức tin khi chúng ta không có ý định làm chứng cho Chúa Giêsu trước mặt người khác. Chúng ta bắt đầu cảm nghiệm được quyền năng của Đức Kitô Phục Sinh trong đời sống của mình khi chúng ta quyết tâm trở thành nhân chứng của Ngài trước người khác trong mọi lúc và mọi nơi. Chúa Giêsu bảo đảm với các môn đệ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1:8) Khi các môn đệ nhận lời thách thức của Ngài để trở thành nhân chứng của Ngài là “đi loan báo Tin Mừng cho mọi thụ tạo,” họ cảm nghiệm được quyền năng của Đức Kitô Phục Sinh. Họ đã đi rao giảng khắp nơi, trong khi Chúa làm việc với họ và xác nhận lời thông qua các dấu hiệu đi kèm.”

Thánh Phaolô nhắc nhở rằng chúng ta đánh mất những ân huệ tuyệt vời của chúng ta từ sự lên trời vinh hiển của Chúa Giêsu Kitô khi chúng ta đánh mất niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh vì bất cứ lý do gì. Chúng ta có thể tiếp cận với niềm hy vọng vững chắc, sự giàu có trên trời và quyền năng bất khả chiến bại của Ngài trong chúng ta bởi vì Chúa Giêsu Kitô lên trời, Chúa Cha đặt mọi sự dưới chân Ngài và ban chính Ngài là đầu trên mọi sự cho Giáo Hội, Nhiệm Thể Ngài, và sự sung mãn của Đấng làm đầy mọi vật trong mọi cách.

Khi đức tin của chúng ta bị mất, chúng ta cũng mất niềm hy vọng thuộc về sự kêu gọi của Ngài, chúng ta cảm thấy đơn độc, Thiên Đàng trở thành chiếc bánh không thể có trên bầu trời cho chúng ta, không chắc rằng chúng ta sẽ nhận được từ Ngài tất cả những gì chúng ta cần để vào Thiên Đàng, ước muốn về Thiên Đàng của chúng ta cũng giảm dần, rồi chúng ta trở nên chán nản và tuyệt vọng. Khi chúng ta mất niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta cũng mất ý thức về sự giàu có vinh quang trong gia nghiệp của Ngài giữa những người thánh thiện, quên mình là lữ khách trong thế giới này, rồi chỉ tích lũy và tận hưởng những thú vui của thế giới này mà không nghĩ hoặc muốn những điều thuộc về Thiên Đàng. Khi đức tin bị mất, chúng ta không thể cảm nghiệm sự vĩ đại vượt trội của quyền năng Ngài dành cho chúng ta là những tín nhân, chúng ta suy nghĩ và cảm thấy bất lực, bị bỏ rơi, hoàn toàn không thể vượt qua khó khăn, thử thách và cám dỗ của cuộc sống này.

Hỡi anh chị em thân yêu của tôi trong Đức Kitô, chúng ta không bao giờ được để những kinh nghiệm đau đớn trên trần gian, tội lỗi hoặc sự thất bại về luân lý, hoặc sự tấn công của kẻ ác dập tắt niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép rửa. Đó là cuộc đấu tranh về đức tin của chúng ta. Mất niềm tin vào Chúa Giêsu vì tình trạng hoặc kinh nghiệm trong thế giới này khiến chúng ta đáng bị Thánh Phaolô nhẹ nhàng quở trách: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.” (1 Cr 15:19)

Sự Thăng Thiên của Chúa Giêsu, ngoài việc là nguồn vui và hy vọng cho chúng ta, còn nhắc chúng ta về sự tái lâm sắp xảy ra trong vinh quang và thách thức chúng ta giữ vững niềm tin vào Chúa Giêsu sống động và phát triển cho đến cùng. Theo lời của các thiên sứ nói với các môn đệ vào lúc Chúa Giêsu lên trời: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1:11) Giáo lý diễn đạt thế này: “Từ cuộc thăng thiên, việc Đức Kitô đến trong vinh quang sắp xảy ra.” (GLCG 673) Ngài sẽ sớm phán xét tất cả chúng ta dựa trên việc đức tin của chúng ta được lãnh nhận khi chịu phép rửa đã trưởng thành như thế nào trong cuộc sống này qua mọi thử thách và khó khăn.

Chắc chắn đây không phải là lúc chúng ta để mất niềm tin vào Chúa Giêsu mà là đấu tranh để lớn lên trong niềm tin vào Chúa Giêsu. Đây là lúc để đảm bảo rằng chúng ta đang bị dao động hơn bất cứ điều gì khác bởi những chỉ dẫn của Ngài nhận được trong lời cầu nguyện, trong Kinh Thánh hoặc trong Giáo Hội, và giáo huấn không thể sai lầm của Ngài. Đây là lúc để những lời của Ngài tìm thấy chỗ trong tâm trí và trái tim của chúng ta, đồng thời thay đổi cách suy nghĩ và hành động của chúng ta. Đây là lúc để đảm bảo rằng chúng ta không bị dao động bởi dư luận, những đam mê mù quáng, sự tôn trọng của con người, tình cảm đơn thuần, hoặc ham muốn lợi ích trần tục.

Đây cũng là lúc để chúng ta kiểm tra phẩm chất của việc làm chứng cho Chúa Giêsu trước người khác. Chúng ta có sẵn sàng nói sự thật cứu độ của Chúa Giêsu và bày tỏ tình yêu thương của Ngài với người khác bằng lời nói và hành động của mình hay chúng ta bị tê liệt vì sợ bị từ chối, hiểu lầm hoặc bị gán cho là mù quáng? Chúng ta có định bày tỏ khuôn mặt khiêm nhường của Chúa Giêsu cho người khác bằng cách sống quên mình phục vụ mọi người? Chúng ta có truyền đạt cho người khác khuôn mặt nhân từ của Chúa Giêsu, Đấng luôn tha thứ cho người khác? Liệu chúng ta có trở thành những tấm gương tốt về tình yêu cứu chuộc của Chúa Giêsu cho thế giới để mang lại hy vọng cho người khác?

Bí tích Thánh Thể luôn là sự hiệp thông với Chúa Giêsu Kitô, “Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin.” (Dt 12:2) Dù hoàn cảnh hay kinh nghiệm trong cuộc sống ngày nay thế nào, Chúa Giêsu vẫn âm thầm củng cố đức tin chúng ta bằng cách liên tục hướng dẫn và ban quyền cho chúng ta làm chứng về Ngài qua Chúa Thánh Thần. Ngài đã từng đặt vấn đề với các môn đệ: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18:8) Nếu bây giờ Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang, Ngài sẽ thấy đức tin trong lòng chúng ta hay Ngài sẽ thấy chúng ta bất tín vì những trải nghiệm cuộc sống của chúng ta? Câu trả lời của chúng ta cho câu hỏi này sẽ quyết định sự cứu rỗi của chúng ta bởi vì “ai không tin sẽ bị kết án.”

LM. NNAMDI MONEME, OMV

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)
Trung tuần tháng 05-2022

May 11, 2022