|
Trách
Nhiệm Với Nhau
Chúa nhật 26 thường niên, năm C-2013
Người giầu. Người nghèo. Người cùng khốn. Xã hội nào, thời đại
nào cũng có những lớp người đó. Nhưng khi kể dụ ngôn Lagiarô và
người giầu có, Chúa không chú trọng đến giầu hay nghèo cho bằng
cách người ta dùng tiền của của mình. Tiền của Chúa ban cho con
người không phải là để phục vụ cho riêng mình, nhưng như người
quản lý, con người phải dùng nó theo ý của chủ, nghĩa là phải
dùng nó để phục vụ người khác. Vì thế, giúp đỡ người nghèo khó
được coi là một trách nhiệm.
Từ
thời Cựu ước, lề luật và các tiên tri đã dạy dân riêng của Chúa
phải biết cho người đói ăn, chăm sóc cô nhi quả phụ, đối xử công
bằng với ngoại kiều... Nói khác đi, là có sự quan tâm đối với
anh chị em đồng loại. Mối quan tâm này không phải chỉ là quan
tâm suông, nhưng là cần có những việc cụ thể. Và đó là điều người
giầu có đã không làm. Ông ăn sung mặc sướng suốt cuộc đời. Thân
thì mang vải gấm; của ăn thì toàn là cao lương mỹ vị. Trong khi
Lagiarô thân mang ghẻ lở; ước mong được ăn những mẩu bánh rớt
xuống từ trên bàn ăn mà cũng không được. Ấy vậy, mà người giầu
không một chút quan tâm. Ông đã vô cảm trước những khốn khổ của
một người anh em đồng loại.
Xã hội chúng ta đang sống cũng đầy dẫy những người nghèo khó.
Hình ảnh những em bé chỉ còn da bọc xương ở Phi Châu; những người
vô gia cư co ro dưới gầm cầu trong đêm giá lạnh ở nhiều nơi trên
nước Mỹ; những người tàn tật què quặt không ai chấp chứa ở Việt
Nam. Đó là những hình ảnh chúng ta đã thấy qua TV, báo chí, và
có khi, chúng ta đã thấy tận mắt. Có lẽ cũng vì vậy mà lòng chúng
ta phần nào đã bị chai cứng khi đứng trước những khổ đau của tha
nhân.
Gia đình ông Jones Gunn một hôm đang trên đường về thì bị dừng
lại vì đèn đỏ. Vừa dừng lại, thì một bà bế một em bé trên tay
đến xin tiền để mua sữa cho con. Ông Jones rút một tờ 20 đồng
cho bà. Bà vợ cảm thấy hơi khó chịu vì gia đình đâu giầu có gì,
nhưng chưa kịp có phản ứng gì thì cô con gái 7 tuổi lên tiếng:
"Ba có nghĩ là bà ấy đi mua sữa không?" "Ba không
biết!" Cậu con trai 11 tuổi hỏi tiếp: "Vậy tại sao ba
lại cho bà ấy tiền?" "Vì Chúa muốn chúng ta là những
người cho đi một cách vui vẻ. Ba không phải chịu trách nhiệm về
cách bà ấy dùng số tiền đó. Bà ấy sẽ phải trả lẽ với Chúa. Ba
chỉ chịu trách nhiệm về phần của ba." Thực tế là không phải
là dễ để có thể phân biệt khi phải đối diện với những hoàn cảnh
tương tự như ông Jones Gunn, nhưng nếu chúng ta luôn đặt vấn đề
để rồi từ chối không giúp đỡ, thì có lẽ chúng ta cần xét lại thái
độ của mình.
Dù
sao, điều quan trọng khi nghe lời Chúa hôm nay, là chúng ta cần
nhìn lại lòng mình, để xem mình có còn cảm thông, còn đau xót,
khi chứng kiến những khổ đau của người khác hay không. Một khi
có lòng cảm thông đó, với ơn Chúa, chúng ta sẽ biết nên phải có
thái độ và hành vi nào.
Lm.
Cao Vũ Nghi, CMC
CUỘC SỐNG TRẦN THẾ KHÔNG PHẢI LÀ TẤT CẢ
(Luca 16,19-31 – CN XXVI TN - C-2013)
1.- Ngữ cảnh
Tại đoạn Lc 16,14-18, tác giả đã mô tả người Pharisêu là “vốn ham hố tiền bạc”. Lời mô tả này chủ ý được ghi vào cho khó nghe, bởi vì là một nhận xét bất thường, không có chỗ nào trong TM III hay Cv sử dụng. Đức Giêsu than trách rằng điều răn quan trọng nhất, yêu thương người thân cận như chính mình, đã phải hy sinh cho việc giữ lấy của cải riêng, và lòng yêu thương đối với chính mình, cho dù phải hy sinh người thân cận, đã được ưa chuộng hơn – và điều này lại rõ ràng nơi những người Pharisêu đạo đức! Những câu nói về sự ham hố tiền bạc dễ dàng tuôn ra từ dụ ngôn trước đó nói về việc sử dụng của cải cách bất chính (16,1-8) và từ những bài học về việc lạm dụng của cải (16,9-13). Vậy bài dụ ngôn 16,19-31 là phần nối tiếp những nhận định lâu dài của tác giả Lc về việc sử dụng không đúng đắn các của cải (kể từ bài Người con hoang đàng). Bài dụ ngôn hôm nay giúp làm sáng tỏ hoàn cảnh này. Người Pharisêu chế nhạo Đức Giêsu khi nghe dụ ngôn của Người đề cập đến tiền bạc; bây giờ, bằng ngôn ngữ rõ ràng và mạnh mẽ, Đức Giêsu biện luận về cách sử dụng đúng đắn các của cải.
Những lời Đức Giêsu (16,15-18) tiếp theo lời tác giả giới thiệu người Pharisêu ở c. 14 tập trung vào những gì Đức Giêsu cùng chia sẻ với cử tọa: hết sức tôn trọng các giáo huấn của Cựu Ước; chỉ có một con đường duy nhất đưa vào Nước Trời (16,16), đó là tuân giữ các giáo huấn của Thiên Chúa, và ở đây là giáo huấn liên hệ đến việc sử dụng đúng đắn các của cải. Lề Luật nói về điểm này, sẽ không bao giờ qua đi, nhưng luôn hướng dẫn các chọn lựa của con người (16,17). Điều duy nhất Đức Giêsu thêm vào các giáo huấn đáng kính của Thiên Chúa là làm sáng tỏ cách người Do Thái hiểu Luật Môsê (x. c. 18 như một ví dụ về cách Đức Giêsu làm sáng tỏ Lề Luật). Người Kitô hữu, trong khi vẫn nhìn nhận giá trị của Luật Cựu Ước, lại sống ý muốn của Thiên Chúa theo cách hiểu của Đức Giêsu, là Đấng Cứu thế, là vị Hướng đạo và Đấng soi sáng mình.
Vì không có một từ hay một câu nào để nối dụ ngôn với các câu trước, ta có thể hiểu rằng dụ ngôn thuộc về những câu đi trước nó.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Hoàn cảnh của ông nhà giàu và Ladarô (16,19-22);
2) Cuộc đối thoại (16,23-31):
a) Phần một: Cuộc sống dưới ánh sáng của cái chết (cc. 23-26);
b) Phần hai: Sứ điệp cho “năm người anh em” và cho các môn đệ Đức Giêsu: lắng nghe Lời Chúa (cc. 27-31).
3.- Vài điểm chú giải
- mặc toàn … (19): enedidysketo, thì vị hoàn của động từ endidyskô, “mặc”, cho hiểu là đây là một hành động xảy ra thường xuyên.
- lụa là gấm vóc (19): dịch sát là “gấm tía và vải lanh mịn”. Theo ngôn ngữ của Cựu Ước (Cn 31,22; 1 Mcb 8,14), ta hiểu ông nhà giàu sống như một ông vua.
- Ladaro (20): Do từ Híp-ri ’El‘âzâr, có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”.
- được thiên thần đem (22): Do vế sau nói về ông nhà giàu “cũng chết, và người ta đem chôn”, tức là linh đình và long trọng, ta hiểu anh Ladarô không được loài người an táng, nên đã được các nhân vật thiên quốc đem đi.
- anh Ladarô trong lòng tổ phụ (23): Đây là vị trí danh dự khi người ta được dự tiệc đồng bàn với Abraham tại bữa tiệc thiên sai (Lc 13,28-29; x. Ga 13,22).
- âm phủ (23): Từ ngữ (h)adês lấy từ thế giới Hy Lạp, để mô tả cuộc sống của người ta sau cái chết. “Hadês” là tên của vị thần Hy Lạp cai trị âm phủ, và được dùng để chỉ nơi người ta không thể nhìn thấy, do con chữ alpha có nghĩa là thiếu mất đứng trước ngữ căn của động từ “nhìn thấy”. Đối với người Hy Lạp không tin có sự sống lại từ cõi chết, dù chấp nhận có sự bất tử, linh hồn của người chết được mô tả là đi lang thang trong một xứ sở không có mặt trời, trong một hình dạng bất toàn, như một cái bóng.
- ông ta ngước mắt nhìn lên (23): Ông đang “ở dưới”, tượng trưng cho tình trạng đau khổ, nhục nhã và thiếu thốn mà ông không tự giải quyết được.
- lòng tổ phụ (23): biểu tượng người Do Thái dùng để nói về tình trạng sống rất thân tình và rất được ao ước, khi đó hai con người kết hợp với nhau. Công thức này tương tự với công thức “lòng kề lòng”.
- Ladarô được an ủi (25): Thái bị động thay tên Thiên Chúa: “Thiên Chúa an ủi” Ladarô.
- đã có một vực thẳm lớn (26): Dịch sát là “đã cắt ngang định sẵn một vực thẳm” (NTT). Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã định sẵn một vực thẳm”.
- Chúng đã có Môsê và các Ngôn sứ (29): “Môsê và các ngôn sứ” là tên gọi bộ Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước). Tổ phụ Abraham khẳng định rằng sứ điệp nòng cốt của Kinh Thánh Do Thái vẫn còn là một cẩm nang có giá trị để hướng dẫn anh em ông nhà giàu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh của ông nhà giàu và Ladarô (19-22)
Ông nhà giàu không có tên, nhưng lại rất giàu; còn Ladarô chỉ có một sự giàu có, đó là cái tên. Hai người không có tương quan gì với nhau cả.
Ông nhà giàu không làm điều gì xấu về luân lý cả; ông chưa hề từ chối Ladarô một điều gì, vì Ladarô cũng chưa xin gì cả. Bản văn chỉ nói rằng ông có một chương trình sống như chương trình một ông nhà giàu khác đã phác ra, nhưng đã không thể thực hiện trọn vẹn vì cái chết đến sớm: “Cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12,19). Y phục thường xuyên của ông là lụa là gấm vóc: mỗi ngày ông đều mặc “gấm tía và vải lanh mịn”, chứ không chỉ vào một số ngày đặc biệt. “Gấm tía” rất đắt, nên chỉ giới thượng lưu vương giả mới dám dùng. “Vải lanh mịn” cũng là thứ hàng hiếm, ngay tại Rôma. Thế mà ông nhà giàu mặc mỗi ngày! Thường mỗi gia đình có một bữa ăn chính mỗi ngày; còn trong nhà của ông nhà giàu, bữa ăn chính này, mỗi ngày, lại là một yến tiệc. Chắc chắn ông nhà giàu không ăn mặc và ăn uống sang trọng hào nhoáng như thế cho riêng ông, ông phải có các khách mời. Ông đã sống như một ông vua.
Các thính giả có thể khó chịu vì bức tranh này, vì dường như “bôi bác” người nghèo. Nhưng Đức Giêsu sắp chuyển sang vấn đề cách thức sử dụng của cải và lý do vì sao của cải không cứu được mà lại tiêu diệt người chủ của. Chính bài học hệ trọng này cho hiểu vì sao Đức Giêsu giới thiệu quá chi tiết hình ảnh ông nhà giàu, một hình ảnh ở mức độ nào đó đang có trong mỗi một người, ở dạng hiện thực hay ở dạng nguyện ước.
Thế rồi Đức Giêsu đưa ra một hình ảnh đối ngược tối đa với ông nhà giàu: một người nghèo mạt. Bản văn không nói là anh này sống đúng đắn về luân lý. Anh có một tên, “Ladarô” có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”, một cái tên có ý nghĩa đối với “những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” (x. Lc 14,13.21). Ladarô nghèo khó lại mụn nhọt đầy mình. Phải chăng Thiên Chúa sẽ giúp đỡ Ladarô qua trung gian ông nhà giàu? Anh không thể đi lang thang đây đó mà xin ăn. Ladarô cần có bạn bè để giúp anh tìm được thức ăn. Họ đã bỏ anh nằm trước cổng nhà ông nhà giàu, một vị trí mà một người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, người không được mời, có thể ở gần chủ nhà nhất. Ông chủ và các khách mời không thể nào không biết có anh này ở ngoài cổng, và quả thật, ông nhà giàu đã gọi tên anh khi anh đang ở trong lòng tổ phụ Abraham.
Ladarô đói, anh thèm được ăn những thứ thừa thãi trên bàn người giàu và các thực khách rơi xuống. Rất có thể mấy con chó dưới gầm bàn được hưởng những thứ này. Mà nếu vậy, hẳn là Ladarô mong được không phải ở giữa những thực khách, mà là ở giữa những con chó. Chỉ có mấy con chó hoang đến liếm ghẻ chốc của anh. Phải chăng chúng săn sóc anh? Nếu thế, ông nhà giàu không giúp đỡ anh bằng mấy con chó. Nhưng cũng có thể hiểu việc mấy con chó đến liếm mụn nhọt cho anh như là một tình trạng bị bỏ rơi, không được ai giúp đỡ, mà còn bị đàn vật tấn công nữa.
Bức tranh Đức Giêsu phác ra kết thúc tại điểm này: đây là một “kết thúc mở”. Tình trạng mâu thuẫn đã rõ. Đức Giêsu không mô tả thêm gì; điều này có nghĩa là bao lâu hai nhân vật trên còn sống, không có gì thay đổi cả: mỗi người cứ tiếp tục như thế cho đến chết. Dù sao, tác giả Lc không hề xác định rằng ông nhà giàu xấu xa, hay là Ladarô là điển hình của người tốt. Đấy là những vấn đề nằm ngoài bản văn. Tác giả chỉ mô tả cuộc sống của hai bên: một bên thì ăn tiệc, còn bên kia thì ăn xin; một bên thì ăn mặc sang trọng, còn bên kia thì gần như trần truồng. Đây là hai kiểu mẫu song đối đang đứng trước mặt nhau, nhưng không có đối thoại. Mặc dù có sự gần kề thể lý hằng ngày, dụ ngôn lại cho thấy sự xa cách là có thật. Đàng khác, sự kiện họ không nói với nhau là một yếu tố không phài không đáng kể, nhất là trong một dụ ngôn kết thúc bằng việc kêu gọi lắng nghe (16,29.31).
* Phần một của đối thoại: Cuộc sống dưới ánh sáng của cái chết (23-26)
Nhưng cái tên “Ladarô”, có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”, Đức Giêsu cố tình gán cho anh, là để ta hiểu rằng cái tên của anh phù hợp với hoàn cảnh của anh: Khi còn sống, anh đã không được người nào giúp đỡ; sau khi chết, anh đã được Thiên Chúa an ủi.
Đứng trước cái chết, ông nhà giàu và anh nhà nghèo bình đẳng. Cái chết chiếu cố đến cả hai người. Nhưng tại điểm này, số phận của họ đảo ngược. Bản văn không nói gì về phán xét, nhưng chỉ ghi nhận sự đảo lộn các số phận, đồng thời nói đến một tình trạng bất khả truyền thông giữa hai bên. Những gì được nói ở đây về cuộc sống sau cái chết không phải là một mô tả chính xác về cuộc sống ấy và không hề có ý phác ra một địa lý của thế giới bên kia gồm những vùng hoặc những tầng. Nếu Đức Giêsu chọn nói về đau khổ dành cho những kẻ tội lỗi trong cuộc sống sau cái chết, Người thường vận dụng kinh nghiệm của các cư dân của một thành phố qua hình ảnh một ngọn lửa cháy mãi trên một đống rác, liên tục cháy ngày đêm để thiêu đốt rác rưởi của thành ấy (Mc 9,48; x. Is 66,24).
Các hình ảnh này chỉ muốn diễn tả sự khác biệt tận căn trong thế giới bên kia của đời sống một người đã rất giàu có và đời sống của một người đã hết sức nghèo túng. Ladarô được đưa vào lòng tổ phụ Abraham. Abraham, bạn của Thiên Chúa và tổ phụ của dân Israel, được coi như người chủ tọa bữa tiệc mừng trong thế giới ấy (x. Mt 8,11). Ladarô, đã từng nằm vạ vật bẩn thỉu trước cổng và chỉ có bầy chó làm bạn, nay nhận được một chỗ danh dự bên cạnh tổ phụ Abraham, trong sự hiệp thông thân tình và tin tưởng với ngài (x. Ga 13,23). Còn ông nhà giàu, trước đây, ông ăn mặc tinh tế và xa hoa, nay chỉ có lửa bao quanh ông, khiến ông rất đau đớn. Trước kia, ông luôn có sẵn những thức ăn thơm ngon và thức uống ê hề, bây giờ ông phải xin một giọt nước. Trước đây, trong cuộc sống trần gian, Ladarô đói khát mong ước được ăn những thứ thừa từ bàn chủ rơi xuống, nhưng không được; bây giờ ông nhà giàu xin Ladarô đưa ngón tay nhúng nước rồi nhỏ cho ông một giọt nước, mà cũng không được nhận. Trong cuộc sống trần gian, ông đã biết và chỉ quan tâm đến thú vui, thoải mái, sự xa hoa và những thứ tinh tế. Với của cải của ông, ông có thể cho phép mình có mọi sự. Nhưng cách thức ông đã sử dụng của cải và tiêu xài cuộc sống đã đẩy ông vào một tình cảnh trong đó ông phải chịu đau đớn và dày vò, nhung nhớ và nguyện ước không nguôi; chính ông tự tách khỏi sự hiệp thông với tổ phụ Abraham và với Thiên Chúa.
Tác giả không giải thích trong bài dụ ngôn vì sao ông nhà giàu phải chịu đau khổ, còn Ladarô thì thoát khỏi đau khổ. Các hoàn cảnh sau cái chết của họ chỉ được hiểu ngầm trong bài là xứng đáng với họ. Tổ phụ Abraham không nói rằng vì ông nhà giàu có của cải trên trần gian, nên bây giờ phải chịu đau khổ; ngài chỉ muốn khẳng định rằng ông ấy đã có của cải ở trần gian, nhưng sự giàu có không theo ông vào âm phủ được. Chúng ta hiểu rằng đời sống trước đây trên mặt đất phải chịu trách nhiệm và là nguyên nhân của những tình cảnh sau cái chết.
Lời ông nhà giàu kêu “lạy cha Abraham (của con)” xin giúp đỡ và lời tổ phụ Abraham nói “con (của ta)” để từ chối cho hiểu quan hệ thân thương này vẫn không chặn được các ngọn lửa và cơn khát nơi âm phủ. Nhưng lời kêu cứu của ông cũng cho hiểu là có một dây liên kết cốt thiết giữa ông và Ladarô; mặc dù có những khác biệt lớn lao giữa hai người, họ vẫn là anh em gần gũi và phải yêu thương nhau. Thế nhưng bây giờ, “giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (c. 26), nghĩa là không thể thay đổi phần thưởng hay hình phạt nữa, khi mà cuộc sống đã chấm dứt. Mối quan tâm của ông nhà giàu cho số phận của năm người anh em sau này gợi ý là sau khi chết, không còn có thể thay đổi được nữa.
Chúng ta ghi nhận là không phải là Ladarô đã lập luận để trả lời cho ông nhà giàu, mà là tổ phụ Abraham, tức Nguồn Mạch của Do Thái giáo. Rất hợp lý là cha của tất cả mọi con dân Israel giải thích cho hiểu vì sao Ladarô không thể giúp gì cho ông nhà giàu. Lý do thứ nhất: ông nhà giàu đã có các thứ tốt lành khi còn sống ở đời; còn Ladarô thì chỉ toàn gặp bất hạnh. Bây giờ ông nhà giàu phải đau khổ còn Ladarô được an ủi. Điểm nhắm trong lời nói của tổ phụ Abraham là cung cấp lý do vì sao đau khổ của ông nhà giàu không thể chấm dứt: do sống trong tình trạng bị dày vò lúc này, ông phải nhớ lại rằng ông đã có các thứ tốt lành trong cuộc sống trần gian và nhớ là bây giờ ông phải chịu đau khổ. Bên kia, Ladarô không bị buộc phải từ bỏ tình trạng hạnh phúc của anh; anh đã phải chịu đau khổ suốt đời, nên nay anh được an ủi. Lời của tổ phụ Abraham chỉ nhắm giải thích một điều: không phải vì sao mỗi người đang ở nơi họ đang ở, nhưng vì sao không thể yêu cầu Ladarô giúp đỡ ông nhà giàu.
Lý do thứ hai: theo quan niệm về âm phủ nói trên, có một sự ngăn cách không thể vượt qua giữa cái tốt và cái xấu: “giữa chúng ta đây và các con”, tổ phụ Abraham kể cả chính ngài vào đó. Vậy, sự ngăn cách này do một Đấng Khác quy định bất di bất dịch, chứ không do bất cứ thụ tạo nào. Tình trạng bất khả thông thương này chấm dứt mọi tranh luận về việc Ladarô giúp đỡ ông nhà giàu.
* Phần hai của đối thoại: Sứ điệp cho “năm người anh em” và cho các môn đệ Đức Giêsu: lắng nghe Lời Chúa (27-31)
Ông nhà giàu nhìn nhận rằng chính lối sống của ông trước đây trên mặt đất đã đưa ông đến tình trạng này. Do đó ông mong muốn là anh em ông được nhắc nhở thay đổi đời sống để khỏi rơi vào số phận đau đớn như ông. Rất có thể những người này đang sống dưới một mái nhà với ông, nên ông biết rõ lối sống của họ. Cách thức thực hiện điều này, như ông đề nghị, là gửi Ladarô về khuyến cáo các anh em ông về mối nguy hiểm đáng sợ đang ở trước mắt. Tổ phụ Abraham trả lời: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. “Môsê và các Ngôn sứ” là tên gọi bộ Kinh Thánh. Như thế, muốn tránh được lộ trình đưa đến số phận đau đớn thì hãy lắng nghe Lời Chúa. Từ đó, chúng ta hiểu rằng trong khi còn sống, ông nhà giàu đã không lắng nghe, tức không vâng theo “Môsê và các Ngôn sứ”, Lời Chúa, với luật căn bản là mến Chúa yêu người.
Nhờ trung gian của Kinh Thánh, Thiên Chúa truyền đạt cho chúng ta biết ý muốn của Ngài, Ngài ban cho chúng ta những quy luật sống đúng đắn để đưa chúng ta đến đích. Ý muốn của Thiên Chúa không hề khó tuân giữ, như sách Đệ nhị luật đã khẳng định: “Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh em. Mệnh lệnh đó không ở trên trời […]. Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia biển […]. Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành” (Đnl 30,11-14). Trong Kinh Thánh, có chỗ nói rõ ràng về trách nhiệm xã hội đối với những người nghèo. Nay ta có thể giải thích rõ ràng nhất bức tranh Đức Giêsu đã vẽ ra trong bốn câu đầu của dụ ngôn: Ông nhà giàu đã bỏ qua ý muốn của Thiên Chúa, không quan tâm đến Thiên Chúa, đã chỉ tìm kiếm tiện nghi và thú vui cho riêng mình. Do đó, ông đã phải đi đến đau khổ hiện tại.
Ông nhà giàu không phủ nhận tính đúng đắn của lời tổ phụ Abraham nói, nhưng ông nghĩ rằng anh em ông sẽ vâng theo hơn, nếu có người, như Ladarô, từ cõi chết trở về truyền đạt sứ điệp Môsê. Chắc chắn Ladarô không có gì hơn Môsê mà nói; giá trị của anh nằm ở chỗ anh có thể làm chứng về thế giới âm phủ. Nhưng câu trả lời của tổ phụ Abraham là một lời bình luận về trái tim con người. Nếu người ta không muốn vâng nghe Môsê và các ngôn sứ, thì người từ cõi chết trở về cũng chẳng lay chuyển được lòng dạ của họ. Lời tổ phụ Abraham phân tích một con tim sống trong tội rất có thế giá: bài dụ ngôn nhắm điều này, nên đã kết thúc ở đây với nhận xét của tổ phụ Abraham. Thật khó mà đưa trái tim con người đến chỗ hoán cải!
+ Kết luận
Trong bài dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy một cuộc đảo lộn tình thế và nguyên nhân của cuộc đảo lộn này. Những gì Người loan báo ở đây là nhắm ban cho các “anh em” (c. 28) ông nhà giàu một lời giáo huấn và khuyến cáo, để họ khỏi mất linh hồn vì những thú vui do của cải giàu sang, trái lại biết nghiêm túc tìm thánh ý Thiên Chúa. Các lời này của Đức Giêsu cũng là một an ủi cho người nghèo, vì tuy trên trần gian họ phải sống một số kiếp đau thương nhưng họ vẫn có thề hoàn toàn cậy trông vào sự nhân lành của Thiên Chúa.
Đức Giêsu mạnh mẽ loan báo rằng cuộc sống trần gian không phải là tất cả và các hoàn cảnh hiện thời trong cuộc đời không đơn giản được lặp lại sau cái chết. Ai không nhìn sang bên kia cuộc sống trần thế và niềm vui sống, thì sau cái chết sẽ phải gặp một chuyện kinh ngạc đau đớn. Đối với mọi người, giàu hay nghèo, cần phải quy hướng cuộc sống mình về ý muốn của Thiên Chúa. Đây là con đường duy nhất để tránh được diệt vong và đạt được sự hiệp thông vĩnh cửu với Thiên Chúa.
Còn có một hướng suy nghĩ khác: sau khoảng năm mươi năm Đức Giêsu đã ban dụ ngôn này, phải chăng tác giả Lc muốn ám chỉ rằng người ta cũng sẽ không nghe Đức Giêsu, Đấng đã sống lại từ cõi chết? Sách Công vụ đã nêu lên nhiều bằng chứng về sự “không nghe” này. Nếu hiểu như thế, bài dụ ngôn cũng có sức quy chiếu về Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hai người ở cách nhau có ít bước, thế mà dường như không gặp nhau. Ladarô cứ việc nằm vất vưởng đau bệnh trước cửa; ông nhà giàu biết anh, nhưng sống như không hề có Ladarô. Khi người ta tin tưởng vào tiện nghi, vào của cải, vào “phát triển”, người ta trở thành đui mù, không thấy người khác với các nhu cầu của họ. Sau này, ông nhà giàu không hề biện minh: Tôi không gây rắc rối gì cho Ladarô. Tôi tôn trọng quyền tự do của anh. Anh ta đâu có hề xin tôi điều gì! Ông biết ông đã sai khi không sống những điều Lời Chúa dạy.
2. Ông nhà giàu có tất cả mọi sự trên đời và dường như ông đã đạt được mục tiêu của cuộc đời. Nhưng chính cái chết cho hiểu rằng cuộc sống trần gian không phải là tất cả. Phải sống cuộc sống trần gian, phải sử dụng của cải vật chất thế nào, để sau khi chết, người ta đạt được cuộc sống viên mãn. Dĩ nhiên Đức Giêsu không muốn nói đến một vài sai lỗi nhất thời; Người dạy chúng ta về giá trị của chọn lựa căn bản: có những chọn lựa trong cuộc sống hôm nay rất hệ trọng, bởi vì liên hệ đến cuộc sống vĩnh cửu sau cái chết.
3. Ông nhà giàu chết, và phải chịu cực hình. Điều này không có nghĩa là chỉ nguyên vì ông có của cải trong cuộc sống trần gian, mà dứt khoát ông bị hành hạ trong thế giới bên kia. Nếu ông bị đau đớn là vì ông đã không biết sử dụng của cải cho khôn khéo, như đã được nói đến ở cc. 9,14-15. Hôm nay chúng ta cũng được mời gọi xét lại xem chúng ta có chăng khả năng thấy nơi mỗi con người và nơi các nhóm người và các dân tộc, một Ladarô nghèo khó đang ở trước cửa nhà chúng ta. Chúng ta có nhận ra được những nhu cầu của họ chăng? Chúng ta đã và còn sẽ làm gì cho họ?
4. Sau khi chết, không còn có thể thay đổi được số phận nữa. Chính vì thế Đức Giêsu đã ra sức thúc bách người ta “thay đổi ngay bây giờ”. Không có một giáo huấn nào của Tân Ước cho thấy là ta còn có thể hoán cải sau khi chết. Lời Chúa có đó để hướng dẫn chúng ta đạt được cứu cánh của cuộc đời chúng ta. Muốn lắng nghe Lời Chúa, ta phải có con tim sẵn sàng và rộng mở. Nếu con tim đã trở nên đui mù và chai cứng vì ích kỷ, không quan tâm đến Thiên Chúa và người thân cận, thì các phép lạ và các sứ giả từ bên kia thế giới trở về cũng chẳng giúp lay tỉnh được.
5. Điều mà bài dụ ngôn lên án, đó là không biết nhận ra tình trạng của bản thân để thay đổi. Có một cuộc đời để đáp lại các tiếng gọi và có một lúc cuối cùng, vẫn còn có thể làm được điều gì đó. Người gian phi tại đồi Sọ đã có sự khôn ngoan đúng lúc. Trong một thoáng chốc, anh đã biết sử dụng Lời như một cái kềm để nhổ các cây đinh của cuộc sống gian ác của anh và nắm bắt được thiên đàng: “Giêsu ơi, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,43).
Lm FX Vũ Phan Long, ofm
Hai khuôn mặt trái ngược nhau
(Trích dẫn từ ‘Manna’ – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Dụ ngôn cho ta thấy hai khuôn mặt trái ngược nhau: một ông nhà giàu dư ăn dư mặc, một anh nhà nghèo bệnh tật nằm đói lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy.
Hai người ở gần nhau, chỉ cách nhau một cái cổng vẫn thường khép, nhưng lại thật xa nhau. Ông nhà giàu biết mặt, biết tên anh nhà nghèo, nhưng ông chẳng mảy may quan tâm, vì ông bận tổ chức tiệc tùng và mời quan khách.
Ladarô đã chết trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Ông nhà giàu cũng chết. Cái chết đồng đều cho mọi người, nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau.
Không phải chỉ vì giàu mà ông nhà giàu bị phạt, nhưng vì ông đã khép cửa và khép lòng, đã ung dung hưởng thụ quyền sở hữu “hợp pháp”, đã không chấp nhận chia sẻ điều mình có dư thừa. Ông nhà giàu hẳn đã thấy Ladarô, nhưng đã sống như thể không có anh ta, vì ông loay hoay vun quén cho hạnh phúc của mình.
Không phải chỉ vì nghèo mà anh nhà nghèo được thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì anh chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, và trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa. Thế giới văn minh lại càng đào sâu hố ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa thiểu số người giàu và đa số người nghèo.
Chính tôi cũng giàu về một mặt nào đó: giàu trí tuệ, giàu bạn bè, giàu thế lực, giàu chỗ đứng trong xã hội, giàu đời sống thiêng liêng.
Hố sâu chỉ được lấp đầy bằng cách mở tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ, nhìn nhận tài nguyên thế giới là của mọi người, nhìn nhận quyền sống của từng người, sống như một nhân vị, sống như con cái Thiên Chúa, sống như anh chị em tôi.
Mỗi người chúng ta đều có một Ladarô chờ ngoài cửa, nếu chúng ta mở cửa và mời người đó đồng bàn, thì chúng ta sẽ trở nên người giàu có thực sự, và trưởng thành viên mãn trong nhân cách.
Dù người chết hiện về, dù kẻ chết sống lại cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá. Chỉ Lời Chúa mới khiến chúng ta sám hối ăn năn, mở lòng trước tha nhân và Thiên Chúa (x. 1Ga 3,17).
Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy những người nghèo ở quanh con, ở trong gia đình con, đang cần đến con. Bất cứ ai đang cần đến con đều là người nghèo, xin cho con thấy Chúa trong họ.
Dần dần con hiểu rằng cả người giàu cũng nghèo, nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.
Dần dần con chấp nhận rằng cả bản thân mình cũng nghèo và cần đến người khác.
Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh mắt, một lời thăm hỏi đỡ nâng.
Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con ai cũng nghèo về một mặt nào đó và ai cũng cần đến người khác. Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau thêm giàu có.
Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo, vì Chúa rất cần đến chúng con để hoàn thành công trình cứu độ.
Xin cho con khiêm tốn nhận mình nghèo để nhận lãnh, can đảm nhận mình giàu để hiến trao. Amen.
Chúa Nhật 26 TN C
TỘI VÔ TÂM VỚI ĐỒNG LOẠI
Tờ tin điện tử vnexpress số ra ngày Thứ Ba, 21/9/2010, đăng tải câu chuyện rất ấn tượng về một nữ triệu phú gốc Việt có tên là Suzanne Hook. Đã từng là một trong số hàng trăm đứa trẻ bị bỏ rơi trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Suzanne Hook may mắn được một cảnh sát tìm thấy và đưa đến trại trẻ mồ côi ở Sài Gòn năm 1969 và được đặt tên là Thị Hiền. Khi đó, Thị Hiền yếu đến mức không thể cử động được. Các y tá người Anh chăm sóc cô và đưa cô rời khỏi Việt Nam năm 1972. Suzanne trở thành con nuôi của một gia đình ở phía tây London. Năm 18 tuổi, cô xa gia đình và đi học ngành ăn uống rồi thành bếp trưởng trên tàu và nhà hàng. Từ năm 2002, cô tạo dựng dịch vụ làm móng mang tên Couture Nail và trở thành người phụ nữ rất thành công trong ngành làm đẹp.
Nhưng rồi cô đã quyết định bán tất cả những gì mà cô đang có để về Việt Nam lo cho trẻ mồ côi. Tài sản bao gồm ngôi nhà trị giá gần 780.000 USD, chiếc xe Mercedes thể thao, đồ đạc, quần áo và bộ sưu tập giày gồm khoảng 300 đôi. Cô đã từ giã cuộc sống ở Anh để toàn tâm cho nhà trẻ mồ côi Allambie ở Saigon.
Cô nói: "Toàn bộ cuộc sống của tôi đang được rao bán. Tôi chuẩn bị chia tay bạn bè để chăm sóc các trẻ em mồ côi trong phần cuối đời mình. Tôi muốn cho chúng tương lai và giúp chúng học đến đại học, hoặc tìm được việc làm để có thể tự đứng vững trên đôi chân mình, nhưng tôi cũng muốn chúng cảm nhận được tình yêu thương, điều mà tôi không có được khi còn bé".
Từ rất xa, xa gần một nửa vòng trái đất, nhưng cô Suzanne đã nhìn thấy và quan tâm đến những đứa trẻ mồ côi bất hạnh ở Việt Nam. Trong khi đó người phú hộ trong câu chuyện dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay lại hoàn toàn khác hẳn. Dường như ông không quan tâm và không để ý gì đến người cùng khốn, ngay cả người hành khất khốn cùng đang ở ngay trước cổng nhà mình.Nếu nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay thì ông phú hộ này là một triệu phú. Nếu sống vào thời đại này thì ông có nhà lầu, xe hơi đời mới, có con đi du học nước ngoài, có tài khoản lớn nơi các ngân hàng nổi tiếng, có của chìm của nổi, và vì có nhiều của cải như thế nên ông mặc toàn đồ hàng hiệu đắt tiền, rồi tiệc tùng đình đám liên miên với nhiều kẻ hầu người hạ, v.v… Nhưng kết cục đời ông, Tin Mừng cho thấy là quá phũ phàng, quá bi đát: phải trầm luân nơi hoả ngục. Vậy tại sao ông phải chịu cảnh trầm luân nơi hoả ngục như thế?
Không chỗ nào trong dụ ngôn nói đến ông phú hộ này là một tay đại gian đại ác, dùng mọi thủ đoạn thu tích của cải cho mình một cách bất chính, cũng không chỗ nào nói ông ngược đãi hay bóc lột sức lao động của người khác, hoặc là lợi dụng chức quyền, dân đen,… Hơn nữa, là người giàu có, ông có quyền ăn mặc sang trọng và cũng có quyền tổ chức yến tiệc linh đình. Xét cho cùng, ông chẳng có tội tình gì ghê gớm để phải chịu hình phạt đoạ đày. Ông hưởng thụ thật đấy, nhưng cũng chỉ hưởng thụ từ những của cải do ông làm ra, chứ có phải do tham nhũng, hối lộ gì. Vậy thì do đâu? Thưa là do ông đã vô tâm, khép cửa lòng, sống dửng dưng, “mackeno” (mặc kệ nó) trước nỗi cùng khốn của tha nhân. Dẫu ông không la mắng, chửi bới, hay xua đuổi Lazarô ra khỏi nhà, nhưng điều đáng trách là ông ta không thèm ngó nhìn người ăn xin van lơn. Hoàn cảnh của Ladarô quá khốn khổ thế mà người phú hộ vẫn phớt lờ đến nỗi Ladarô có thể chết vì đói, đang khi ông ta lại quá dư thừa. Thành ra tội hững hờ của người phú hộ trở thành tội nặng làm cho ông ta đáng bị gia hình trong hỏa ngục.
Trong bài đọc 1, Tiên tri Amos với lối nói cay độc chua chát cũng đã tiên báo những sự trừng phạt khủng khiếp dành cho những kẻ giàu có đang hưởng thụ xa hoa mà không biết xót thương người khốn khổ…… Của cải vật chất đã trở thành bức tường khép kín, và làm cho người sở hữu nó sống an toàn mãn nguyện trong không gian riêng mình. Chính họ đã tạo ra khoảng cách vực thẳm. Họ không cần Thiên Chúa, cũng chẳng cần biết đến tha nhân. Khoảng cách đó lớn dần và kéo dài đến đời sau.
Dụ ngôn phú hộ và Lazarô là lời cảnh báo cho những kẻ chỉ biết tôn thờ vật chất, hưởng thụ trần gian mà quên đi tình Chúa tình người. Dụ ngôn còn là lời kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng tình liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo.
Kitô giáo không chủ trương tìm kiếm hay yêu mến sự nghèo khó mà là cỗ võ tình yêu thương liên đới đối với những người nghèo khó. Chúa Giêsu là Đấng giàu có hơn ai hết, nhưng Ngài đã trở nên nghèo khó để cảm thông và liên đới với người nghèo. Ngài đã dùng tình thương để xoá bỏ khoảng cách giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người khi Ngài làm người, một người nghèo giữa những người nghèo. Người môn đệ đi theo Chúa Giêsu cũng được mời gọi trở nên giống như Ngài.
Ngày hôm nay vẫn còn quá nhiều Lazarô ngay trên đất nước Việt Nam này. Vẫn còn quá nhiều người cần đến “ngôi nhà mơ ước” hay “câu chuyện ước mơ” đầy dẫy trên truyền hình. Không nhà ở, không tiền mua thuốc men chữa bệnh, không có điều kiện cho con đến trường kiếm cái chữ... Họ là những người nghèo thật sự, nghèo vật chất, nghèo tình thương, nghèo văn hoá… Vấn đề ở chỗ chúng ta có nhìn thấy những con người cùng khốn ấy, để ra tay cứu giúp không, hay chúng ta vẫn vô tâm, hững hờ như nhà phú hộ trong câu chuyện Tin Mừng.
Nhạc sĩ trẻ Minh Khang, trong ca khúc Đứa Bé đã viết: “Hãy lau khô cuộc đời em bằng tình thương, lòng nhân ái của con người. Hãy lau khô giọt nước mắt trong lòng em bằng tất cả trái tim con người Việt Nam.” Thiết nghĩ đó là sứ điệp tình yêu mà Thiên Chúa muốn nói với anh qua tiếng lương tâm và muốn anh gởi gắm sứ điệp đó tới tất cả người nghe, để họ biết mở rộng vòng tay yêu thương nhân ái, để họ biết liên đới, biết giúp đỡ, biết chia cơm sẻ bánh cho những người nghèo khổ, túng thiếu và bất hạnh.
Xin Chúa mở mắt, mở tai, mở tay và mở trái tim ta để thấy, để nghe, và để biết sẵn sàng sẻ chia niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau với mọi người. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Suy niệm CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN
– Năm C Lc 16, 19-31
HAI CẢNH ĐỜI TRÁI NHAU
Nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ: “Hai đứa trẻ” đã viết:
“Hai đứa bé cùng chung nhà một tuổi
Cùng ngây thơ, khờ dại, như chim con
Bụi đời dơ chưa vẩn đục hồn non
Cùng trinh tiết như hai tờ giấy mới”.
Hai đứa trẻ xem ra giống nhau vô cùng, cùng ngây thơ, khờ dại và hồn nhiên, nhưng lại quá khác xa nhau:
“Ồ lạ chửa! Đứa xinh tròn mũm mĩm
Cười trong chăn và nũng nịu nhìn me.
Đứa ngoài sân, trong cát bẩn bò lê
Ghèn nhầy nhụa, ruồi bu trên môi tím!
Đứa chồm chập vồ ôm ly sữa trắng
Rồi cau mày: "Nhạt lắm! Em không ăn!".
Đứa ôm đầu, trước cổng đứng treo chân
Chờ mẹ nó mua về cho củ sắn!
Đứa ngây ngất trong phòng xanh mát rượi
Đây ngựa nga, đây lính thổi kèn Tây.
Đứa kia thèm, giương mắt đứng nhìn ngây
Không dám tới, e đòn roi, tiếng chửi!”(Tố Hữu-Hai đứa trẻ)
Đó cũng là bức tranh hiện sinh của xã hội con người ngày hôm nay, khi sự chênh lệch ngày một quá lớn giữa các nước trên thế giới, và giữa những người quá giàu và quá nghèo. Người ta ước tính tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển.
Bill Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất. Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu cho giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh cho cả thế giới trong một thời gian dài.
Khi nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô, chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới.
Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị, giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.
Có 800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực. Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc. Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày, vì không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi xuống. Dụ ngôn của Chúa nhật 26 năm C lại một lần nữa cho chúng ta thấy sự liên đới, cách sử dụng tiền của Chúa ban quan trọng biết bao cho phần rỗi đời đời của mỗi người.
Liên đới trong trách nhiệm chia sẻ
Ông phú hộ giàu có xét cho cùng cũng chẳng có tội tình gì. Nhà của ông làm tiệc, linh đình trong hoan lạc, ngây ngất lẫn men nồng, đắm say trong yến tiệc. Ông mặc gấm vóc lụa là, người hầu kẻ hạ. Ông sung sướng hưởng thụ những gì mình có. Chung quy lại, trước mặt mọi người ông chẳng có gì để lên án. Thế nhưng chuyện không dễ như vậy. Oái ăm thay, lại có kẻ: “mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà ông giàu có, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no”(Lc 16,20). Ông nhà phú hộ đáng ra phải lưu tâm đến một Lazaro nghèo khó đang cần đến sự giúp đỡ của mình. Trong thế giới toàn cầu hóa, trách nhiệm liên đới luôn là một đòi hỏi cấp bách. Người ta không thể dửng dâng và đứng nhìn những La-za-rô đang chết dần chết mòn trong những nỗi thống khổ của họ. Cũng như ông Phú Hộ, con người sẽ bị án phạt khi sống vô cảm và thiếu sự chia sẻ cho những hoàn cảnh éo le trong cuộc đời. Tài sản mà nhân loại đang sở hữu chính là do Thiên Chúa ban một cách nhưng không. Người Phú Hộ đã sai lầm khi cho rằng mình có quyền hưởng những gì mình thích, mà không hề biết quan tâm đến một số phận của một con người. Người đó không đâu xa mà là nằm ngay trước cổng nhà mình. Thiếu trách nhiệm với tha nhân, nhất là trong tình liên đới đại đồng. Ông Phú Hộ đã trầm luân trong bể khổ, mà không thể nào quay lại được.
Liên đới trong trách nhiệm yêu thương
Người Việt Nam có những câu ca dao rất đẹp trong tình yêu thương nhau:
“ Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống mà chung một giàn”
Hoặc: “ Những điều phủ lấy giá gươm,
Người trong một nước phải thương nhau cùng”…
Vâng đúng như vậy, giới răn thương yêu là cốt lõi của mọi lề luật, bác ái chính là khởi xuất từ yêu thương, mà yêu thương chính là ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Những người giàu có nếu biết dùng những của cải chóng qua ở đời tạm này, mà làm những việc lành phúc đức, thì họ sẽ trở nên rạng ngời trước Danh Thánh Chúa. Ông Phú Hộ mời rất nhiều khách để dự tiệc. Nhưng tiếc rằng người nghèo khó ngay trước cổng nhà mình thì không được quan tâm giúp đỡ. Giống như nhận xét của Mẹ Terexa “Cái xấu lớn nhất trong thế giới ngày nay là thiếu vắng tình yêu – sự thờ ơ khủng khiếp đối với người lân cận ngày càng phổ biến” (Mẹ Têrêxa).
So sánh hai cuộc đời của nhà Phú hộ và ông La-za-rô để cho thấy:
-hai lối sống khác nhau đã làm nên hai điều trái ngược. Nếu như người nghèo khó La-za-rô suốt đời phải sống trong túng cực, bị mọi người khinh chê thì khi chết, ông lại được trọn vẹn phần thưởng lớn lao ở trên Thiên đàng.
-Ông Phú Hộ thì ngược lại lúc sống đã hưởng thụ hết bao điều tốt đẹp trên trần gian, thì số phận của ông lại là một kết cục bi thảm hoàn toàn. Ông phải trọn kiếp trong đau đớn của ngày phán xét chung thẩm.
Lạy Chúa xin cho chúng con biết giúp đỡ mọi người, thực thi các giới răn Chúa dạy, và luôn quảng đại chia sẻ với những anh chị em đang trong những cảnh đời vô cùng éo le. Amen.
Lm Giacobe Tạ Chúc
GIÀU CÓ LÀ TỘI LỖI?
(CN XXVI/TN-C)
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXVI/TN-C – Lc 16, 19-31) trình thuật dụ ngôn "Ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó". Nhìn cảnh ông nhà giàu "mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình", ăn chơi phè phỡn, chẳng bao giờ thèm ngó đến anh La-da-rô "mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no"; thấy quả thật ngay từ thời xưa đã có cảnh "Giàu sơn lâm lắm kẻ tìm, khó giữa chợ ít người hỏi", "trọng phú khinh bần" (trọng giàu khinh nghèo). Cho tới khi "lên xe hoa" về âm phủ, ông nhà giàu mới "bừng con mắt dậy..." thấy anh nghèo kiết xác La-da-rô đang nằm trong lòng tổ phụ Ap-ra-ham.
Và chỉ đến lúc ấy, ông ta mới khẩn thiết kêu xin tổ phụ cứu vớt. Tổ phụ cũng chịu thua vì ông nhà giàu đã tự đưa mình vào án phạt đời đời ấy. Cuối cùng, ông ta mới chợt nhớ đến những người thân cận còn ở trần thế và thưa với tổ phụ xin nhờ anh La-da-rô về cảnh báo họ đừng theo gương mù của ông ta. Thật thú vị khi được nghe lời tổ phụ Ap-ra-ham nói với ông nhà giàu: "Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin". Không còn câu nói nào đánh trúng tim đen những đại gia giàu sụ hơn được nữa. Quả thực "con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa" (Mt 19, 24). Như vậy, phải chăng giàu là một cái tội? Và nếu giàu là có tội thì nghèo hẳn là có phúc? Tại sao lại thế?
Trước hết, nói về những người giàu có. Con người sống trên đời, kể từ khi Nguyên Tổ phạm tội, bị tội lỗi thống trị, thì có đủ “tham sân si”, mà “tham” là đầu sỏ (“Máu tham hễ thấy hơi đồng là mê” – Kiều; “tham vàng phụ nghĩa” – tục ngữ VN). Lòng tham vốn dĩ không đáy, có 1 thì lại muốn có 2, có 3 có 4 thì lại đòi có 5 có 10, không biết thế nào là cùng. Từ đó, nếu chỉ làm giàu bằng cách thật thà, chân chính mà không toại nguyện, sẽ đi đến chỗ làm giàu bằng mọi cách, bất chấp thủ đoạn, miễn sao “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” (Kiều) là đủ. Đã làm giàu bằng cách bất chính như thế, tất nhiên sẽ sử dụng tiền của không trung thực, chỉ lo sung sướng phè phỡn bản thân mà bất cần nghĩ đến ai khác. Với tấm lòng chỉ nghĩ đến bản thân, hà tiện đức ái như vậy, tất sẽ mắc tội thứ hai và thứ năm trong “bảy mối tội đầu”. Giàu như vậy, có tội là cái chắc.
Còn nếu biết dùng những phương cách chân chính mà kiếm được nhiều tiền của, và khi sử dụng những tiền của ấy thì biết cách sử dụng, coi nó chỉ là phương tiện giúp ích cho đời sống, chớ không coi nó như một ông chủ, thì chắc chắn là không có tội. Không những thế, khi sử dụng những tiền của do tự mình làm ra mà không xa hoa phung phí, không phè phỡn phô trương, chỉ cốt “ăn để mà sống chớ không sống để mà ăn”, của cải dư thừa thì nhớ đến những anh em bất hạnh hơn mình, nghèo khổ hơn mình… mà chia sẻ từng miếng cơm manh áo, thì hẳn nhiên sẽ là người có phúc (cụ thể là phúc thứ nhất và phúc thứ năm trong “8 mối phúc”). Ngay như tổ phụ Ap-ra-ham, hoặc ông Gia-cóp đều là những người giàu có. Tổ phụ Áp-ra-ham thì: “Ông Áp-ra-ham rất giàu, ông có nhiều súc vật và vàng bạc” (St 13, 2). Con của ngài là I-xa-ac thì: “trở nên giàu có, mỗi ngày một giàu thêm, giàu vô kể” (St 26, 13). Còn ông Gia-cóp cũng làm giàu và “Thế là ông trở nên giàu, thật giàu; ông có chiên dê đầy đàn, có tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa”. (St 30, 43). Vậy mà các ngài đều được hưởng phúc vinh trên Thiên quốc, thì hẳn nhiên giàu có chưa phải là cái tội.
Còn nghèo cỡ anh La-da-rô trong bài Tin Mừng, nghèo mà có được cái tâm hướng thiện, biết sống đức khó nghèo, đương nhiên là được hưởng phúc. Nhưng như thế vẫn không có nghĩa là tất cả những người nghèo đều có phúc cả đâu. Bởi trò đời thường hay “bần cùng sinh đạo tặc” (nghèo quá hoá trộm cướp), rồi từ chỗ gian lận, lường thưng tráo đấu, đi đến chỗ cướp của giết người cũng chẳng còn bao xa. Ấy là chưa kể còn chán vạn người nghèo vật chất mà còn nghèo đến độ keo kiệt bủn xỉn luôn cả về tinh thần như anh chàng đầy tớ trong dụ ngôn “Tên mắc nợ không biết thương xót” (Mt 18, 23-36). Nợ nhà vua tới mười ngàn yến vàng, mà biết quỳ lạy xin khất, vẫn được nhà vua tha luôn món nợ kếch sù. Trong khi đó, đối với người bạn chỉ mắc nợ mình có 100 quan tiền, bạn đã sấp mình xuống xin khất, mà vẫn không tha, còn tống vào ngục tối cho đến khi trả hết nợ mới thôi. Thế đấy!
Hoá cho nên giàu cũng chưa hẳn là có tội, mà nghèo cũng chưa hẳn là có phúc. Ăn thua là ở chính cái tâm địa con người, giàu mà có thiện tâm thì vẫn được hưởng phúc, nghèo mà có ác tâm thì vẫn mắc tội như thường. Ôi chao! Nói là nói vậy thôi, chớ còn kiếm được cái thiện tâm trong thế giới người giàu còn khó hơn cả mò kim đáy biển. Và cũng vì thế nên "con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa" (Mt 19, 24). Cũng đã có những vấn nạn: Ngày nào cũng thấy đọc “xin Cha cho chúng con rầy hàng ngày dùng đủ (xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày)”; rồi khi đọc bài ca “Ngợi khen” lại thấy “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (kinh Magnificat – Lc 1, 53); vậy mà không hiểu sao người nghèo vẫn đầy rẫy, nghèo vẫn cứ nghèo, nghèo đến độ không có củ khoai, củ chuối để mà ăn. Trong khi đó, người giàu vẫn cứ giàu thêm lên, giàu nứt đố nổ vách. Sao lạ vậy?
Vấn nạn mới nghe qua cứ tưởng là hữu lý, nhưng xét cho cùng, thì sẽ thấy: Lương thực Chúa ban cũng giống như mưa trời rải đều khắp nơi. Muốn có nước mưa dùng, thì ít nhất cũng phải biết sắm cái chum cái vại, đào cái ao cái hồ, xây cái bể cái máng, mới có nước mưa được. Hoặc giả, lười đến độ cứ “há miệng chờ sung rụng”, thì ít ra cũng phải bò, phải lết đến gốc cây sung rồi há miệng ra, chớ chẳng lẽ cứ nằm im một chỗ chờ sung bò đến tận miệng sao? “Có làm thì mới có ăn, Không dưng ai dễ đem phần đến cho” (ca dao VN), đúng không nào? Còn câu trích trong kinh Magnificat, thì phải hiểu “của đầy dư” chính là của cải Nước Trời, và “đuổi về tay trắng” không có nghĩa là lột hết của cải trần thế của những người giàu, mà là giàu có ở trần thế sẽ gánh hậu quả “tay trắng” trên Thiên quốc. “Vua Ngô ba mươi sáu cái tàn vàng, Chết xuống âm phủ cũng chẳng mang được gì” cơ mà !
Chung quy, người giàu mà biết thu tích của cải Nước Trời bằng cách “bán hết của cải mà chia cho người nghèo” (Mt 19, 21), người nghèo mà biết làm giàu bằng cách tu nhân tích đức, thì tất nhiên phần thưởng dành cho họ sẽ không phân biệt giàu nghèo nơi trần thế, mà là sự giàu có hạnh phúc nơi Thiên quốc. Nói cách khác, dù giàu hay nghèo về vật chất mà vẫn biết cách làm giàu về đường tinh thần (giàu thiện tâm, giàu lòng bác ái) thì chẳng lo chi không được hưởng sự sang giàu nơi Quê Trời vĩnh cửu. Cái hình ảnh đáng ghi nhớ nhất trong dụ ngôn “ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó” chính là hình ảnh anh nghèo kiết xác La-da-rô trong lòng Tổ phụ giàu có Ap-ra-ham nơi cõi phúc.
Ôi! Lạy Chúa! Nếu con được Chúa ban cho của cải nơi trần thế, thì xin Chúa cũng ban dũng khí và can đảm cho con sống theo gương Tổ phụ Ap-ra-ham, sống tinh thần nghèo khó là biết đem những của cải dư thừa phù du ấy gửi vào ngân hàng Nước Trời, đầu tư vào những công trình thiện ích mà Chúa đã làm và đã dạy con thực hiện. Còn nếu Chúa thử thách con trong hoàn cảnh nghèo khó, thì xin Chúa cũng ban Thần Khí cho con để con có đủ nghị lực và kiên tâm sống như anh La-da-rô trong bài Tin Mừng hôm nay.
Ôi! “Lạy Chúa, khi Chúa thương xót và tha thứ, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả; xin không ngừng ban ơn giúp chúng con đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban mà chúng con đang hết lòng theo đuổi, chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN XXVI/TN-C).
JM. Lam Thy ĐVD.
Vực sâu ngăn cách
CN 26 TNC -Lc 16,19-31
Nhà giàu gấm vóc lụa là
Vận vào thân thể để mà khoe khoang
Ngày ngày yến tiệc tiêu hoang
Linh đình thể hiện giàu sang của mình
Cạnh bên có một bóng hình
La-ra-rô đó trong tình thảm thương
Khó nghèo đói rách lạ thường
Lại còn mụn nhọt vấn vương khắp mình
Nằm ngay trước cổng để rình
Chờ khi chủ tới rộng tình thương ban
Nhưng chờ mãi vẫn khô khan
Thèm ăn những thứ trên bàn rớt ra
Nằm mà quằn quại lê la
Không ai nhìn đến thực là cực thân
Mấy con chó tiến lại gần
Liếm lên chỗ ghẻ có phần ủi an
Thế rồi kiếp sống trần gian
Người nghèo chết đặng hưởng nhan Chúa Trời
Nhà giàu kết thúc cuộc đời
Đem chôn xuống đất xác thời thối đi
Phần hồn xuống tận âm ty
Cực hình phải chịu tức thì chẳng tha
Ông thì đưa mắt trông xa
Thấy rằng trên đó thực là vui thay
Áp-ra-ham đó trong tay
La-ra-rô đã đến ngày được yêu
Ông ta kêu cứu sớm chiều
Cầu xin tổ phụ nhận điều mình xin
Ngài ơi thương đến muôn nghìn
Chỉ cần giọt nước chẳng xin điều gì
Ngón tay nhúng nước một khi
Nhỏ lên đầu lưỡi còn gì mát hơn
Đây con bị lửa thiêu vờn
Áp-ra-ham nói không ơn huệ gì
Con ơi! hãy nhớ lại đi
Suốt đời con nhận phước chi sánh tày
La-ra-rô khốn khổ thay
Suốt đời phải chịu đắng cay buồn phiền
Nơi đây mới được bình yên
Còn con khốn khổ liên liên công bằng
Chúng ta đây cõi vĩnh hằng
Vực sâu ngăn cách mỗi đằng một xa
Bên này có muốn đi qua
Cũng không thể được thật là khó khăn
Nhà giàu vẫn thấy băn khoăn
Vậy thì xin đến đừng ngăn cản gì
La-ra-rô đến một khi
Cha tôi sẽ được tức thì đổi thay
Xin sai anh đến báo ngay
Kẻo rồi họ phải đắng cay cực hình
Áp-ra-ham đáp thực tình
Mô-sê, ngôn sứ hết mình dạy răn
Nghe lời đâu có khó khăn
Nhà giàu vẫn cứ nỉ năn van nài
Họ đâu có chịu thưa ngài
Nếu người đã chết được sai trở về
Họ thì tin tưởng mọi bề
Ăn năn sám hối mà chê sự đời
Áp-ra-ham lại đáp lời
Môi-sê, ngôn sứ họ thời chẳng nghe
Thì người chết nói vo ve
Họ đâu để ý tin nghe làm gì.
Jos. Hồng Ân
BÀY TỎ ĐỨC TIN
Kính thưa quý vị ! Như mọi người đã biết, sự việc xảy ra tại giáo xứ Mỹ yên, Giáo phận Vinh, Việt Nam.” Là một sự việc rất lấy làm đáng tiếc, vì đáng ra nó không xảy ra tại thời điểm của thế kỷ 21 nầy”. (theo lời nhận định của Đức cha Phaolô Nguyễn Thái hợp.) .Nhưng sự thật vẫn là sự thật, nguyên nhân, thì cho đến lúc nầy, nếu ai tìm hiểu sự thật thì cũng hiểu đâu là sự thật. Và sự “bị” chụp mũ , vu khống nhằm trấn áp tôn giáo là việc làm thường xuyên của chế độ nhà cầm quyền hiện tại tại Việt Nam. Dù rằng thiện chí của giáo quyền là đầy đủ, nhưng sự thiếu tôn trọng của nhà cầm quyền đối với người giáo dân và đối với giáo quyền là nguyên nhân chính dẫn đến sự xung đột không đáng có.
Đức tin của người Công giáo là đức tin luôn mang sứ vụ làm chứng cho Tin Mừng Đức Kitô. Vì vậy ,đức tin ấy đòi hỏi phải là một đức tin “hành động”, nghĩa là đức tin có việc làm, vì đức tin không có việc làm là đức tin chết. Từ đó, đức tin chính là yếu tố chính trong đời sống chứng nhân Kitô hữu. Vì đức tin là nền tảng, là rường cột, là động lực để sống Đạo, nên chi, có thể nói đức tin là “ linh hồn” của Giáo hội. Vì thế, mọi hình thức sống đạo đều quy chiếu về đức tin, đức tin mang lại cho người tín hữu một sức mạnh, một năng lực siêu nhiên, từ đó cũng hiểu được đức tin mạnh hơn cái chết. Từ đó, đức tin có sức mạnh liên kết( hiệp nhất ) con người lại với nhau tạo thành một sức mạnh phi thường. Điều đó chứng minh được trong lịch sử Giáo Hội Công Gíao trên khắp hoàn cầu, trong đó từng cá nhân, từng cộng đoàn tín hữu đã duy trì và giữ vững đức tin trong những cuộc bị thử thách miên trường. Điều đó cũng chỉ là một ý nghĩa duy nhất : “ Bày tỏ Đức Tin”. Bày tỏ đức tin cũng chính là giữ vững đức tin, kiên định lập trường đức tin. Đó là sứ mạng , là hồng ân, là nguyên lý và là chân lý, nếu không thì vô nghĩa. Từ đó, người giáo dân không thể nào gây ra lỗi với nhà cầm quyền khi họ bày tỏ đức tin. Vì biểu lộ đức tin là một sứ vụ và hồng ân của họ. Từ sự thật đó, nhà cầm quyền không thể dửng dưng với trách vụ chính đáng thuộc niềm tin tôn giáo của người dân dưới bất kỳ hình thức nào. Mặc nhiên, không vi phạm pháp luật, vì không một quan điểm đức tin nào chống lại pháp luật, chống lại nhà cầm quyền.
Theo đó, sự việc xảy ra tại Mỹ yên là do sự “lấn sân” của chính quyền, nếu chính quyền công tâm, không làm điều trái với “ lương tâm”, thì người dân không thể nào phản kháng vô lý với chính quyền. Minh quân thì bao giờ cũng hơn bạo chúa, không người dân nào có ý đồ chống lại “minh quân”, nhưng chắc chắn rằng họ sàng chống lại bạo chúa. Đó là quy luật bất khả sai lầm, của lẽ tự nhiên. Vì lẽ đó, nếu nhà cầm quyền muốn vô cớ đàn áp những người có niềm tin thật sự, thì nên nghĩ lại, vì điều đó không dễ dàng, hơn nữa đối với thế giới ngày nay.
Vì người thành lập ra đảng cầm quyền tại Việt nam, cũng phải nhìn nhận và tôn trọng người có tín ngưỡng, và hơn nữa, những trường hợp đáng tiếc đã xảy ra đối với một số không nhỏ người dân Việt Nam vẫn còn đó, và chính bản thân vị lãnh tụ từng đứng ra ”xin lỗi” những nạn nhân đó, bằng cách khóc trước diễn đàn.
Mong sao, thế hệ hậu sinh của vị lãnh tụ nầy nhận thức được chân giá trị để đừng hối tiếc về sau, như vị lãnh tụ của mình, được vậy, họ chính là người “nói và làm” trong chương trình: “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Nên chi, xin đừng nghĩ rằng: “Đánh chủ chăn, chiên sẽ chạy tán loạn”. Điều ấy, dường như không còn phù hợp nữa. Vì chính Thiên Chúa sẽ quy tụ tất cả./.
25/09/2013
P.Trần Đình Phan Tiến
Suy Niệm Chúa Nhật XXVI Thường Niên C
Lm Anthony Trung Thành 9/18/2016
Suy Niệm Chúa Nhật XXVI Thường Niên C
Trong phần sám hối đầu mỗi thánh lễ, chúng ta thường đọc kinh thú nhận: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót.” Thật vậy, chúng ta không những phạm các tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm mà còn cả những điều thiếu sót. Điều thiếu sót hay là tội thiếu sót là những tội liên quan đến bổn phận buộc chúng ta phải làm, phải nói mà chúng ta không làm, không nói. Để hiểu hơn về tội thiếu sót, chúng ta cùng nhau tìm hiểu bài Tin mừng hôm nay.
Thánh Luca kể rằng: “Có một nhà phú hộ kia, vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình” (Lc 16,19). Nhà phú hộ tức là người giàu có. Nhờ đâu mà ông ta giàu có? Chúng ta không biết, vì Tin mừng không nói tới. Đức Giêsu cũng không kết án ông vì tham ô tham nhũng, làm ăn bất chính hay chiếm đoạt tài sản của người khác. Cho nên, sự giàu có của ông không phải là tội. Nhưng tại sao nhà phú hộ này sau khi chết lại phải sa hỏa ngục? Thưa, nhà phú hộ đã mắc tội thiếu sót. Ông giàu có. Ông có khả năng giúp đỡ người nghèo. Người nghèo đó ở bên cạnh ông. Đó chính là ông Lazarô. Nhưng ông đã không quan tâm, không giúp đỡ, không có tình liên đới. Ông sống dửng dưng. Thánh Luca kể tiếp: “Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy" (Lc 16,20-21).
Vì lý do đó, nên ông bị kết án sa Hỏa ngục. Để hiểu hơn điều này, chúng ta nghe lại lời Đức Giêsu nói trong đoạn Tin mừng theo Thánh Mathêu, chương 25 nói về ngày phán xét chung. Chính Đức Giêsu nói với những kẻ bên trái lý do mà họ phải sa Hỏa ngục rằng: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng" (Mt 25,42-43). Đức Giêsu giải thích thêm: “Mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy”(Mt 25, 45).
Thật vậy, của cải được giao cho con người quản lý. Người được trao năm nén, người được trao hai nén, người được trao một nén (x. Mt 25, 14-30). Ai cũng phải biết làm lời số vốn được giao cho mình. Cách làm lời tốt nhất là phải biết phân phát, chia sẻ. Vì vậy, ai được Chúa trao cho nhiều tiền của phải có trách nhiệm phân phát, chia sẻ cho những người khác. Người khác ở đây chính là những người “nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” (x. Lc 14,13). Khi chia sẻ cho người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, không những chúng ta đang thi hành việc bác ái, mà hơn thế nữa, chúng ta đang thi hành trách nhiệm của tình liên đới giữa con người với nhau. Ông Gandhi đã nói rất chí lý rằng: “Những của cải chúng ta dư thừa là chúng ta ăn cắp của người nghèo.”
Có nhiều cách để chia sẻ: chúng ta hãy rộng tay chia sẻ cho người nghèo khi họ đến với chúng ta; có khi chúng ta đi tìm người nghèo để chia sẻ cho họ; có thể chúng ta đóng góp phần mình vào các hội từ thiện bác ái trong Giáo Hội hay ngoài xã hội... Nghĩa là chúng ta luôn chớp lấy cơ hội đến với mình, đồng thời có khi phải tạo cơ hội cho mình để phân phát, chia sẻ những gì chúng ta có cho những người nghèo, tàn tật, đui mù. Có như thế, chúng ta mới tránh được tội thiếu sót mà nhà phú hộ trong câu chuyện Tin mừng hôm nay mắc phải.
Còn ông Lazarô, có phải ông nghèo khó nên được lên Thiên đàng không? Chắc chắn không phải như vậy? Nguyên việc nghèo đói không bảo đảm cho con người được lên Thiên đàng. Trái lại, nếu vì lười biếng làm chúng ta trở nên nghèo đói, từ đó sinh ra trộm cắp, gian lận, phàn nàn kêu trách Chúa…thì lại càng không được lên Thiên đàng. Cho nên, ông Lazarô được lên Thiên đàng không phải vì ông nghèo khó, nhưng ông sống tốt bổn phận của ông trong hoàn cảnh nghèo khó. Mặc dầu nghèo khó, nhưng ông không trộm cắp, không gian lận. Ông vẫn sống tinh thần nghèo khó. Ông phó thác hoàn toàn vào tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa. Ông không phàn nàn kêu trách Chúa. Nên ông đã được lên Thiên đàng.
Thời đại nào cũng có những người giàu. Đất nước nào cũng có những người sở hữu cả khối tài sản khổng lồ. Có thể họ giàu là do chính sức lao động của họ làm nên. Cũng có thể họ giàu là do thừa kế của ông bà cha mẹ. Nhưng, vẫn có những người giàu có là do nạn tham ô tham nhũng. Đặc biệt tại đất nước Việt Nam chúng ta, có những vụ tham nhũng lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Theo báo cáo tóm tắt của Tổng thanh tra chính phủ cho biết trong 10 năm qua thiệt hại do các vụ án, vụ việc tham nhũng được phát hiện gần 60.000 tỉ đồng và trên 400 ha đất. Đến nay số tiền đã thu hồi cho nhà nước là gần 5.000 tỉ đồng và hơn 200 ha đất (Theo tuoitre.vn). Mới đây, hồ sơ đại án Phạm Công Danh, cựu chủ tịch ngân hàng xây dựng cho biết, ông đã gây thiệt hại cho ngân hàng hơn 9.000 tỷ đồng (Theo Trí Thức Trẻ).
Trong khi đó, rất nhiều người không có gì ăn, trẻ em suy dinh dưỡng, nhiều người phải chết đói. Nhiều trẻ em không có điều kiện để đến trường. Câu chuyện cậu bé Ksor Sôn (lớp 6, Trường THCS Trần Phú), 11 tuổi tự tử vì không có quần áo mới để đến trường là một ví dụ điển hình. Em sinh ra trong một gia đình quá khó khăn, Sôn không có nổi 1 bộ đồ mới chỉ hơn 100 ngàn đồng để nhập học, tủi thân rồi tìm đến cái chết. Rồi chuyện hai người nghèo ở Sơn La chết ở bệnh viện, người nhà không có tiền thuê xe, phải cuốn chiếu chở bằng xe máy đưa về nhà…Xem ra xã hội chúng ta đang sống vẫn còn nhiều nhà phú hộ và ông Lazarô.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Thứ nhất, hãy biết sống tình liên đới, chia sẻ: Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Tình liên đới sẽ vượt thắng được mọi khủng hoảng.” Nếu chúng ta may mắn là người giàu có, hoặc có của cải dư thừa…Đó là cơ hội để chúng ta sống tình liên đới, chia sẻ với những người nghèo khó, những người kém may mắn hơn chúng ta.
Thứ hai, hãy quyết tâm sống thanh liêm. Nếu phải sống trong cảnh nghèo khó không được trộm cắp, gian lận, không phàn nàn kêu trách Chúa. Cổ nhân dạy chúng ta: “Đói cho sạch, rách cho thơm.”
Thứ ba, hãy làm những gì khi còn có thể: có nhiều người sống như không bao giờ chết. Chính vì thế, họ chỉ lo tích trử chứ không biết chia sẻ. Khi chết rồi họ mới hối hận về cuộc sống của mình giống như nhà phú hộ. Vậy, hãy làm những gì khi còn có thể.
Lạy Chúa Giêsu, xin đẩy xa xã hội chúng con đang sống nạn tham ô, tham nhũng. Xin cho những người giàu biết rộng lòng chia sẻ của cải cho người nghèo. Xin giúp chúng con luôn thấy được, nghe được, cảm nghiệm được sự nghèo khó của những người kém may mắn trong xã hội, để chúng con luôn biết sống tinh thần liên đới, rộng tay ban phát và chia sẻ những gì có thể cho họ. Amen.
Lm. Anthony Trung Thành
|
|