|
Hạt
Giống
chúa nhật 27 thường niên, năm C
October 5, 2013
Một người đi gieo giống. Ông đặt hạt giống xuống lòng đất với
tất cả lòng tin. Điều ông tin có thể sẽ được thực hiện, nhưng
ông phải chờ cho đủ thời gian để hạt giống lớn lên, trưởng thành
và đâm bông kết trái. Thế mà chúng ta thường quên đi qui luật
sống này. Khi Chúa phán, ''Nếu anh có lòng tin bằng hạt cải, anh
bảo cây dâu này 'hãy xuống biển mà mọc,' nó sẽ vâng lời anh''.
Chúa bảo, ''sẽ'' chớ Chúa không nói ''ngay lập tức'', và Chúa
cũng không giới hạn thời gian.
Chúng
ta thường quan niệm "Tin" như một thứ bùa. Khi chúng
ta có lá bùa, Chúa phải phục vụ mọi yêu sách của ta ngay lập tức.
Nhưng Tin là một hành trình sống giữa ta và Chúa; và ta theo ý
Chúa hơn là Chúa theo ý ta. Vì ta biết điều ta xin, nhưng Chúa
biết điều ta cần. Qua hành trình cuộc sống, Chúa sẽ cho ta thấy
tình yêu, sức mạnh và chân lý của Ngài để thanh luyện tình yêu
và ý muốn của ta, giúp ta cởi bỏ con người ích kỷ của ta, để mở
ra cho tình yêu, hầu đi vào mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa Ba
Ngôi. Chúa giúp hạt giống đức tin của ta nẩy mầm và lớn lên thành
cây to đến nỗi ''chim trời có thể đậu trên đó'' nhờ ân sủng và
nhờ sự tôi luyện trong thử thách. Khi đó dù thử thách lớn đến
đâu, cũng không thể cản trở bước đường ta yêu mến Chúa và chu
toàn sứ mạng Chúa trao; và đức tin vững mạnh của ta giúp xây dựng
niềm tin cho những người khác.
Từ khởi nguyên Thiên Chúa đã kêu gọi con người tin tưởng vào một
mình Ngài. Vì chỉ mình Ngài mới ban sự sống, sức mạnh và sự khôn
ngoan của chính Thiên Chúa cho ta để vượt thắng thử thách và cám
dỗ. Adam và Evà đã tin vào sự dối trá của ma quỷ, chọn mình hơn
chọn Chúa, đã dẫn cả nhân loại vào khổ đau và chết. Thế giới vô
thần chỉ có loạn lạc, chiến tranh và huỷ hoại lẫn nhau. Chỉ những
người tin vào Chúa mới thấy mình có trách nhiệm kêu cầu Chúa và
có trách nhiệm loan truyền niềm tin để cùng nhau cải tạo một thế
giới mới. Các thánh tông đồ đã biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối
vào Chúa dù trong những lúc đen tối nhất, họ vẫn vững tâm rao
giảng Lời Chúa.
Chính Đức Giêsu Kitô cũng đã trải qua những thử thách trong suốt
hành trình thi hành sứ mạng. Và thử thách lớn nhất là thử thách
thập giá. Ngài bị cám dỗ xuống khỏi thập giá. Nhưng Ngài đã vượt
thắng được thử thách vì Ngài luôn sống liên kết với Cha, nhắm
đến tình yêu và nuôi mình bằng Thánh Ý của Cha, ''Xin đừng theo
ý con, nhưng xin cho Ý Cha được hoàn thành''.
Nếu chúng ta gặp thử thách, biết chôn vùi thử thách của ta vào
trong mầu nhiệm khôn ngoan của Thiên Chúa thì chính thử thách
dẫn ta đến mầu nhiệm Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng duy nhất có
thể kết hợp thử thách, khổ đau của ta vào mầu nhiệm thập giá của
Ngài để biến thành sự sống cho chính ta và nhân loại.
Hạt giống tình yêu của Chúa Giêsu đã gieo vào lòng đất, đã trổ
sinh sự sống mới cho nhân loại. Chúng ta là những Kitô hữu, hơn
ai hết, chúng ta có trách nhiệm đi rao giảng tin mừng này cho
nhân loại và kêu mời mọi người đến đón nhận sự sống đã được trao
ban. Chúng ta ra đi với lòng tin can đảm, không sợ bắt bớ, chết,
hay sỉ nhục... Đã đến phiên ta phải gieo chính hạt giống lòng
tin và tình yêu của ta cho nhân loại, nhờ sức mạnh của Đức Giêsu
Kitô phục sinh đã chiến thắng thử thách Thập giá đang cư ngự trong
ta...
Sr.
Tố Nhung
Phục
vụ trong khiêm tốn
và sức mạnh của Đức tin
Chúa nhật 27 thường niên C -2007
1. Phục vụ: Chúa Giêsu dạy muốn phục vụ, trước hết hãy khiêm
tốn, khiêm tốn đến mức tự coi mình là đầy tớ. Khi đã tự coi
mình là đầy tớ rồi thì ta sẽ không ngại phục vụ người khác,
hơn nữa ta sẽ coi tất cả những gì ta làm cho người khác đều
là bổn phận.
2.
Đức tin: một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào thiên đàng;
một đức tin lớn sẽ đưa thiên đàng vào linh
hồn bạn.
Cô
Maria della Cioppa, một nữ y tá nhiệt tình, tận tâm và xả thân
hết mình với bệnh nhân, cô phục vụ tại bệnh
viện nơi tôi
đang phục vụ, cô đã tìm lại được sự an bình khi cô tình cờ
nhờ một cọng cỏ. Tai họa đã dồn dập đổ trên cô Maria,
mọi sự chỉ
là đen tối, nhiều phen cô muốn kết liễu đời mình cho xong.
Đang lê bước chân vô định trên lề đường, cô chợt trông
thấy, một cọng
cỏ vươn lên trong kẽ nứt lề bê tông. Sự sống, nhỏ nhoi, xanh
tươi, mạnh mẽ hơn cả tấm "thảm" bằng
xi măng nặng chịch đang ra dấu cho cô. Cô lấy lại can đảm
để đương đầu với những năm tháng lê thê đầy khó khăn. Hỏi
rằng
trong số nhan nhản những người qua đường, có bao nhiêu người
đã trông
thấy cọng cỏ ấy. Chắc hẳn chỉ có cô là người duy nhất nhận
ra sứ điệp.
Lời
tâm sự khiêm tốn này luôn khích lệ tôi. Tôi luôn chăm chú nhìn
trên lề đường và trên những bức tường,
công trình
can
đảm của cây cỏ. Và trong cuộc sống con người, tôi cũng
thích quan
tâm đến những sáng kiến nhỏ nhoi bất ngờ.
Hạt
cải... Đức Giêsu thật là khéo khôi hài. Các tông đồ khổ sở
muốn được "thêm" đức
tin, muốn đo đếm được nó, muốn cảm thấy nó dư dật theo
lòng sốt sắng của các ông. Vậy mà Đức Giêsu lại hướng chú
ý của họ vào
một hạt giống bé xíu, rồi lại đặt nó đối chọi với một
cây lớn! "Nếu anh em chỉ có đức tin lớn bằng hạt cải thì dù anh em bảo cây to kia: Hãy
bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó sẽ vâng lời
anh em". Cọng cỏ và nền bê tông, Đavít và Goliát, cùng bà Sara cao niên hiếm muộn mà
sinh đẻ trong nụ cười... tất cả là nhờ vào đức tin.
Đức
Giêsu thường nói về cái hạt giống bé nhỏ, được gieo vào
các loại đất khác nhau, xem như bị chết héo nhưng
vẫn sinh
hoa kết
trái. Như vậy, Thiên Chúa gieo vung vãi, giống như
một đứa trẻ đùa nghịch, và Người mời gọi ta hãy tiếp nhận
để rồi
lại đi gieo
nhưng không. Đức tin, là một giọt nhựa trong cây, một
hạt giống vô hình, một ngọn lửa âm ỉ trong ánh mắt.
Nhưng đủ
để thay
đổi cả cuộc đời, để chuyển núi dời non. Tin tưởng là
chấp nhận một
sự bất cân xứng không thể tưởng tượng nổi giữa sự ù
lì của con người và năng lực siêu phàm của Thiên Chúa vốn
mời gọi
ta biến
đổi tất cả, mời gọi ta hãy sáng tạo dù không ai nhận
ra. Hãy làm như Chúa.
Trên
trái đất này, có biết bao người, nam cũng như nữ, đang làm
như Thiên Chúa. Họ ở khắp mặt đất, đang
dấn
thân phục
vụ một
cách âm thầm tại các xứ truyền giáo, bệnh viện, học
đường. Thế mà nhiều người có hay biết đâu! Nếu bạn
nói cho họ
biết điều
ấy, họ sẽ hết sức ngạc nhiên và chính họ sẽ đơn giản
đáp rằng: "Chúng
tôi chỉ làm việc bổn phận của chúng tôi. Việc phục
vụ là hoàn toàn nhưng không". Họ đã và đang làm như Chúa đã làm.
Thánh
Phaolô đã viết: "Bạn
có gì mà bạn đã không nhận lãnh?" (1Cr 4,7 ). Nếu xét cho kỹ thì tất cả những gì ta cho là tài ba hay công lao "của mình" đều không phải là của mình thực. Trí óc ta thông minh ư? Đó là nhờ Chúa sinh
ra ta như thế. Sức khoẻ ta dồi dào ư? Cũng nhờ
Chúa sinh ta ra sẵn như vậy. Ta có nhiều năng khiếu
ư?
Cũng do Chúa sinh ra ta
như vậy. Ta đẹp ư? Cũng thế. Ta làm nhiều việc
thành công ư? Đó là nhờ ta có sẵn thông minh, sức
khoẻ,
năng khiếu. Tất cả
là của Chúa, và ta chỉ là công cụ để phục vụ cho
Ngài. Bởi vậy dù ta làm được gì thì ta cũng là
đầy tớ vô dụng thôi.
Người
ta hỏi Thánh Phanxicô Assisi nhờ đâu và bằng
cách nào mà ngài làm được nhiều việc như thế.
Thánh nhân đáp: "Thiên
Chúa ở trên Thiên đàng nhìn xuống dưới đất. Ngài
tự hỏi: 'Tìm đâu ra một người yếu đuối nhất,
nhỏ bé nhất và hèn hạ nhất đây?'
Thế rồi Thiên Chúa tìm thấy tôi. Ngài lại tự
nhủ: 'Ta đã tìm được nó rồi. Qua nó, Ta sẽ làm những
việc Ta muốn. Nó sẽ không
tự phụ được với những việc đó, bởi vì nó biết
rằng Ta xử dụng nó chỉ vì sự yếu đuối, nhỏ bé và hèn
hạ của nó thôi' (Christian
Herald).
Hãy
tin tưởng vào Chúa và hãy khiêm tốn phục vụ là sứ điệp mà Chúa
gửi đến cho chúng ta hôm
nay.
Sr.
Rose Trần Thị Hải C.S.J.B - NS-TTĐM
GỢI Ý SUY NIỆM LỜI CHÚA.
Chúa nhựt 27 thường niên năm C
Lc 17, 5-10
Cha Jacques Loeuw, trong một bài giảng đã nói một câu làm mọi người sửng sốt: “Có thể bạn là một vị khổ tu, bạn cũng có thể là người “không có Chúa”. Một linh mục khác cũng nói: “Có những người công giáo vô thần và có nhiều người không giữ đạo mà lại tin Chúa”.
Điều nầy là một sự thật. Tại sao thế?
Vì nhiều người công giáo chỉ giữ một thứ đạo “ngoài da”, một thứ đạo không hồn: đọc kinh, dự lễ, xưng tội, chịu lễ, nhưng cuộc sống hoàn toàn không có Chúa. Nhìn vào cuộc sống của họ, người ta chỉ thấy tiền bạc, mua sắm, tranh giành, nói xấu…Như thế có thể nói là có đức tin không?
Tin không phải chỉ là chấp nhận một số giáo điều, làm một số việc, mà nhìn nhận sự có mặt của một người trong đời mình, đó là Chúa Giêsu, Đấng Tuyệt Đối, nắm trọn quyền trên tôi và tôi hoàn toàn thuộc về Ngài, vô điều kiện.
Tin là trao phó tất cả cuộc đời cho Thiên Chúa để Ngài dẫn dắt, và chúng ta chỉ vâng nghe. Nhưng trước hết, tin là lãnh nhận một hồng ân nhưng không Chúa trao ban. Con người có thể tìm thấy Chúa nhờ trí khôn của mình, thánh Phaolô đã nói như thế, nhưng tin vẫn là một hồng ân. Các Tông đồ đã xin Chúa thêm lòng tin, nhưng Chúa không nói đến lời yêu cầu của các ông mà bảo: “Nếu anh em có niềm tin lớn bằng hột cải thôi, thì dù anh em có bảo cây dâu nầy xuống biển, nó cũng vâng lời anh em”. Thế nghĩa là sao?
Hạt cải ở xứ Do thái là một thứ hột li ti. Chúa muốn nói rằng, chúng ta chỉ cần tin thôi, nghĩa là chấp nhận để Chúa làm tất cả. Cây dâu kia vâng lời chúng ta, nhưng thực sự nó vâng lời Chúa chứ không phải chúng ta. Chính Chúa bảo nó xuống mọc dưới biển qua lòng tin của chúng ta chứ không do quyền năng của chúng ta.
Khi chúng ta trao trọn mọi sự trong tay Chúa, chính Chúa sẽ sử dụng chúng ta để làm công việc của Ngài.
Trong lịch sử Giáo Hội, các thánh đã làm những việc vĩ đại, nhưng cá nhân của các ngài chỉ là những con người như chúng ta thôi. Họ đã làm được vì họ đã tin.
Thánh Phanxicô Assisi, với hai bàn tay trắng, với một cái áo dính da, đã lập ra dòng Anh Em Hèn Mọn, và từ hơn mười thế kỷ nay, những anh em hèn mọn ấy đã mang lại biết bao nhiêu kết quả tốt đẹp cho Giáo Hội và cho các linh hồn. Ngài đã chuyển núi dời non, với hai bàn tay trắng.
Đức Mẹ đã hiểu điều đó khi Ngài nói: “Chúa đã làm cho tôi những điều trọng đại” chứ không phải tôi. Chúa đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Ngài”. Đức tin bằng hạt cải là như thế, là cảm thấy mình nhỏ bé trong tay quyền năng của Chúa, trao phó cho Chúa tất cả và để Chúa sử dụng theo ý Ngài.
Không có gì đơn sơ hơn, nhưng cũng không có gì khó hơn.
Nói như thế không phải là thụ động, mà đem tất cả sức lực, khả năng làm những việc Chúa muốn. Kết quả không do nỗ lực của chúng ta mà do Chúa: “Vì không có gì mà Tiên Chúa không làm được”.
Con người thường tự hào về những thành công của mình. Họ nghĩ rằng họ thông minh. Họ không biết rằng chỉ cần một gân máu nhỏ bị đứt trong não, là mọi sự tiêu tan. Thánh Phaolô nhìn nhận: “ Tôi không xứng đáng được gọi là Tông đồ vì tôi đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu”. Nơi khác ngài nói: “Tôi trồng, Apôlô tưới và Chúa cho mọc lên”.Tất cả là do quyền năng của Chúa.
Còn tôi, tôi có tin không? Đức tin của tôi có tầm vóc của một hạt cải chưa? Vì chúng ta không tin, chúng ta không thể chuyển núi dời non như Chúa nói, chúng ta chưa làm được gì.
Chuyển núi dời non cũng còn dễ, hoán cãi một tâm hồn càng khó hơn. Chúng ta đã làm được gì? Chúng ta đừng ngạc nhiên, vì chính chúng ta cũng chưa tin Chúa đủ, chưa yêu mến Chúa.
Chúa Giêsu lại nói đến người đầy tớ. Tên đầy tớ chính là chúng ta. Chúa đặt chúng ta vào cuộc sống nầy, không phải để rong chơi, hưởng thụ, nhưng để xây dựng hạnh phúc cho chúng ta và cho anh em.
Hạnh phúc từ đâu đến? Hạnh phúc không có sẵn như một món hàng chỉ cần có tiền là mua được. Hạnh phúc là một công trình phải xây dựng từng ngày, từng lúc. Xây dựng bằng gì? Không phải bằng gạch đá hay cẩm thạch, nhưng bằng vâng phục.
Vâng phục như một đầy tớ vâng phục chủ mình. Nhiều người cho như vậy là mất phẩm giá, là lệ thuộc. Trong thực tế, cuộc sống chúng ta vẫn là một lệ thuộc liên lỉ. Chúng ta phải tuân theo luật của sự sống, phải thở, phải ăn…Đó chẳng phải là một lệ thuộc sao? Ông Frédéric Nietzsche, một triết gia vô thần đã nói: “Các anh, người công giáo, như những con lạc đà, quỳ gối xuống để người ta chất lên lưng những gánh nặng và lê lết suốt đời dưới gánh nặng đó”. Ông ấy đã sai lầm. Cuộc sống vẫn là một gánh nặng rồi.Chúng ta không thể né tránh. Hơn nữa, còn một gánh nặng khác ghê gớm hơn là gánh nặng của đam mê, của nết xấu và tội lỗi. Vâng lời Chúa, chúng ta mới có thể chiến thắng tội lỗi và những đam mê xấu xa,bẻ gãy xiềng xích của gian ác, chúng ta mới thực sự tự do.Bao lâu con người còn tội lỗi và gian ác, con người vẫn còn nô lệ.
Chúa Giêsu đã đến giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. Chúng ta chỉ được tự do khi chúng ta đi theo Ngài, vâng theo Ngài tôi, và nếu chúng ta có làm được gì, thì cũng nhờ Ngài mà thôi. Chúng ta chỉ là “những đầy tớ vô dụng”; “Không có Thầy, chúng con chẳng làm được việc gì”.
Thánh Phaolô đã kiệt lực vì Nước Trời, phục vụ Tin Mừng cho đến chết, nhưng cuối cùng ngài nhìn nhận: “Tôi có là gì là nhờ ơn Chúa mà thôi” và chúng ta cũng có thể thêm: “Vì tôi chỉ là đầy tớ vô dụng thôi”.
Càng ý thức mình nhỏ hèn Chúa mới sử dụng chúng ta để làm những việc trọng đại nơi “ những đầy tớ vô dụng” đó: “Nếu Chúa kông xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổn công”.
Vì thế, chúng ta mãi mãi là những “đầy tớ vô dụng”. Hãy làm những gì chúng ta phải làm với tất cả tình yêu và phó thác cho Chúa, Ngài sẽ biến mọi cố gắng của chúng ta thành hồng ân.
Chúa Giêsu, Đấng làm được mọi sự, sẽ đến với chúng ta qua tấm bánh Tình Yêu của Ngài. Hãy ăn lấy Ngài với tất cả yêu thương và trao trọn cho Ngài cuộc sống nhỏ hèn của chúng ta, để Ngài dùng chúng ta “chuyển núi dời non”, để hoán cải bao nhiêu tâm hồn đang còn quá xa lạ với Ngài. Chúng ta sẽ thấy cuộc đời chúng ta tươi sáng, mặc dù khó khăn vẫn còn và không thiếu. Hãy là những đầy tớ vô dụng nhưng tràn trề phó thác và tình yêu.
Lm Trầm Phúc
LÒNG TIN VÀ THÁI ĐỘ SẴN SÀNG PHỤC VỤ
(Luca 17,5-10 - CN XXVII TN - C)
1.- Ngữ cảnh
Đoạng văn Lc 17,7-9 [10] thường được trích như là một “dụ ngôn”. Kiểu gọi này được biện minh vì dựa trên một lời hư cấu về một cuộc gặp gỡ tưởng tượng giữa một ông chủ và những người đầy tớ làm việc ngoài đồng; lời này có tầm quan trọng đối với thế giới tôn giáo. Trong khi câu chuyện của Đức Giêsu thì hư cấu, nó lại phản ánh tương quan ông chủ-đầy tớ trong thế giới lúc ấy. Cử tọa rất hiểu những chờ đợi của ông chủ đối với đầy tớ của ông.
Tác giả Lc đã đặt dụ ngôn này ở cuối một vài lời nói không liên kết với nhau tại nguồn (cc. 1-6). Tuy nhiên, bài dụ ngôn của chúng ta bắt đầu với câu hỏi của Đức Giêsu ở c. 7, hẳn là ít ra phải liên hệ với c. 6, bởi vì câu hỏi của Đức Giêsu đi theo c. 6 mà không có chỗ nghỉ hoặc một lời dẫn nhập.
Những gì chúng ta đọc được ở cc. 5-6 liên hệ đến đức tin. Các môn đệ xin đức tin, nhưng qua câu hỏi, ta hiểu là họ đã có đức tin. Nhưng lời của Đức Giêsu dường như lại gợi ý rằng họ có ít đức tin hơn họ tưởng; thậm chí họ không có đức tin lớn bằng hạt cải, là thứ hạt giống nhỏ nhất. Lý do khiến các ông xin thêm đức tin là vì nội dung lời rao giảng trước đó của Đức Giêsu (tha thứ cho người xin tha, bất kể số lần) rất khó tuân theo. Có thêm đức tin, họ sẽ có thể vâng theo. Đức Giêsu không phủ nhận giá trị của việc gia tăng đức tin, nhưng Người quả có nghi ngờ là các ông không có đủ đức tin để vâng lời Thiên Chúa, là Chủ của họ và đối tác ký giao ước với họ.
Lời than thở này của Đức Giêsu về đức tin của các môn đệ gợi ý là có một dây liên kết với bài dụ ngôn. Nhận ra rằng các môn đệ hiểu lầm là các ông đã có đức tin, mà thật ra các ông không có một đức tin để luôn luôn vâng lời, Đức Giêsu tận dụng khái niệm “vâng lời” mà đưa ra một dụ ngôn liên hệ trực tiếp đến tư cách môn đệ: họ là những đầy tớ. Theo một nghĩa nào đó, đối với các đầy tớ, vâng theo các lệnh của ông chủ thì không khó khăn gì. Nhưng phải nhìn xa đến việc vâng lời chủ trong cả những hoàn cảnh khó khăn. Thực tại ông chủ-đầy tớ là một ví dụ tốt cho việc sống đời sống tôn giáo: đầy tớ phải hành động như đầy tớ. Các môn đệ đáng nhận lời Đức Giêsu chỉ trích về tình trạng thiếu đức tin, nhưng qua bài dụ ngôn, họ được yêu cầu nhìn đến bản thân để thấy rõ sự thật của họ: họ là những đầy tớ phải vâng lời Đức Chúa. Những giáo huấn của Đức Giêsu di trước cc. 5-6 rất khó nghe, nên đòi hỏi tin tưởng vào sự khôn ngoan của Đức Giêsu và qua Người, vâng lời Thiên Chúa. Có ai nghĩ rằng mình có đức tin mà lại không vâng theo các giáo huấn của Đức Giêsu? Đúng ra, chúng ta phải lắng nghe Đức Giêsu như là những đầy tớ, cho dù các khó khăn của các điều răn của Người có thế nào. Hiểu như thế, dụ ngôn có một đường nối với những gì đi trước: giáo huấn thì cứng rắn (không được làm bất cứ điều gì làm suy yếu đức tin của người thân cận do không tha thứ), nhưng đây là ý muốn của Chúa, và chúng ta, những đầy tớ của Người, chúng ta biết vai trò của mình và vâng phục.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần :
1) Đức tin (17,5-6);
2) Dụ ngôn Người tôi tớ (17,7-10).
3.- Vài điểm chú giải
- xin thêm lòng tin (5): Câu này có thể hiểu là: xin thêm đức tin vào niềm tín thác mà chúng con đã có, hoặc thêm tin tưởng vào những ân huệ khác mà chúng con đã lãnh nhận. Dựa theo văn cảnh, có thể ưu tiên hiểu theo nghĩa đầu.
- Hạt cải (6): Tiếng Hy Lạp là kokkos sinapeôs, tiếng Pháp là graine de moutarde, tiếng Anh là mustard seed. Cây sinapi (ta tạm dịch là “cây cải”) là một loại cây thông dụng bên Paléttina, có thể cao tới ba hoặc bốn thước, dạng mộc với các cành tỏa rộng. Hạt của nó không phải là nhỏ nhất trong các loại hạt, nhưng nhỏ nhất trong các loại hạt được người ta gieo trồng, được dùng làm mù-tạc và được tục ngữ Do Thái dùng mà chỉ những gì nhỏ nhất.
- cây dâu (6): Từ Hy Lạp sykaminos (1 V 10,27; 1 Sb 27,28 … Bản LXX) để dịch từ Híp-ri shiqmâh; thế mà shiqmâh là “cây sung” (HL sykomorea, “sycamore”). Vậy hẳn sykaminos ở đây cũng là sykomorea ở Lc 19,4: tác giả Lc dùng không phân biệt hai từ này. Dù sao, tác giả muốn nêu ra hình ảnh một cây khá to.
- đầy tớ (7): Tiếng Hy Lạp là doulos: người nô lệ hoàn toàn lệ thuộc người chủ và đón nhận mọi sự từ người chủ như những ân huệ (x. Tv 123,2). Vào thế kỷ i, xã hội được phân chia thành các giai cấp, chủ nhân và đầy tớ. Đa số các công nhân là đầy tớ của một ông chủ thì sống trong một ngôi làng và ra đi làm việc cho ông chủ, rồi lại trở về làng với một số tiền nhỏ là công lao động. Đôi khi những người này chờ nơi quảng trướng để mong có ông chủ nào thuê họ, vào bất cứ lúc nào. Một loại đầy tớ khác, đó là người sống trong nhà của chủ, nên không có tiền công
- lại bảo nó…? (7): Câu hỏi này chờ đợi câu trả lời là “không”.
- Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn…? (9): Câu hỏi này chờ đợi câu trả lời là “không”.
- vô dụng (10): Từ Hy Lạp là achreios có nghĩa chữ là “vô ích, vô dụng” (useless), nhưng ở đây, nghĩa thích hợp hơn, đó là “không sinh lợi lộc” (unprofitable), bởi vì chỉ làm đúng bổn phận. TOB dịch là quelconque (= bon à rien), NAB dịch là unprofitable, New International Version dịch là unworthy. Dịch là “vô dụng” dường như không đúng, vì ba lý do: 1) Người đầy tớ trong dụ ngôn đã tỏ ra có ích vì làm việc trong cánh đồng suốt ngày; 2) Trong việc chúng ta vâng lời Thiên Chúa, Người không bao giờ gọi chúng ta là “vô dụng” cả; Kinh Thánh không có chỗ nào ghi nhận như thế cả; 3) Từ ngữ Hy Lạp achreios này rất hiếm, nên trong văn chương Hy Lạp, không có ví dụ để giúp xác định ý nghĩa đúng của nó. Dựa vào ngữ cảnh, co thế hiểu “vô dụng” đây là người đầy tớ không có quyền gì mà yêu cầu được đối xử khác với những gì tư cách anh cho anh được hưởng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức tin (5-6)
Chúng ta không biết động lực nào đã thúc đẩy các tông đồ xin Đức Giêsu thêm lòng tin cho các ông. Rất có thể đó là những khó khăn trong cuộc sống của những người đi theo Đức Giêsu, như ta hé thấy ở Lc 17,1-4. Đức Giêsu đã trả lời các tông đồ không phải bằng cách cho một định nghĩa về đức tin mà bằng cách ca ngợi sức mạnh của lòng tin, với những hình ảnh có vẻ phi lý; Người nhấn mạnh hơn nữa tầm quan trọng của đức tin. Nếu người ta có một lòng tin tưởng chân chính và thực hữu nơi Thiên Chúa, thì sẽ xảy ra điều không sao làm được theo các tiêu chuẩn loài người. Để diễn tả điều này, Đức Giêsu dùng các hình ảnh là “chuyển núi dời non” (x. Mt 17,20) hoặc “nhổ bật rễ cây dâu mà trồng xuống biển”. Người muốn nói rằng lòng tin, dù nhỏ bé, luôn luôn là hiệp thông với Thiên Chúa, tức là thông dự vào quyền lực của Ngài, mà đối với quyền lực Thiên Chúa thì không có gì là giới hạn cả. Cho dù Thiên Chúa có đặt người môn đệ trước những nhiệm vụ và đòi hỏi nhìn bề ngoài thì thấy không thể làm được, Ngài vẫn có thể giúp họ có khả năng thực hiện được. Cho dù Ngài hứa một điều loài người thấy là không thể làm được, Ngài vẫn có thể làm được: trong dạng triệt để nhất, điều này xảy ra với việc kẻ chết sống lại. Chính vì thế Đức Giêsu đã nói với những kẻ được Người giúp đỡ: “Lòng tin của con đã cứu con” (Lc 7,50; 8,48; 17,19; 18,42).
* Dụ ngôn Người tôi tớ (7-10)
Với công thức Người chọn để đưa vào bài dụ ngôn, Đức Giêsu lôi kéo cử tọa dấn thân ngay; họ được mời gọi hãy phán đoán. Đây là kỹ thuật thường được Đức Giêsu vận dụng. Họ đều đã trải qua kinh nghiệm Đức Giêsu mô tả, nên có thể trả lời câu hỏi. Tuy nhiên, cũng có thể nói rằng câu chuyện, trong khi là một lời mời gọi trực tiếp gửi đến các thính giả, cũng nhắm đưa tới câu trả lời chính Đức Giêsu cung cấp ở c. 10.
Dụ ngôn được kể trong các câu 7-10 có thể coi như một xác định lập trường đối lập lại với giáo lý của người Pharisêu về việc ban thưởng cho các việc lành (x. Lc 18,18: “tôi phải làm gì?”; Lc 18,11-12: người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện). Nền tảng của tương quan của chúng ta với Thiên Chúa hệ tại sự kiện Ngài là Chúa của chúng ta, nên chúng ta phải quan tâm đến và thi hành ý muốn của Ngài. Chúng ta không phải là những chủ nhân tự do và độc lập, vì Thiên Chúa luôn luôn có điều gì đó để nói với chúng ta. Tuy nhiên, trước khi yêu cầu chúng ta điều gì, Ngài đã ban cho chúng ta rất nhiều ân huệ rồi: sự sống, các khả năng ... Chúng ta mắc nợ Thiên Chúa về cuộc sống, nên từ nơi Ngài, phát xuất các bổn phận của chúng ta. Ngài xác định cho chúng ta đâu là con đường phải theo và đâu là mục tiêu. Chúng ta chịu trách nhiệm trước nhan Ngài và chúng ta sẽ phải trả lời với Ngài. Đồng thời, chúng ta cũng phải biết rằng Ngài không yêu cầu chúng ta điều vì võ đoán và phi lý. Chúng ta phải tôn trọng Ngài và nhìn nhận Ngài là Đấng tạo hóa và Chúa tể của chúng ta. Đối với người anh em, chúng ta phải kính trọng và gán cho họ phẩm giá của chính chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ phải hành động như những người quản lý trung thành, có trách nhiệm. Khi làm mọi việc, chúng ta phải ý thức rằng mình chỉ làm các việc bổn phận mà thôi. Tuyệt đối không bao giờ được tưởng rằng mình đã ban một ân huệ cho Thiên Chúa khi tuân giữ các giới răn của Ngài và chu toàn các bổn phận của chúng ta.
Dụ ngôn này cũng được các nhà chú giải hiểu là được ngỏ riêng với các thủ lãnh trong Hội Thánh: Các ngài đừng dừng lại nghỉ ngơi vì cho rằng mình đã làm đủ rồi. Đức Giêsu gợi lại hoàn cảnh xã hội thời đó, có chủ nhân và nô lệ với tương quan được xác định rõ ràng. Nô lệ luôn luôn phải đưa mắt nhìn về phía chủ mà đón nhận mọi mệnh lệnh. Khi thi hành các mệnh lệnh, nô lệ chỉ làm “việc bổn phận” mà thôi. Tất cả thì giờ, tài nguyên, sức lực của con người phải được tận dụng mà phục vụ Thiên Chúa. Rồi khi đã chu toàn công việc, con người không được khoe khoang hoặc đòi hỏi những quyền lợi hoặc phần thưởng đặc biệt. Tác giả muốn khẳng định rằng nơi người tín hữu, mọi sự đều là ơn Chúa, lòng tin cũng là một ơn Chúa. Tất cả những gì con người nhận được đều không hề tỷ lệ với những gì họ đã làm. Mọi sự đều là hồng ân phát xuất từ lòng nhân lành và từ bi của Thiên Chúa, chứ không do một khoản hợp đồng giao kèo nào cả.
+ Kết luận
Đức tin là niềm tín nhiệm không lay chuyển rằng Thiên Chúa có quyền năng vượt mọi múuc độ loài người; Ngài đầy tình yêu, Ngài không quên chúng ta, Ngài hướng dẫn chúng ta đến chỗ thành toàn. Với cái nhìn đức tin, chúng ta hiểu mình chỉ là những tôi tớ, lại là tôi tớ “vô dụng” vì chỉ biết làm những việc phải làm. Hiểu như thế chẳng hề làm chúng ta nản chí, bởi vì chúng ta biết rằng mọi sự là của Thiên Chúa, là do Ngài. Người tin vào Đức Giêsu và Thiên Chúa được thúc bách xác định bản than tùy theo tương quan của mình với Thiên Chúa: người ấy là đầy tớ của Thiên Chúa và phải vâng phục Ngài, cho dù giáo huấn của Ngài có khó khăn đến đâu. Người ấy không là gì khác ngoài thân phận đầy tớ, và chỉ được vinh quang vì là đầy tớ. Người ấy không vô dụng, nhưng luôn luôn là đầy tớ, và không là gì khác, trong tương quan với các điều răn của Thiên Chúa. Thật ra, được làm việc cho Ngài đã là một vinh dự rồi, thì sao lại còn chờ đợi có phần thưởng? Và như thế, cuộc sống mai sau cũng là một hồng ân.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đứng trước các trách nhiệm cũng như các khó khăn của cuộc đời, chúng ta noi gương các tông đồ, không tránh né, không tìm cách giảm thiểu, nhưng xin Chúa Giêsu ban thêm đức tin. Chúng ta xin Người giúp kết hợp sâu xa hơn với Thiên Chúa. Chỉ duy Thiên Chúa mới có thế giúp đỡ chúng ta làm những việc mà người đời nghĩ rằng sức con người không sao làm nổi.
2. Nhờ đức tin, người tín hữu mở lòng ra đón lấy sự giúp đỡ của Đức Giêsu và như thế họ được chính quyền năng của Người đến hỗ trợ. Cho dù đức tin của họ nhỏ bé, cho dù nó chỉ như một hạt cải, nếu nó thực sự là đức tin đặt nơi Ngài, thì chính Thiên Chúa sẽ làm cho họ tiến tới. Điều cần thiết là họ không khép lòng lại với Ngài, ít ra họ giơ bàn tay về phía Ngài. Thiên Chúa sẽ không để họ phải té ngã. Ngài sẽ nắm chắc bàn tay của họ và dẫn đưa họ tới đích.
3. Không chỉ khuyên chúng ta tin, Chúa Giêsu còn cầu nguyện cho niềm tin của chúng ta, như Người đã từng nói với Phêrô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22,32). Bằng cách đó, Đức Giêsu đưa lời thỉnh cầu của các môn đệ là được thêm lòng tin đến chỗ thành toàn viên mãn. Chính Người ngỏ lời với Chúa Cha để gửi gắm các môn đệ. Chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho mình, cho nhau, đồng thời chúng ta cậy dựa vào lời chuyển cầu của Chúa Giêsu.
4. Khi đọc Dụ ngôn Người tôi tớ, chúng ta không nên đi lạc sang đề tài “chủ nô” của triết học Tây phương, cũng đừng chạnh lòng về mặt luân lý mà cho rằng Thiên Chúa chỉ coi chúng ta như những nô lệ! Trong Tin Mừng Luca, không thiếu những đoạn văn nói về những tương quan và thái độ của Thiên Chúa đối với con người với nội dung hoàn toàn khác (x. Lc 11,5; 15,3-7; 15,11-32; v.v.). Ở đây, tác giả chỉ nhắc lại một hoàn cảnh quen thuộc với các thính giả để rút ra những bài học thần học. Đó là: người tín hữu, người môn đệ hoặc người tông đồ phải có thái độ khiêm tốn, mà không nô lệ, ở trước nhan Ngài, nhất là đối với những đề nghị của Ngài.
5. Bởi vì Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng người môn đệ chỉ là một “tôi tớ” và là tôi tớ “vô dụng”, chúng ta hiểu rằng: chu toàn các nhiệm vụ được giao phó không nhất thiết bảo đảm cho phần rỗi của mình; khi đã làm tất cả những việc được giao rồi, người môn đệ vẫn ý thức rằng cuộc sống đang chờ mình ở bên kia thế giới cũng là một ân huệ. Như thế, quả thật, không có chỗ nào dành cho sự vênh vang, tự hào tự mãn cả.
6. Đôi khi chúng ta có lối suy nghĩ y như thể nếu chúng ta cầu nguyện, nếu chúng ta ra sức bước theo nẻo chính đường ngay, thì Thiên Chúa phải biết ơn chúng ta. Quả thật, Thiên Chúa vui mừng về những cố gắng của chúng ta, nhưng không phải vì thế mà chúng ta có thể tự hào rằng chúng ta đã làm cho Ngài vui thích. Thiên Chúa không hề lệ thuộc vào bất cứ điều gì chúng ta làm cả. Ngài không cần lời cầu nguyện của chúng ta, Ngài cũng không cần nỗ lực của chúng ta để sống với người khác. Chính chúng ta mới cần sống cho tương hợp với ý nghĩa của đời sống chúng ta, để trở thành những con người trung thực. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng Thiên Chúa không bao giờ thua chúng ta về sự tốt lành và quảng đại. Là Đức Chúa, Ngài sẽ cho các tôi tớ trung thành ngồi vào bàn ăn và phục vụ họ (Lc 12,37).
Lm FX Vũ Phan Long, ofm:
Đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn hay nhỏ ?
LM. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm10/5/2013
CN 27C : Đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn hay nhỏ ?
Có lẽ để chọc quê các tông đồ mà Chúa Giêsu đã có một so sánh kỳ lạ : râu ông cắm cầm bà ! Khi các tông đồ xin thêm đức tin, Chúa Giêsu đã so sánh : “nếu anh em có đức tin bằng hạt cải…” Ngài có so sánh kỳ lạ, bởi vì làm sao so sánh đức tin với hạt cải được, làm sao so sánh phẩm chất với khối lượng được. giống như làm sao ta có thể nói nếu ngươi đẹp bằng 200g thì ngươi sẽ thành tiên. Nếu ngươi có lòng tốt dài 5cm thì ngươi sẽ thành thánh. Nếu ngươi có lòng đạo đức hình tròn thì ngươi sẽ được vào Nước Chúa. Vậy khi Đức Giêsu nói: nếu anh em có đức tin bằng hạt cải, Ngài có lộn phạm trù không ? Có phải Ngài chọc quê các tông đồ không vì chính các ông cũng có lẽ hiểu như vậy : xin thêm đức tin ; có một ít rồi, xin thêm nữa, nên Ngài hùa theo coi đức tin là vật có thể cân đo đong đếm giống như một hạt cải, hai hạt cải…
Có lẽ Đức Giêsu không lộn phạm trù, không chọc quê các môn đệ đâu. Vậy Chúa Giêsu muốn nói gì khi tuyên bố : “Nếu các con có đức tin bằng hạt cải.”
1. Đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn lắm
Không biết có phải Đức Giêsu tiên báo trước hay không, chứ sau này chính nhà bác học Einstein đã tìm ra công thức liên hệ giữa phẩm chất và khối lượng, giữa ánh sáng và vật chất. Công thức E = mc2 nổi tiếng của Einstein được dùng để tính toán năng lượng phát ra khi nguyên tử (vật chất) biến thành ánh sáng (phẩm chất). E = mc2 (trong đó E là năng lượng phát ra, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng). Vận tốc ánh sáng mà bình phương lên sẽ là 90 ngàn triệu triệu. Vì thế tuy khối lượng rất nhỏ – ta ví những hạt cải – nhưng giải phóng một năng lượng rất lớn (nhờ nhân với vận tốc ánh sáng bình phương). Ta thấy các cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân, chỉ cần một khối lượng nhỏ bé, mà phát ra một sức nổ kinh khiếp, một sức nóng trên một triệu độ. Các nhà máy điện nguyên tử chỉ cần một thỏi nhỏ Plutanium mà phát ra biết bao năng lượng, biết bao điện lực thay cho bao nhiêu triệu triệu tấn dầu, bao nhiên tỉ tỉ mét khối hơi đốt. (Việt Nam cũng đang muốn ngấp nghé làm nhà máy điện nguyên tử tại Bình Thuận). Ngược lại cũng thế, để phẩm chất có thể kết thành khối lượng, cho dù rất nhỏ cũng đòi hỏi một năng lượng lớn lao. Cha ông chúng ta thường kể khi sấm sét (tia sáng) đánh xuống một nơi nào đó, tia chớp đó phải mạnh lớn lắm mới để lại trên đất một lưỡi tầm sét. Ánh sáng phải lớn lắm phải nhiều lắm mới có thể kết tinh thành một vật, một khối (tức có thể cân đo đong đếm).
Đức tin ví như ánh sáng, như phẩm chất. Để có thể kết tinh lại, cho dù là kết tinh lại chỉ bằng một hạt cải thôi, cũng phải có “nhiều” đức tin lắm mới thành được. Chẳng thế mà ít ai có được đức tin bằng hạt cải để có thể bảo cây dầu to lớn nhổ rễ mọc dưới nước, hay kiểu nói của Matthêu : chuyển núi dời non, khiến cả ngọn núi lớn to nhào lăn xuống biển.
Tuy nhiên đức tin bằng hạt cải cũng có nghĩa là đức tin nhỏ bé.
2. Đức tin bằng hạt cải là đức tin nhỏ lắm.
Cắt nghĩa này xem ra nghịch với giải thích chúng ta vừa phân tích : đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn lắm. Ở đây đức tin bằng hạt cải là đức tin nhỏ bé. Ta thử tìm hiểu.
Nếu Đức Giêsu là người Việt Nam, thì Ngài sẽ nói: Nếu đức tin của anh em bằng con kiến. Khi người Việt Nam ta so sánh cái gì với vật nhỏ nhất thì ta thường đem con kiến ra. Nhỏ như con kiến. Mỗi dân tộc có lối sánh vì riêng. Việt Nam nói : câm như hến. Tây nói : câm như cá chép. Ta nói điếc như trâu, thì Tây nói : điếc như hũ (sourd comme un pot). Vậy ta nói nhỏ như kiến, thì người Do thái ví nhỏ như hạt cải.
Đức tin bằng hạt cải, tức là đức tin nhỏ bé. Nếu anh em có một chút xíu đức tin thôi, cho dù là một chút xíu, nhưng nó là có, chứ không phải là không, Nó là ranh giới giữa có và không.
Tin Mừng Marcô 9,17tt ghi : Một người cha có đứa con bị quỉ ám từ bé. Quỉ làm cho đứa bé xùi bọt mép, đổ nhào xuống đất, nhiều lần quỉ dẫn bé xuống nước để bé suýt chết chìm, dẫn vào lửa suýt chết cháy. Người cha chữa chạy nhiều nơi mà không khỏi. Cuối cùng mới dẫn tới Chúa Giêsu với lời xin: Nếu Thầy có thề, xin thương tình cứu giúp chúng tôi. Chúa Giêsu nói : Nếu có thể thôi à, mọi sự đều có thể cho kẻ nào tin. Và người cha thưa lại : Thưa Thầy, tôi tin, nhưng xin Thầy giúp tôi vì lòng tin của tôi còn yếu lắm. Và Chúa Giêsu đã chữa lành. Ngài không cần chờ đến lúc đức tin của người cha lớn mạnh lên rồi mới chữa. Miễn là tin, dù một chút xíu thôi, bằng hạt cải, bằng râu của con kiến cũng đủ.
Khi Chúa Giêsu nói : đức tin bằng hạt cải, ta giải thích là đức tin lớn lắm. Rồi ta lại giải thích đức tin bằng hạt cải là đức tin nhỏ bé. Làm sao dung hoà ? Dung hoà là : đức tin nhỏ bé như hat cải nhưng phải lớn lên không ngừng. Lúc khởi sự thì bé nhỏ như hạt cải là hạt nhỏ nhất trong các thứ hạt (đức tin nhỏ bé), nhưng khi mọc lên thì trở thành cây to lớn đến nỗi chim trời có thể đến nương náu (đức tin lớn lao). Ta có thể xem lối giải thích này như một dung hoà cho hai cực mà chúng ta vừa tìm hiểu trên. Nhà giảng thuyết nổi tiếng của Mỹ H.Spurgeon đã nói : “Anh em hãy có đức tin. Đức tin nhỏ bé sẽ đưa anh em về Thiên đàng. Đức tin to lớn sẽ đưa thiên đàng đến với anh em.” Rõ ràng cả hai cùng đưa tới một mục tiêu, một cùng đích.
Tại Lộ Đức, người ta thấy bức tượng cẩm thạch tạc một người mù được phép lạ của Đức Mẹ chữa cho sáng mắt. Nhưng bức tượng này không phải do người mù được sáng mắt trở lại dâng tặng tạ ơn, mà do một bà quí phái cho tạc và dựng tại Lộ Đức, với dòng chữ đáng lưu ý : “Tìm lại được đức tin còn vĩ đại hơn là được sáng mắt.” Bà này đã mất đức tin. Tình cờ đi qua Lộ Đức thấy cảnh tượng nhiều người tin tưởng chạy đến với Đức Mẹ, nên bà tìm lại được niềm tin. Chúng ta những kẻ đến nhà thờ đây, có lẽ không phải là kẻ mất đức tin. Chắc là còn, dẫu một chút như hạt cải. Lời xin của chúng ta sẽ là bắt chước các tông đồ : xin thêm đức tin, đặc biệt trong hai tháng cuối của Năm Đức Tin này, để ta có thể tin trọn vẹn, tin mạnh mẽ những điều ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính đây.
Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
Chúa Nhật XXVII THƯỜNG NIÊN, năm C ( LỄ MẸ MÂN CÔI ).
Lc 17, 5-10
NẾU CHÚNG CON CÓ ĐỨC TIN…
Sống trên đời ai mà chả muốn có địa vị, có danh vọng, có chỗ đứng trong xã hội. Các môn đệ của Chúa Giêsu cũng thế: họ sống bên cạnh Chúa Giêsu, gần gũi Ngài, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với Ngài, nhưng thực tế, họ ganh tị nhau, tranh dành nhau xem ai làm lớn làm bé trong Vương Quốc Thiên Chúa. Dù rằng họ bị Chúa mắng nhiếc, nhưng họ vẫn muốn chung thủy với Chúa, nên hôm nay họ đến gặp Chúa và xin Chúa:” Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con “. Nói như thế có nghĩa họ muốn xin Chúa củng cố lòng tin cho họ để họ trung thành với Chúa, để họ được Chúa ban cho những ơn cần thiết cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng bằng lời nói, bằng hành động, bằng những phép lạ kèm theo…Tuy nhiên, câu trả lời của Chúa Giêsu làm họ rất ngạc nhiên, bỡ ngỡ…Ngài trả lời :” Nếu chúng con có đức tin bằng hạt cải thì dầu các con khiến cây dâu này ra trồng dưới biển, nó sẽ vâng nghe các con “. Thánh Matthêu viết :” Nếu chúng con có lòng tin bằng hạt cải thì chúng con khiến hòn núi dời đi nó cũng nghe theo “ ( Mt 21,21 ).
Khi Chúa trả lời với các môn đệ như vậy, Chúa không có ý né tránh vấn đề, nhưng Chúa muốn cho các Ông chú ý và quan tâm đến đức tin vì đức tin là điều tối quan trọng cho mọi người.Vâng, đức tin không thể cân đếm đong lường được nhưng đức tin quan trọng ở hiệu năng của nó. Một hạt cải tuy nhỏ bé nhưng khi được gieo xuống đất tốt, hạt sẽ nẩy mầm và mọc lên tươi tốt đến nỗi chim trời có thể đến đậu. Hạt cải bé nhỏ thật đấy, nhưng nếu chúng ta có đức tin bé nhỏ bằng hạt cải, chúng ta có thể khiến núi, khiến đồi dời đi nơi khác. Đó là hiệu năng tuyệt vời của đức tin. Đạo Công Giáo là đạo mạc khải nhưng cũng là đạo đức tin, đạo tình thương. Quả thực nếu không có đức tin chúng ta sẽ không nhận ra đâu là đường lối, đâu là giáo lý, đâu là những phép lạ Chúa đã làm. Chúa Giêsu đã từng khen ngợi những người có đức tin trong Tin Mừng như Viên Bách Quản, như một bà bị loạn huyết, như người bị bất toại…Đọc lịch sử Giáo Hội, chúng ta nhận ra các thánh là những người có đức tin bằng hạt cải, tuy hạt cải đức tin nhỏ bé nhưng các thánh đã làm được những việc thật kỳ diệu khiến mọi người đều ca ngợi. Chẳng hạn các thánh tu rừng, các thánh hiển tu, các thánh tử đạo là những anh hùng đã say mê vác trhập giá và làm chứng cho Chúa Giêsu. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu chỉ là một nữ tu nhỏ bé, một hạt cát nhỏ nhưng chị thánh đã làm được điều kỳ diệu mà bao người đã không làm được.Thánh nữ đã nói :” Ơn gọi của tôi là tình yêu “. Thánh Maximilianô Maria Kolbê đã chết thay cho một tử tù. Ngài đã làm một việc kỳ diệu mà chỉ có đức tin sâu xa mới có thể làm được.Những kẻ bé mọn lại là những kẻ đã làm được việc lớn, những kẻ đã làm đẹp lòng Thiên Chúa. Tội của người Biệt phái, Pharisêu, Ký lục, Kinh sư là tội muốn tiếm đoạt quyền Thiên Chúa. Họ không biết nhận ra sự giới hạn của mình. Thực tế, con người chỉ là đầy tớ vô dụng.
Bertrand Révillion viết :” Đức tin là một công việc…Chúng ta phải làm lớn lên và mang đến cho thế giới niềm hy vọng mà Thiên Chúa đã đặt trong chúng ta vào ngày chúng ta chịu Phép Rửa. Thánh Phaolô đã viết điều này cho ông Timôthê :” Tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng mà anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh “ ( 2 Tm 1, 6 ). Bước theo sau Chúa Giêsu, đó là từ từ bước ra khỏi bóng đêm kém đức tin của chúng ta, đi về bình minh của sự Phục Sinh, mỗi ngày đi vào hơn nữa trong ý thức mình là con cái được “ Đấng Tối Cao “ yêu mến “.
Hôm nay, Giáo Hội cũng mừng kính Mẹ Mân Côi…Mừng kính Mẹ Mân Côi mỗi người chúng ta hãy nghe lời Mẹ khuyên nhủ và thực hành điều Mẹ truyền dạy :” Hãy ăn năn sám hối, cải tà qui chánh và hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi “. Tràng chuỗi Mân Côi là mối dây liên kết chúng ta với Mẹ, là chuỗi bền đỗ của mỗi người chúng ta. Mẹ đã nhiều lần hiện ra trên thế giới và khuyên nhủ mọi người : “ Ăn năn đền tội và siêng lần hạt “.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Mân Côi, xin Mẹ đưa chúng con tới Chúa để chúng con muôn đời chiêm ngưỡng Chúa và cùng Mẹ ca ngợi lòng thương xót Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin gieo vào tâm hồn chúng con hạt giống đức tin để chúng con sinh hoa kết quả tươi tốt. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Hạt cải có ý nghĩa gì ?
2.Tại sao Chúa nói :” Ngài đến phục vụ, chứ không phải để được phục vụ “
3.Tội của người Pharisêu là tội gì ?
4.Đức tin cần gì cho chúng ta ?
Lm Nguyễn Hưng Lợi, dcct 2013
?
|
|