dongcong.net
 
   
 
   
 
   

 

 
Suy Niệm Lời Chúa Năm C
 
 
L.m. Joemarie Hoàng, CMC
 
<<<    

Lắng nghe tiếng Chúa và theo Ngài
L.m. Joemarie Hoàng, CMC

Đài truyền hình ABC một lần phỏng vấn một số người sau khi theo dõi một chương trình của đài khoảng 3 tiếng đồng hồ. Kết quả cho biết khoảng trên 50% những ngườøi này chỉ nhớ đuọc 1 trong 19 những điều đề cập đến trong chương trình. Tại sao? Lý do chính vì không lắng nghe.

Lắng nghe những điều cụ thể, dễ hiểu kèm theo những hình ảnh sống động trên dài truyền hình, liên quan đến cuộc sống hằng ngày mà con người còn dễ lơ đãng mau quên huống nữa là nghe Lời Chúa, đòi lắm điều kiện thì còn mau quên đến chừng nào.

Hôm nay Chúa Nhật đầu tháng Hoa Mẹ, tháng Giáo Hội vẫn dành đặc biệt để tỏ lòng tôn kính và yêu Mẹ cách riêng. Lời Chúa hôm nay nhắc đến sự quan trọng của việc lắng nghe và nhận ra tiếng Chúa nói với chúng ta là con cái Ngài, nhất là trong hoàn cảnh xã hội quá ư nhộn nhịp hôm nay.

1. Gương Lắng Nghe.

Vì không biết lắng nghe Lời Chúa nên Adong Evà mới bị con rắn cám dỗ và ông bà sa ngã phạm tội. Mẹ Maria ngay từ khi biết xử dụng trí khôn đã luôn chăm chú vào việc lắng nghe và thi hành Lời Chúa. Chính vì năng đọc và nghiền ngắm Lời Chúa, Mẹ đã khát khao và luôn mong đợi Con Chúa xuống cứu chuộc nhân loại khỏi nô lệ tội lỗi. Chúa Cha đã thưởng lòng khát khao mong chờ ơn cứu độ cho Mẹ bằng cách chọn Mẹ là Mẹ Ngôi Lời Hằng Sốngï. Mẹ không bao giờ nghĩ rằng Mẹ được diễm phúc làm Mẹ Ngài. Bởi thế Mẹ mới bối rối khi Thiên Thần đến báo tin cho Mẹ rằng Mẹ sẽ là Mẹ của Ngài. Tuy bối rối vì biết mình không xứng nhưng Mẹ mau mắn thưa tiếng xin vâng với tất cả tâm tình tin yêu phó thác trọn vẹn đời Mẹ cho Thánh Ý nhiệm mầu của Chúa.

2) Cách Lắng Nghe.

a) Lắng Nghe Thừơng Xuyên

Evà ngừng nghe Lời Chúa, nên con rắn đến cám dỗ và bà đã nghe nó thay vì nghe Lời Chúa. Adong ngừng nghe tiếng Chúa nên chỉ nghe vợ mình và con rắn nên cũng sa ngã. Giuda ở bên Chúa nghe lời Ngài nhưng không tiếp tục lắng nghe thêm để hiểu, nên đã dừng lại để nghe những tiếng ma quỉ cám dỗ trong lòng, nên ma quỉ đã thắng và Giuda đã phản Chúa.

Mẹ liên tục không bao giờ ngừng nghe những gì Chúa nói trong lương tâm. Lời Chúa luôn là hơi thở, là của ăn, là ánh sáng chiếu vào tâm trí Mẹ khiến Mẹ không thể rời xa và quên lãng Lời Ngài.

b) Lắng Nghe Với Con Tim

Bao nhiêu hiểu lầm xảy ra giữa bạn bè, trong gia đình gây nên những bất bình chia rẽ, nhiều khi cũng do cái nguyên nhân không lắng nghe nhau với tất cả con tim tâm hồn. Những người Pharisêu luôn theo dõi và lắng nghe những gì Chúa nói, nhưng họ không hiểu gì vì họ không có trái tim của con chiên đơn thành.

Một lần Mẹ Chúa đến gặp Ngài, và đám đông dân chúng báo cho Ngài biết Mẹ Ngài đang muốn gặp Ngài. Chúa lợi dụng cơ hội để nói về cái khả năng nghe và thi hành Lời Chúa của Mẹ Ngài. Ngài giới thiệu Mẹ Ngài bằng một câu hỏi: Ai là Mẹ tôi? Mẹ tôi chính là người lắng nghe và giữ Lời tôi. (Mc. 3:34-35).

Mẹ không nghe Lời Chúa với đôi tai cho bằng với đôi mắt trìu mến, với trái tim say yêu chân thành và với tất cả con người của Mẹ. Vì đã cảm nghiệm được Lời Con Mẹ là lẽ sống, là của ăn nên Mẹ luôn mở rộng tâm hồn và toàn thể con người để lắng nghe từng Lời Nói của Chúa.

c) Lắng Nghe Trong Tỉnh Thức

Vì không thường xuyên và hết tâm hồn chăm chú nghe Lời Chúa thì quỉ ma sẽ lợi dụng ngay tức khắc như đã lợi dụng Evà để bịa đặt nói với chúng ta các thứ lời lẽ đường mật đầy gian xảo của chúng. Chỉ có tâm trí như Mẹ mới hoàn toàn nhận định được rõ ràng đâu là tiếng Chúa và tiếng thần dữ, vì Mẹ luôn có chính Chúa trong lòng trí Mẹ. Mẹ không bao giờ để lòng trí Mẹ vấn vướng vào những lời lẽ ngọt ngào của thế gian và thần dữ.

Chúa đã nói qua Phúc Âm Matthêu 24:5 rằng sẽ có nhiều người nhân danh Chúa mà lường gạt chúng ta. Muốn luôn tỉnh thức để không bị ma quỉ cũng như thế gian lừa gạt, chúng ta cần luôn ở bên Mẹ như Gioan để Mẹ giúp chúng ta biết nhận định Lời Chúa và Ý Ngài.

d) Lắng Nghe Trong Khiêm Tốn

Một trong những ngăn trở việc lắng nghe Lời Chúa to lớn nhất đó là tật kiêu ngạo. Đừng lên mặt vì dòng họ, vì chủng tộc (LK 3:8). Đừng tự cao tự đại về những công việc thiêng liêng của mình như Pharisêu mà khinh ngườøi (Lk. 18:9). Mẹ không bao giờ đưa mình lên dù Mẹ được Chúa cất lên cao. Càng được ơn Chúa, Mẹ càng hạ mình sống ẩn dật và bám sát Lời Chúa, tin cậy nơi Chúa để Ngài hướng dẫn Mẹ. Vì kiêu ngạo nghe lời con rắn ông bà phạm tội nên xa Chúa, lánh mắt Ngài, sợ nghe Lời Ngài. Khi con người tự tôn thì cũng sợ cầu nguyện, tham dự các Bí Tích, vì họ không muốn nghe những Lời Chúa. Đó là lý do khi Adong Evà phạm tội rồi thì đi lánh Chúa, sợ gặp Ngài. Con người càng sống trong tội lỗi càng xa lánh nghe Lời Chúa và các việc thiêng liêng.

Lạy Mẹ, không ai có con tim nhậy cảm Lời Chúa bằng Mẹ. Không ai hiểu tường tận Lời Chúa bằng Mẹ và cũng không ai đáp lại trọn vẹn Lời Chúa bằng Mẹ. Xin Mẹ cho chúng con biết lắng nghe Lời Ngài và can đảm thi hành Lời Ngài trong cuộc sống của chúng con, để chúng con làm vinh Danh Ngài và được hạnh phúc muôn đời như Mẹ. Amen.

NGHE TIẾNG CHỦ CHĂN
by Ther
esa Nguyễn, OP.

Một đàn chiên ngày ngày được chủ chăn dẫn đi ăn trên đồng cỏ xanh tươi, uống nước trong lành, nằm nghỉ bên bờ suối mát... Chúng thật no đầy, vui thú và bình an... nhờ có chủ chăn khôn ngoan và dũng mạnh. Người vừa là thủ lãnh vừa là bạn đồng hành. Người bênh đỡ đàn chiên chống lại ác thú. Người biết đặc tính, lối sống của từng con chiên. Người thích nghi với hoàn cảnh của chúng, tận tụy yêu thương chúng... Chúng tin tưởng, phó thác cho sự hướng dẫn của người. Chúng nghe tiếng còi người thổi, nhận ra tiếng bước chân người đi, nghe giọng nói của người từ xa, biết ý định và đường lối của người và đi theo người...

Đây là hình ảnh lý tưởng về người mục tử nhân lành mà dân du mục Aram, tổ phụ của Irael, có trong tâm trí về Thiên Chúa. Chúa đã dẫn dắt dân Ngài như vậy. Ngài đã đặt các tiên tri, tổ phụ, thẩm phán, các vua để chăm sóc dân Ngài trong thời Cựu Ước. Sau đó, chính Con Thiên Chúa nhập thể làm người để trực tiếp hướng dẫn dân Ngài. Ngài yêu thương chăm sóc tất cả mọi người. Một cuộc sống mới được xây dựng trên "sự hiểu biết lẫn nhau giữa Chủ chăn và đàn chiên.'' Ngài ban cho người Lời Hằng Sống để ''Ai nghe và tuân giữ Lời Ngài thì được sự sống đời đời.'' Ngài đem về những tâm hồn lạc lối. Ngài đã thí mạng sống vì đàn chiên. Chính tình yêu tuyệt đối Ngài chữa lành vết thương của họ và duy trì, bảo đảm cho họ sự sống đời đời.

Trước khi tận hiến mạng sống mình trên thập giá, Chúa Giêsu đã chọn Phêrô để trao lại chức vụ chủ chăn trong Giáo hội; và Ngài hứa sẽ ở cùng và hoạt động trong Giáo hội cho đến tận thế. Nhất là Ngài gìn giữ Phêrô và các Đức Giáo hoàng kế vị khỏi quyền lực ma quỷ, và thay mặt Ngài dạy dỗ những giáo huấn về đức tin và luân lý.

Các vị chủ chăn là những người trước tiên được Chúa gọi và chọn, và họ tự nguyện đáp lời làm môn đệ Chúa Kitô. Tất cả đều nung nấu trong lòng một đức tin vững mạnh và một tình yêu quyết liệt. Họ từ bỏ thú vui hưởng hạnh phúc gia đình để theo một lý tưởng, một tiếng gọi. Họ luôn lắng nghe Chúa và nối kết tâm hồn, sự sống, và tình yêu của mình với Đức Giêsu, Đấng là thủ lãnh tối cao của các chủ chăn; để sức sống, tình yêu và ý Chúa được chảy tràn trong tim, trong não của họ; để qua họ, Chúa đến với dân Ngài, tiếp tục hướng dẫn họ về nguồn nước trường sinh.

Chúng ta muốn thuộc về đàn chiên của Chúa Giêsu nơi Giáo hội trần thế, để một ngày kia được đưa vào đàn chiên Thiên quốc, nơi thành thánh Giêrusalem trên Trời, chúng ta hãy lắng nghe và sống theo sự hướng dẫn của Chúa và các vị chủ chăn trong Giáo hội. Chúa nói với ta qua Giáo hội, qua Lời Ngài trong Kinh thánh, và trong chính tâm hồn mỗi cá nhân.

Chúng ta hãy biết lắng nghe Chúa nói trong cầu nguyện. Như con chiên nhận biết tiếng chủ chăn thế nào thì khi cầu nguyện chúng ta được mời gọi nhận biết tiếng Chúa Giêsu. Cầu nguyện là bước vào mối tương quan hiệp thông với Thiên Chúa. Nhờ đó ta nghe được rõ và chính xác những gì Ngài nói. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho Đức Giáo hoàng và các vị chủ chăn dưới quyền ngài, để các ngài luôn được đầy tràn ơn Chúa mà dẫn dắt chúng ta; hãy giữ mối liên lạc khắng khít yêu thương giữa chủ chăn và đàn chiên. Ta yêu kính Chúa như thế nào, cũng hãy kính yêu và vâng phục các ngài như vậy vì các ngài là đại diện Thiên Chúa; đừng nhìn các ngài bằng con mắt trần tục, nhưng hãy nhìn thấy tình yêu và quyền năng cứu độ của Chúa trong các ngài. Ta hãy xin Chúa ban cho thế giới thêm nhiều chủ chăn, nhiều ơn gọi làm linh mục, tu sĩ... và hãy cộng tác tích cực với sứ mạng của các ngài, để mọi người nghe được tiếng Chúa; giúp các chiên trong đàn đi trong đường lối Chúa, và giúp các chủ chăn đưa những chiên lạc về đàn... Chúa sẽ chúc phúc cho những tâm hồn thiện chí và đầy yêu thương, luôn sống trong Lời Ngài.

 

Tôi có thuộc đoàn chiên Chúa không?
Lm Fx Nguyễn hùng Oánh 4/18/2013

Chúa đưa ra tiêu chuẩn : Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi (xem Gioan 10,27-30 ).

Những người sống nghề chăn nuôi và ruộng vườn như dân Do thái, họ hiểu ngay lời Chúa vừa nói. Người chăn bầy chiên mấy trăm con, chỉ cần lên tiếng kêu, các con chiên đang ăn cỏ lẫn lộn với bao nhiêu con khác thuộc nhiều bầy khác liền ngoan ngoãn chạy tới người chăn. Ai nuôi chó giữ nhà cũng có kinh nghiệm này : chủ lên tiếng kêu, chó nhảy tới hoặc đang sủa, chủ đe, chó im ngay.

Chiên nghe tiếng chủ vì chiên phân biệt được tiếng của chủ với tiếng người khác, vì chiên quen tiếng chủ, vì chiên thuộc về chủ. Nếu không phải chiên của chủ thì không nghe tiếng chủ. Người thuộc về Chúa thì nghe tiếng Chúa, không thuộc về Chúa thì không nghe tiếng Chúa.

Người Do Thái hỏi Chúa : Mãi đến bây giờ chúng tôi còn phân vân về ông, ông là ai xin nói ngay cho chúng tôi biết. Hỏi như vậy tỏ ra họ chưa thuộc đoàn chiên Chúa vì “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi”, nhận ra Chúa ngay, đâu cần phải hỏi. Hỏi như vậy, h? tỏ ra là kẻ xa lạ, người xa lạ đến để tìm hiểu. Nhiều lần, người Do thái hỏi Chúa là ai và Chúa dd? ngh? họ cứ nhìn vào việc làm, lời nói của Chúa mà biết. Lần này, Chúa trả lời mạnh hơn : Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tức là nghe tôi nói, thấy việc tôi làm thì nhận ra tôi rồi, không phải để tôi nói tôi là ai.

Trong đời sống, có lúc gặp nguy nan, ta kêu cầu Chúa mà không được, thấy Chúa cứ yên lặng, ta đâm ra nghi ngờ Chúa, hỏi Chúa là ai ? Một câu hỏi tố cáo ta, hình như ta muốn bước khỏi đàn chiên, hình như Chúa không phải là chủ chăn của ta.

Theo Chúa vì đời sống sung túc, vì gặp nhiều may mắn xem như là ơn của Chúa ban riêng cho mình thật chẳng có gì bảo đảm, vì Chúa chỉ bảo đảm : Tôi cho chúng được sống đời đời và không ai có thể cướp chúng khỏi tay tôi. Hai bảo đảm săn sóc và ban sự sống đời đời thuộc lãnh vực tâm linh, còn những điều ta lo lắng, băn khoăn trong đời sống trần gian, Cha v?n gip nhung ta phải tự giải quyết lấy. Lời Chúa soi sáng hướng dẫn, ơn Chúa phù giúp ta để ta giải quyết, lo lấy, làm sao cho phù hợp Thánh ý Chúa. Chúa phù trợ mà ta không cảm thấy nhưng chắc chắn là Chúa luôn nhìn thấy ta, theo dõi ta từng bước.

Để đảm bảo cho lời nói “ban cho đàn chiên sự sống đời đời”, cũng phải hiểu phải có đời sống trần gian chứ , Chúa Kitô nại tới Chúa Cha : đoàn chiên của Chúa Cha và Chúa Cha trao cho Chúa Kitô. Chắc chắn không có một quyền nào lấy đoàn chiên khỏi tay Chúa Cha, nhưng khi đoàn chiên trao cho Chúa Kitô, đoàn chiên có thể mất không ? – Không thế mất vì Chúa Kitô có quyền như Chúa Cha, vì thế Chúa Kitô tuyên bố : Tôi và Cha tôi là một.

Chúng ta cảm tạ Chúa khi nghe bài Phúc âm này vì chúng ta thuộc đoàn chiên Chúa, tức là chúng ta đã nghe tiếng Chúa và nhận ra Chúa là chủ chăn của chúng ta. Bao lâu còn nghe tiếng Chúa thì chúng ta còn là chiên của Chúa. Nếu không nghe tiếng Chúa từc là không sống theo lời Chúa nữa, thì lúc đó chúng ta tự ý tách mình khỏi đoàn chiên của Chúa, ta sẽ “đánh mất sự sống đời đời” và cả ý nghĩa đời sống trần gian nữa. Bài Phúc âm vừa làm ta vui vừa bắt ta phải sống theo tiếng Chúa dạy.

 

Tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi
Jos.Vinc. Ngọc Biển

Trong lĩnh vực Y học ngày nay, người ta phát hiện về khả năng nghe biết của thai nhi ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Có những thí nghiệm gần đây cho thấy: một bà mẹ mang thai, hai vợ chồng đặt tên cho con của mình ngay từ khi siêu âm và biết nó là con trai hay con gái. Khi đã đặt tên cho con, ông bố hằng ngày trước khi đi làm hoặc đi đâu về đều gọi tên của bé. Rồi một ngày nọ, họ cho rất nhiều người đàn ông đi qua và cất tiếng gọi. Bé vẫn nằm im trong dạ mẹ. Nhưng đến lượt bố của em, ông cất tiếng gọi, vừa dứt lời, em đã ọ ẹ và chân tay vẫy đạp trong bụng mẹ. Quả thật là một điều kỳ diệu. Thật vậy, cũng tương tự, ngày nay, người ta muốn cho con của mình sau này làm gì thì các bà mẹ gợi hứng cho chúng ngay từ khi bé còn trong bụng mình bằng những hình ảnh hay hành động hoặc thính giác của bà mẹ hằng ngày.

Hình ảnh Vị Mục Tử Nhân Lành được khởi đi từ thời Cựu Ước: “Đức Giavê là Mục Tử tôi. Tôi không còn thiếu gì. Dù phải đi qua thung lũng tối đem. Tôi cũng không hề lo sợ.” (Tv 23,1-4) Giavê Thiên Chúa trở thành Mục Tử của dân Israel. Người yêu thương và chăn dắt dân của Người. Hình ảnh và sứ mạng của người mục tử cũng được trao phó cho các vị lãnh đạo thời bấy giờ, nhưng thật đáng buồn vì các vua chúa thời đó đã làm cho dân phải đau đớn vì họ không sống đúng vai trò mục tử của mình mà lại còn đi ngược lại. Điều này đã được Tiên tri Ezekiel quở trách thật nặng nề: “Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi! Các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến bầy chiên... Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn, băng bó những con bị thương tích, dẫn về những con lệch đường, hoặc tìm kiếm những con bị lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, vị Chủ Tể tối cao, Ta tuyên bố rằng... Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi... Ta sẽ giao chúng cho một vị vua giống như Đavít tôi tớ Ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng.” (Ez 34,2-4.9-10.23)

Sang thời Tân Ước, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Tôi là Mục Tử Nhân Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi.”

Vào thời Chúa Giêsu, người ta thường hay nuôi chiên. Mỗi đàn chiên thì đều có mục tử, tức người chăn chiên. Người chăn chiên thường dẫn chiên đi ăn trong hoang địa. Tối về, họ lùa chiên vào nơi quy định. Tuy nhiên, cũng có thể nhiều đàn chiên ở cùng một chỗ, vì thế có sự lẫn lộn; nên chủ đàn chiên nào thì có ký hiệu riêng của mình, và khi họ cất tiếng thì tất cả các chiên của họ sẽ đi theo. Người mục tử tốt là người biết chiên của mình, biết rõ từng con một, để chăm lo cho chúng. Người mục tử tốt cũng là người biết dẫn chiên của mình đến những vùng cỏ non, có nhiều nước, để cho chiên thoả thuê ăn uống hầu được to béo, khoẻ mạnh.

Chúa Giêsu đã tự nhận mình chính là Mục Tử Nhân Lành. “Ngài đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”. Khác hẳn với hình ảnh mục tử trong Cựu Ước nơi các vị vua.

Thật không có gì đau khổ cho bằng trong cuộc sống ta không được ai biết đến. Và cũng thật bất hạnh khi trong các mối tương quan ta không được ai tôn trọng và tin tưởng nữa. Thấu hiểu được điều đó, Chúa Giêsu đã dùng động từ “biết” để diễn tả một mối tương quan thân mật giữa chủ chiên và đàn chiên. “Biết” theo nghĩa Kinh Thánh không chỉ là một sinh hoạt thuần tuý tri thức hay văn hoá, mà “biết ở đây còn là sự gắn bó và yêu thương”. Chúa Giêsu biết từng con chiên đồng nghĩa với việc Ngài yêu thương từng con chiên một. Ngài cũng biết tên của từng con và gọi chúng khi cần, ấy là Ngài đang đi vào sự hiện hữu của từng con chiên, và ngược lại. Với Ngài, từng con chiên là một hiện hữu duy nhất trước mặt Ngài. Vì thế, Ngài luôn coi trọng từng con một, đến nỗi Ngài nói: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp chúng khỏi tay Chúa Cha; Tôi và Cha tôi là một.” Thật hạnh phúc cho chúng ta vì có được Vị Mục Tử tuyệt vời là chính Chúa Giêsu.

Giáo Hội dành riêng Chúa Nhật IV Phục Sinh để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu linh mục và tu sĩ.

Tại sao phải cầu nguyện cho linh mục và tu sĩ? Thưa vì các ngài cũng chính là mục tử trong Giáo Hội, thay mặt Chúa để dẫn dắt dân của Người. Chúng ta cầu nguyện cho các ngài hoạ lại hình ảnh của Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, biết từng con chiên để: chăm lo cho từng con chiên. Con chiên nào bị thương thì băng bó, con nào bị ốm thì lo thuốc thang, con nào đi lạc thì tìm về, con nào có nguy cơ bị thú dữ ăn thịt thì bảo vệ, con nào bị bắt thì liều mạng để cứu chúng. Được như thế, các ngài quả là mục tử nhân lành, đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Các ngài là những mục tử như lòng Chúa và Giáo Hội mong ước.

Ngoài việc cầu nguyện cho các linh mục và tu sĩ, Giáo Hội đặc biệt hướng về các bạn trẻ. Các bạn là tương lai của xã hội và là niềm hy vọng của Giáo Hội. Giáo Hội đang trông chờ ở nơi các bạn. Giáo Hội cũng hy vọng các bạn sẽ trở thành những linh mục và tu sĩ tốt lành hoạ lại chân dung của Vị Mục Tử Tối cao là Chúa Giêsu.

Quả thật, hơn bao giờ hết, chúng ta đang sống trong một xã hội có biết bao lựa chọn, và đôi khi có những chỉ dẫn hay thông tin cũng như quả quyết sai lầm. Hoặc nói theo ngôn ngữ hình tượng: “Chân lý nửa vời”. Trong một xã hội như thế, Giáo Hội mời gọi chúng ta dấn thân cho một lý tưởng cao đẹp, một chân lý tuyệt đối, để phục vụ con người ngày hôm nay, nhằm đem lại cho họ niềm hy vọng. Nhưng điều quan trọng là làm sao để các bạn nhận ra được tiếng Chúa gọi và chọn các bạn vào trong vườn nho Giáo Hội để phục vụ trong vai trò là mục tử của Chúa? Thưa Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhân Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn gọi 2013 đã vạch ra cho các bạn, ngài viết: “Ơn gọi linh mục và tu sĩ được nảy sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, từ một cuộc đối thoại chân thành và đầy tin tưởng với Ngài, nhờ đó đi vào trong ý muốn của Ngài. Do đó, điều cần thiết là phải lớn lên trong kinh nghiệm về đức tin, được hiểu như là một mối liên hệ sâu xa với Đức Giêsu, như là một sự lắng nghe nội tâm đối với tiếng nói của Ngài vốn âm vang trong sâu thẳm cõi lòng chúng ta.” Đúng vậy, muốn hiểu được ai thì phải biết và có kinh nghiệm về người đó. Có thế, ta mới dễ nhận ra và đi theo ý của người mà mình yêu mến.

Trong thế giới đang sôi động về mọi mặt, nhưng lời mời gọi “hãy theo Thầy” vẫn được vang vọng nơi mỗi chúng ta ngay trong những cuồng nhiệt của cuộc sống. Lời bài hát, mà chúng ta vẫn thường nghe trong mỗi dịp lễ Chúa Chiên Lành hay trong các dịp lễ về Tận hiến của tác giả Nguyễn Duy Vi: “Chúa là Mục Tử, Người dẫn lối chỉ đường cho con đi, đi trong tay Chúa nào con thiếu chi con sợ chi. Cỏ tươi rợn đồng xanh, con no thoả không bao giờ khát nữa, cánh tay Người đưa, gậy người dẫn yên lòng”, gợi lại cho chúng ta hình ảnh của Vị Mục Tử Nhân Lành, cũng như giúp chúng ta thêm xác tín vào Vị Mục Tử Nhân Lành; đồng thời cũng mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhạy bén, can đảm để phác hoạ chân dung Vị Mục Tử Nhân Lành, là chính Chúa Giêsu, ngay trong chính cuộc đời chúng ta.

Để kết thúc bài suy niệm này, tưởng cũng nên mượn lời của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhắn gửi các bạn trẻ:

“Các bạn trẻ thân mến, dẫu các con đang phải đối diện với biết bao nhiêu lựa chọn hời hợt và chóng qua, cha hy vọng các con vẫn có thể nuôi dưỡng khao khát về điều gì có giá trị đích thực với những mục đích cao cả, những lựa chọn triệt để trong việc phục vụ tha nhân và bắt chước Đức Kitô. Các con đừng sợ bước theo Đức Giêsu và bước đi trên những con đường có tính đòi hỏi, can đảm sống đức ái và quảng đại dấn thân. Trên hành trình này, các con sẽ hạnh phúc để phục vụ và làm chứng về một niềm vui mà thế giới không thể trao ban, các con sẽ là những ngọn lửa sống động về một tình yêu vô hạn và vĩnh cửu, và các con sẽ học để “sẵn sàng đưa ra câu trả lời cho niềm hy vọng nơi các con” (1 Pr 3,15).”

 

''Không ai có thể cướp...''
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng 4/18/2013

CHÚA NHẬT THỨ 4 MÙA PHỤC SINH NĂM C

Linh mục Mike Judge, tên thật là Robert Emmet Judge, là một trong số đông lính cứu hỏa đã hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ ngày 11.9.2001, lúc tòa nhà tháp đôi Trung tâm Thương mại New York bị những chiếc máy bay của những kẻ khủng bố tấn công.

Là tu sĩ dòng Phanxicô, kể từ sau khi chịu chức linh mục ngày 25.2.1961 lúc 28 tuổi, linh mục Mike Judge đã được mời gọi trong nhiều trọng trách khác nhau ở New York. Dù trọng trách nào, dù khó khăn cách mấy, cha đều ra sức chu toàn nhiệm vụ cách hoàn hảo. Người ta thấy cha thường xuyên giúp đỡ những người khốn khó, những người thiếu nơi ăn chốn ở, những di dân, những người bệnh tật, những người gặp nạn… Cả những người nghiện ngập cũng được cha yêu thương đón nhận…

Tuy phải bận bịu với bao việc bác ái hằng ngày, cha vẫn không quên cầu nguyện, hăng say thực hành tất cả các nghĩa vụ thiêng liêng của một linh mục để thánh hóa bản thân. Cha gắn bó với Chúa bằng một tấm lòng tận tụy, chu đáo tuân giữ luật dòng, và tận hiến mình hoàn toàn trong sự vâng phục Bề trên. Những ai đã từng tiếp xúc, chuyện trò với cha, đều cảm nhận cha là người khiêm tốn, dễ gần gũi. Người ta cũng nhận thấy, nơi cha toát ra một sự thánh thiện và lòng yêu mến Chúa mà không phải ai cũng có thể có…

Năm 1992, cha được chỉ định làm tuyên úy cho lính cứu hỏa New York. Cha đã dành nhiều thời giờ đến với từng người lính cứu hỏa và gia đình họ, không phải chỉ như một vị tuyên úy; nhưng còn như người bạn và ân nhân của họ; giúp đỡ họ bất cứ lúc nào khi họ cần đến cha với tất cả tình yêu thương.

Sáng ngày 11.9.2001, ngay khi những chiếc máy bay đâm vào tòa Tháp Đôi, cha đã cùng hàng trăm lính cứu hỏa chạy vào tòa nhà đang cháy và sắp sụp đổ, để cứu các nạn nhân, để giải tội, để ban bí tích xức dầu và các nghi thức cuối cùng cho lính cứu hỏa và những người Công Giáo đang hấp hối. Nhưng khi cha đang thi hành trách vụ, thì tòa nhà sụp đổ, gạch đá đập xuống đầu cha. Cha đã hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ Thánh Chức của mình.

Dù biết rằng, việc xông vào tòa nhà đang bị cháy là nguy hiểm vô cùng, nhưng vì trên ba ngàn con người còn kẹt lại trong tòa nhà, đã khiến cha và nhiều lính cứu hỏa bất chấp mạng sống mình, đặt nhiệm vụ cứu người bị nạn lên hàng ưu tiên. Thế nên mấy trăm lính cứu hoả và linh mục Judge vẫn anh dũng lao vào bên trong toà Tháp Đôi…

Như Chúa Giêsu khẳng định: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta… Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta…”. Và để bảo vệ đàn chiên mà Chúa Cha trao cho mình, Chúa Giêsu quyết bảo vệ đến cùng. Người đã chọn lựa: thà hy sinh chính mình, hy sinh cả mạng sống, miễn sao đàn chiên không bao giờ hư mất, không bao giờ rời khỏi tay mình. Tình yêu tuyệt đối dành cho trần thế, đã đưa Chúa Giêsu đi đến hiến dâng cuộc đời, hiến dâng mạng sống. Chính trong sự hiến dâng như của lễ đền tội thay cho cả trần thế, hiến lễ của Chúa Giêsu đã được Chúa Cha đón nhận. Chúa Cha đã làm cho cuộc hiến dâng của Chúa Giêsu nên hiệu lực cứu độ, mang lại kết quả cứu độ mãnh liệt, đời đời, cho từng con người trong trần thế không trừ ai. Hiệu lực cứu độ ấy đã được Chúa Cha làm cho dồi dào và trào tràn đến nỗi không có bất cứ điều gì có thể sánh bằng. Nhờ hiệu lực cứu độ này, Chúa Cha đã tha thứ và luôn ban ơn để bảo vệ và gìn giữ tất cả chúng ta là đoàn chiên mà Chúa Giêsu luôn yêu quý. Cũng chính trong hiệu lực cứu độ do chính mình gây nên và được Chúa Cha đón nhận, Chúa Giêsu hoàn tất và hiện thực hóa điều mà Người đã từng tuyên bố, đó là bảo vệ chúng ta trọn vẹn đến nỗi: “Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta…”.

Tình yêu mà Chúa Kitô yêu con người luôn hiện hữu trong cha Mike Judge. “Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta…”. Dù chủ nghĩa khủng bố và tội ác khủng bố, dù ngọn lửa hiễm độc, dù tòa nhà cao ngất kia có thể nhẫn tâm chôn vùi hàng ngàn con người, nhưng cha quyết không để người bị nạn trong căn nhà kia chết mà thiếu vắng ơn Chúa, thiếu vắng hình bóng của linh mục. Vì thế, giữa những đớn đau tàn khốc, cha quyết xông vào để cứu sống linh hồn con người. Cha đã thực hiện chính hành động cứu sống ơn cứu độ của con người như Chúa Giêsu, để dù các nạn nhân có chết thân xác, linh hồn họ vẫn lãnh nhận trọn vẹn ơn cứu độ. Chính cha, trong giờ phút lâm nguy, đã noi gương Chúa Kitô, quyết không để bất cứ thế lực nào “có thể cướp được” linh hồn con người…

Tình yêu dành cho Chúa Giêsu và tình yêu đối với con người biến cha trở thành người hành động. Tình yêu ấy lôi cuốn cha đến nỗi cha không còn nghĩ cho mình mà chỉ nghĩ đến những con người mắc nạn và những con người đang thi hành nhiệm vụ trong tòa nhà ngùn ngụt lửa. Tình yêu ấy dẫn cha đến trước vực thẳm nguy hiểm nhưng vẫn băng mình cho sứ vụ tròn đầy. Tình yêu ấy chính là sức mạnh giúp cha hiểu rằng Chúa Giêsu đang chờ đợi cha nơi những con người đau khổ đang trên bờ sự chết. Tình yêu ấy thúc bách cha xả thân cứu người như chính Chúa Giêsu hy sinh cho trần thế.

Cái chết trong nhiệm vụ và cho Thánh Chức của cha đã nói cho chúng ta: Linh mục Mike Judge là mục tử tốt lành. Tấm gương bình an đón nhận hiểm nguy và sự chết của cha đáng để các mục tử noi theo. Cha chết, nhưng gương hy sinh ấy sống mãi trong lòng dân Mỹ và nhiều người thiện chí trên khắp thế giới…

Trong ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu, chúng ta cầu nguyện cho tất cả những ai sống đời ơn gọi nói chung, và cầu nguyện cho các linh mục nói riêng, phải là người khôn ngoan, hiền hậu, có trái tim nhân từ, biết thương cảm, biết hy sinh quên mình, nhất là biết lao mình trong mọi nơi, mọi lúc, bất chấp bản thân để hy sinh vì ơn cứu độ của mọi người.

Chúng ta cũng luôn cầu xin cho các mục tử hết lòng thao thức và sống chết cho sứ mạng, để nếu có ai kém cõi trong đức tin, ngài biết nâng đỡ, nhũ khuyên; ai khổ đau gặp được nơi ngài sự cảm thông chia sớt; ai đau bệnh, yếu đuối, ngài ân cần hỏi han; ai lạc lối, hay xa rời đức tin, ngài tìm cách đưa về sống hiệp thông cùng Hội Thánh; ai lỗi lầm, ngài bao dung tha thứ; ai đã chuyên chăm trong đời sống đạo đức, ngài tiếp tục nâng đỡ để đức tin của họ ngày càng mạnh mẽ hơn…

Qua tất cả những nhiệm vụ vừa cao trọng, vừa vất vả bên trên mà người mục tử không bao giờ được phép lơ là, nhưng luôn nỗ lực thực hiện, người mục tử sẽ xứng đáng là biểu tượng của sự bình an cho đoàn chiên mà Chúa trao cho mình.

Người ta muốn bắt chiên, trước hết phải giết hại người chủ của đoàn chiên. Bình an của đoàn chiên là niềm vui cho người mục tử. Vì thế, trên hết mọi sự, chúng ta cầu nguyện cho các mục tử chẳng những luôn biết cầu nguyện, mà họ còn biết đặt trọn tâm đời mình trên đời sống gắn bó với Chúa Giêsu. Có như thế, người mục tử mới có thể vui hy sinh, vui chấp nhận nghịch cảnh, vui bền đổ phục vụ, vui xả thân, nhất là vui xả thân trong mọi hoàn cảnh, dù có thể bị mất mạng sống mình…

Chúng ta cầu nguyện cho các mục tử, nhờ gắn kết với Chúa Giêsu, xứng đáng trở thành người nối trời với đất, nối thiên đàng với trần thế, nối Thiên Chúa với lòng con người… Có như thế, các mục tử mới có thể và thực sự là mục tử mang hình ảnh và là họa ảnh của Chúa Giêsu Mục Tử…

Tấm gương tốt lành của linh mục Mike Judge, hay của nhiều linh mục tương tự như thế, phải là bài học nằm lòng cho các mục tử của Chúa. Chúng ta cầu nguyện nhiều hơn nữa, để nhờ ơn Chúa, các linh mục không tìm an thân cho bản thân, nhưng luôn vì uy danh Chúa Giêsu, vì lợi ích của Hội Thánh, vì lợi ích của linh hồn con người, vì lợi ích chung của toàn xã hội mà hiến thân phụng sự Chúa, phục vụ con người.

Xin cho các mục tử trong Hội Thánh luôn kiên tâm, để họ có thể tuyên bố bằng chính lời của Chúa Giêsu: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta… Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta…”.

 

Chúa chiên lành - Mùa Xuân Hội Thánh
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng4/17/2013

Chúa nhật 4 PHỤC SINH

MÙA XUÂN HỘI THÁNH

Đã thành thông lệ từ nhiều năm, mỗi dịp mùa Chay đến, Ban Mục vụ Giới trẻ giáo phận chúng tôi bao gồm một số linh mục đang coi xứ và linh mục dòng, và nhiều tu sĩ nam nữ, dành tất cả các ngày thứ bảy và Chúa nhật trong mùa Chay, lên đường đến các giáo hạt trong giáo phận quy tụ các bạn trẻ, giúp các bạn tĩnh tâm, học hỏi Sứ điệp mùa Chay…

Còn nhớ năm 2010, Ban Mục vụ còn giúp các bạn tìm hiểu năm Thánh 2010. Ngoài ra, nhằm định hướng cho các bạn về đời sống luân lý theo ý Hội Thánh, nhiều đề tài “thời sự” được trình bày như: “Có được phép sống thử?”, “Sống thử: Lợi hay hại?”, “Tình dục: quà tặng hay nguy cơ?”…

Nhìn các linh mục bộn bề công tác, nhất là bao nhiêu việc phải sắp xếp, phải chu toàn trong những ngày Đầu tuần (theo Thánh Kinh, Chúa nhật là ngày Đầu tuần), các ngài phải làm sao hoàn thành bổn phận với giáo dân trong giáo xứ, nhưng cũng không bỏ cơ hội giúp các bạn trẻ tĩnh tâm để dọn tâm hồn mừng mầu nhiệm Vượt qua. Đa số các bạn trẻ phải đi làm suốt ngày, các buổi tĩnh tâm đều phải diễn ra từ xế chiều đến đêm. Vì thế, có hôm kết thúc buổi tĩnh tâm, vì địa bàn giáo phận quá rộng, các linh mục chia tay các bạn trẻ, về đến nhà, đồng hồ đã điểm một, hai giờ đêm…

Có lần đến nơi quy định để tổ chức tĩnh tâm, nhìn qua nhìn lại chỉ thấy có 25 bạn trẻ của cả giáo hạt đi dự tĩnh tâm (số những người trong ban tổ chức đông hơn số người tham dự tĩnh tâm), chúng tôi cứ ngỡ thất bại, cứ ngỡ các linh mục sẽ chán nản, bỏ cuộc. Nhưng không, ai đó đã lên tiếng động viên: “Dù chỉ có hai người đi tĩnh tâm, cũng sẽ giảng như giảng cho 200 người. Dù chỉ có 200 người, cũng sẽ giảng như giảng cho 2.000 người”. Thế rồi tất cả lại bắt tay vào việc với 25 người dự tĩnh tâm cũng bằng ấy “quy mô” y như… đang có 2.500 người vậy… Đúng thôi, một tâm hồn tội lỗi trở về với Chúa còn quý, huống hồ 25 con người đang khao khát yêu mến Chúa!

Theo chân Ban Mục vụ Giới trẻ trong nhiều năm, tôi càng thấy yêu các bạn trẻ, càng kính phục sự hy sinh tận tụy của các linh mục trong Ban. Để đánh thức đức tin, đánh thức niềm yêu mến Chúa, yêu mến Hội Thánh, và để kêu gọi lòng ăn năn tội, để gọi về tâm hồn thánh thiện nhằm chuẩn bị lễ Vượt qua của Chúa, Ban Mục vụ Giới trẻ Phú Cường đã không kêu gọi suông, nhưng đã hành động thiết thực.

Không dám coi những việc làm bên trên là tất cả nghĩa cử của người mục tử, bởi làm mục tử thật sự như Chúa muốn còn khác hơn nhiều, còn được đòi hỏi lớn hơn nhiều. Nhưng ít ra, đó cũng là một phấn đấu đẹp gợi hứng cho mỗi chúng ta có thể ý thức, có thể tự nhủ mình phải phấn đấu, cố gắng vươn lên từng ngày, từng ngày một.

Hôm nay, lễ Chúa Chiên Lành, ngày cầu nguyện cho ơn gọi tu trì, chúng ta cùng nhìn lại hình ảnh đẹp của Ban Mục vụ Giới trẻ mà hun đúc cho bản thân tinh thần cầu nguyện: Xin cho Hội Thánh Chúa ngày càng có nhiều người ham thích dấn thân cho ơn gọi tu trì không phải để hưởng thụ, nhưng là biết xả thân vì cơ đồ của Chúa Kitô và vì mọi con người trần thế.

Hơn hết, chúng ta nguyện xin cho các linh mục, biết thăng tiến và làm đẹp ơn gọi quý báu mà Chúa ban cho mình bằng tất cả mọi nỗ lực dù phải chấp nhận hy sinh, chấp nhận thử thách.

Bởi tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu hy sinh. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục, một khi mang trong mình chính tình yêu hy sinh của Chúa Giêsu, và ấp ủ trong đời mục tử của mình hình ảnh Chúa Giêsu, người linh mục cũng phải biết yêu, phải biết hy sinh như Chúa, để không chỉ khắc họa lại hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử trong đời hiến dâng của mình, mà chính qua sự hiến dâng, linh mục còn cho thấy, linh mục chính là hiện thân của Chúa Giêsu nơi trần thế.

Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục luôn có một tình yêu tận hiến đến cùng cho Thiên Chúa và cho con người. Một tình yêu tận hiến đến cùng sẽ giúp linh mục không còn gì hối tiếc vì đã không hết mình cho sứ vụ. Tình yêu tận hiến đến cùng phải là nhân đức hàng đầu của người linh mục. Bởi nếu không có tình yêu tận hiến ấy, mỗi ngày trong đời sống của linh mục trôi qua sẽ nặng nề, buồn tẻ, mệt mỏi… Nhất là khi phải đối diện với những thách đố, nếu không sẵn sàng tận hiến đến cùng bằng một tình yêu trong sứ vụ, vì sứ vụ, người linh mục dễ chán nản, buông xuôi. Nếu đời sống của linh mục mà không còn ham thích chiến đấu, không còn vươn lên cho lý tưởng, không còn tha thiết với sứ mệnh Chúa trao, đồng nghĩa với việc, linh mục sẽ là gánh nặng cho giáo dân, gây thiện hại cho Hội Thánh Chúa, và xúc phạm đến chính hồng ân mà Chúa trao ban cho người linh mục.

Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục, để các ngài chỉ biết tìm niềm vui trong sự hiến dâng, trong mọi công tác thánh hóa các linh hồn, trong sự say mê phục vụ người nghèo, phục vụ người bất hạnh. Bởi nếu các linh mục mà không tìm niềm vui trong sứ mạng của mình, không thấy mình hạnh phúc trong vai trò phục vụ, thì không còn gì nguy hiểm bằng. Bởi như sự bù trừ, nếu một người không tìm thấy hạnh phúc ở chỗ này, anh ta sẽ tìm hạnh phúc ở chỗ khác. Nếu linh mục không nhận ra sứ vụ của mình là chân lý để đạt tới hạnh phúc thật, cám dỗ về một lý tưởng khác, một đam mê khác, một hình ảnh khác, một con đường khác… sẽ có cơ hội len lỏi vào đời sống các linh mục. Như thế, sự đổ vỡ tấn công các ngài chỉ còn là yếu tố thời gian. Như vậy, đời linh mục sẽ không còn đau đớn nào bằng, Hội Thánh sẽ không còn nỗi buồn nào bằng, cộng đoàn nơi linh mục đang sống sẽ không còn ê chề nào bằng… Vì thế, chúng ta nguyện xin Chúa giúp các linh mục chỉ yêu Chúa và yêu hình ảnh của Chúa nơi con người mà Chúa ban cho họ trong một trái tim không bao giờ san sẻ…

Cách riêng với giáo phận của tôi, tôi thấy các linh mục trong Ban Mục vụ Giới trẻ, tuy chưa nhiều, tuy chưa lớn, nhưng việc làm của các ngài phục vụ đời sống tâm linh của các bạn trẻ, cách nào đó, đã có thể có tiếng vang. Ước mong các ngài sẽ kiên trì tiếp tục công việc của mình không ngại khó, không ngại khổ, ngày càng phát huy hơn, tiến triển hơn, sáng tạo hơn để lôi kéo các bạn trẻ về với Chúa, yêu mến Chúa. Biết đâu nhờ tấm gương hy sinh của các ngài, nhiều bạn trẻ sẽ can đảm dấn thân cho Chúa, sống đời ơn gọi.

Ngắm nhìn từng linh mục trong linh mục đoàn của giáo phận tôi, với mọi hăng say, mọi lao tác mà các ngài thể hiện, tôi tin rằng, ơn Chúa đang tuôn đổ dồi dào cho giáo phận. Bởi đó, tôi cũng tin rằng, nhờ từng anh em linh mục chúng tôi nỗ lực sống từng ngày trong thánh chức mộc cách thiết thực, và luôn không bằng lòng, không thỏa mãn với sự dâng hiến mà mình đã trao đi để xây dựng Nước Chúa tại giáo phận nhà, sự phát triển về đời sống thánh thiện sẽ còn tiến xa hơn, tiến mạnh hơn cho chính bản thân người linh mục, và cho tất cả mọi anh chị em mà linh mục có trách nhiệm phục vụ...

Tôi vẫn thấy, mùa xuân, hoa vẫn nở rực rở, khoe đủ màu, đủ loại trong cánh rừng, trong những vườn ươm trồng, trong từng ngỏ, trong từng nhà… trên quê hương tôi. Tôi vẫn thầm so sánh, hy vọng và ước mong: ơn Chúa qua tay anh em linh mục chúng tôi, thực sự nở rực trên khắp cùng mọi nơi trong Hội Thánh nói chung và trong chính giáo phận này. Tôi vẫn tin, với ơn Chúa thắm tươi đậm đà trên khắp Hội Thánh, mùa xuân Hội Thánh mãi mãi không bao giờ tàn phai, dẫu tiết trời có thể sang đông, sang hạ!...

Để mùa xuân nở rộ trong Hội Thánh, không thể thiếu vắng hồng ân linh mục. Vì thế, linh mục không nỗ lực cộng tác để hồng ân của Chúa lớn lên từng ngày, đồng nghĩa với việc linh mục giết chết mùa xuân Hội Thánh…!

 

Ơn gọi - Hồng ân và Chọn lựa
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương4/19/2013

Chúa Nhật Cầu Cho Ơn Thiên Triệu

Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường nghe nói nhiều về ơn gọi. Nhiều lúc chúng ta thắc mắc vì không hiểu được tại sao có người đi tu; tại sao Chúa lại chọn những con người này. Vì ơn gọi rất huyền nhiệm, nên nhiều bạn trẻ muốn đi tu hay tìm hiểu ơn gọi nhưng không chắc chắn rằng mình có ơn gọi hay được Chúa gọi không? Nhân dịp Ngày Quốc Tế Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu, chúng ta tìm hiểu về chủ đề này.

1. Ơn thiên triệu là gì?

Trước hết chúng ta thử hỏi: ơn thiên triệu hay ơn gọi là gì?

Thông thường khi nói tới ơn thiên triệu, ta nghĩ ngay tới ơn Chúa gọi ai đó đi tu làm linh mục, thầy dòng, hoặc nữ tu, còn giáo dân không đi tu, họ ở giữa thế gian, nên không có ơn thiên triệu. Chúng ta cần phải xét lại các hiểu đó.

Từ ngữ “Thiên Triệu” dịch từ tiếng Vocatio trong tiếng Latinh do động từ vocare có nghĩa là kêu gọi, mời gọi.

Khi dùng trong lãnh vực tôn giáo, vocatio thường dùng để chỉ lời kêu gọi của Thiên Chúa gọi người này, kẻ kia làm việc gì theo ý Ngài, nên ta dịch từ ngữ Vocatio là ơn thiên triệu.

Jacque Guillet định nghĩa: “Ơn gọi là tiếng Thiên Chúa mời gọi kẻ Ngài đã chọn ủy thác làm một công việc đặc biệt trong kế hoạch cứu rỗi loài người và trong vận mệnh của dân Ngài” (trong Vocabulaire de theologie biblique, 1970). Định nghĩa này thu hẹp “lời Thiên Chúa kêu gọi” trong những trường hợp riêng biệt để đảm nhận công việc đặc biệt trong dân Chúa.

Công Đồng Vaticano II hiểu ơn thiên triệu theo nghĩa rộng: Có nghĩa là tất cả mọi người đều được Thiên Chúa mời gọi, đều có ơn thiên triệu: làm người và làm Con Chúa, tất cả đều được mời gọi nên thánh. Công Đồng xác định đây là ơn gọi phổ quát, một ơn gọi mà tất cả mọi kitô hữu đều được mời gọi hướng tới. Trong văn kiện Lumen Gentium số 40 Công Đồng nói rằng: “Tất cả mọi người tín hữu dù ở cấp bậc đều được mời gọi đạt tới sự thánh thiện”. Chính vì vậy, không chỉ có giám mục, linh mục và tu sỹ, cả giáo dân, tất cả đều được mời gọi đạt tới sự hoàn thiện (LG 39). Cũng theo Công Đồng này, trong Giáo Hội có nhiều hình thức của đời sống: ơn gọi linh mục, tu sĩ, giáo dân. Đây là những hình thức đời sống để nên thánh hay để đạt tới sự hoàn thiện kitô giáo.

Nhưng hiểu theo nghĩa nào, cuối cùng ta phải nhìn nhận: Ơn thiên triệu luôn có hai phía hay hai yếu tố đi liền với nhau: Thiên Chúa gọi và con người đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa. Theo cái nhìn đó, ơn gọi là sáng kiến của Thiên Chúa: Thiên Chúa dự định, Thiên Chúa chuẩn bị, Thiên Chúa ban ơn, Thiên Chúa thúc đẩy. Con người đáp trả cách tự do, chọn lựa, từ bỏ và bước theo Chúa, sống cho Chúa, hiến thân cho Chúa.

2. Ơn gọi vừa là hồng ân vừa là chọn lựa dứt khoát

Ơn gọi hay đi tu là một hồng ân mầu nhiệm của Thiên Chúa, vừa là một sự chọn lựa riêng của mỗi người. Chúng ta tìm hiểu những câu chuyện ơn gọi nỗi bật trong Cựu Ước và Tân Ước.

Câu chuyện ơn gọi của Abraham là một điển hình. Chúa gọi Abraham để ông trở thành tổ phụ của một Dân riêng và “Cha của những kẻ tin”. Thiên Chúa chọn Abraham trong dòng dõi Sem, người ‘sinh ra từ Ur’ (St 11,10-31) và dẫn đưa ông bằng những con đường đến vùng đất mà ông không hề biết (Dt 11,8). Ông đã ra đi theo tiếng gọi đó, dù không biết đi về đâu, nhưng ông biết chắc một điều là có Chúa dẫn đường. Ông đã phó thác cho Chúa hướng dẫn.

Ơn gọi của Giêrêmia cũng rất huyền nhiệm: Chúa nói: “Trước khi ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã thánh hiến ngươi, Ta đã đặt ngươi làm tiên tri cho các dân tộc”. Giêrêmia đáp lại: A, a, a lạy Thiên Chúa là Thiên Chúa, tôi đâu có biết ăn nói, vì tôi còn là con nít”. Chúa lại phán: ngươi đừng nói ngươi là con nít... ngươi đừng sợ họ, vì ta sẽ ở với ngươi để bảo vệ ngươi” (x. Gr 1,4-10).

Tin Mừng tường thuật về việc Chúa chọn các tông đồ cách lạ lùng:

Chúa Giêsu chọn và mời gọi các môn đệ đầu tiên như Phêrô, Gioan và Giacôbê: “Hãy theo Ta. Ta sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 3,20). Họ từ bỏ và mau mắn đáp trả theo Chúa. Họ là ai? Họ là những người đánh cá, bình dân, quê mùa, không có học vấn cao, bằng cấp, có địa vị… nhưng họ đã đáp trả lời mời gọi đó một cách hăng hái và từ bỏ tất cả để theo Chúa. Họ đã được Chúa biến đổi và làm cho trở thành những “kẻ lưới người như lưới cá”.

Trường hợp ơn gọi của Matthêu cũng gây nhiều ngạc nhiên: ông là một người thu thuế, nhưng khi nghe tiếng Chúa gọi: “Hãy theo ta! Ông trả lời tức thì và quảng đại, bỏ tất cả, ông đứng dậy, đi theo Người (Lc 5,28). Tất cả đều được Chúa mời gọi và tất cả đã đáp trả và từ bỏ để theo Chúa.

Như thế, ơn gọi vừa rất huyền nhiệm vì Thiên Chúa gọi ai Ngài muốn, gọi vào thời điểm nào và ở nơi nào đều tùy ý Ngài (x. Mc 3,13). Nhưng ơn gọi cũng là một chọn lựa liên lĩ, đòi hỏi nhiều hy sinh và từ bỏ của những ai mà Thiên Chúa muốn gọi. Vì thế, nếu nhìn ơn gọi như là một hồng ân của Thiên Chúa, việc đi tu hay theo Chúa không phải hệ tại nơi khả năng và tài cán của con người, nhưng hệ tại nơi lòng muốn và ân sủng của Thiên Chúa. Nếu nhìn ơn gọi như là chọn lựa, đi tu bao gồm sự hy sinh, từ bỏ để dấn thân cho Thiên Chúa và cho tha nhân.

3. Những dấu chỉ của ơn gọi

Rất khó trả lời một cách chắc chắn rằng bạn có ơn gọi tu trì hay không. Nhưng dựa trên những dấu chỉ mà mình có để phân định ơn gọi và để vững tin tiến bước.

Nếu Thiên Chúa đang kêu mời bạn đi tu, chắc chắn ngài sẽ ban cho bạn những phẩm chất cần thiết để trở thành linh mục hoặc tu sỹ.

Có hai dấu hiệu cho thấy một người có ơn gọi tiến tới đời sống linh mục: đó là có ý hướng ngay lành và những phẩm chất sự phù hợp.

Ý hướng ngay lành:

Ý hướng ngay lành liên quan tới ơn gọi linh mục hoặc thánh hiến bao gồm những nội dung sau đây: Khát khao phụng sự Chúa Kitô vì tình yêu mến chính Ngài và có lòng yêu mến Giáo Hội, yêu mến giáo huấn Giáo Hội, yêu mến đời sống đạo đức, có tinh thần hy sinh chịu khó; khát khao đi tu để phục vụ người khác và muốn dẫn đưa các linh hồn về cho Chúa. Đó là dấu hiệu cho thấy ý hướng ngay lành. Trái với ý hướng ngay là ý hướng lệch lạc: đi tu vì những động cơ nhân loại như để mưu cầu danh dự, tìm đặc ân đặc quyền, thích được trọng vọng và để thoát đời…

Những phẩm chất phù hợp:

Dấu hiệu thứ hai của ơn gọi tu trì là có những phẩm chất phù hợp đó là phẩm chất đạo đức, trí thức, thể lý, tâm sinh lý và hoàn cảnh gia đình.

Trước hết là khả năng về đạo đức: ai muốn đi tu trước hết phải là người có khả năng sống đời sống nội tâm hay tâm linh. Phẩm chất này bao hàm không chỉ khả năng sống khiết tịnh suốt đời mà còn bao hàm các nhân đức khác nữa như khiêm tốn, vâng phục, tự chủ, nhân hậu, quảng đại, vị tha, cẩn trọng, yêu mến sự thật, thẳng thắn, có lòng đạo hạnh, có đời sống luân lý tốt… Tóm lại: là người có lòng yêu mến Chúa và tha nhân.

Khả năng tri thức: đi tu phải có những phẩm chất trí năng cần thiết để thi hành sứ vụ tông đồ.

Phẩm chất về thể lý và tâm sinh lý: đi tu phải là người khỏe mạnh và bình thường về thể lý và tâm lý. Đây là phẩm chất cần thiết để hoàn thành các bổn phận của người theo Chúa. Ứng sinh phải không bị vướng mắc những bệnh nan ý, rối loạn thần kinh và rối loạn chức năng vốn là biểu hiện của một tình trạng “lệch lạc” hoặc bệnh hoạn về tâm lý trong phán đoán, thái độ và hành động.

Sự phù hợp về gia đình – Ứng viên phải xuất phát từ một gia đình có cha mẹ đàng hoàng, có tiếng tốt. Khi xem xét để trao tác vụ linh mục, yếu tố danh thơm tiếng tốt của ứng viên trong cộng đồng cần phải được cân nhắc như giáo luật đòi hỏi. Một ứng viên xuất thân từ một hoàn cảnh gia đình phù hợp thì sẽ là sự thuận lời cho đời sống và sứ vụ linh mục sau này.

Vì thế, trong quá trình tìm hiểu ơn gọi, ứng sinh cần phân định kỹ lưỡng về ơn gọi và những khả năng của mình để chọn lựa và sống ơn gọi tu trì. Cùng với cầu nguyện, biện phân ơn gọi là một công việc quan trọng trong quá trình tìm hiểu và đào tạo.

4. Những đòi hỏi của Giáo Hội đối với ứng sinh linh mục

Mọi ơn gọi Kitô hữu đều đến từ Thiên Chúa, đó là ơn huệ của Thiên Chúa. Tuy nhiên ơn gọi ấy không bao giờ được ban bên ngoài và tách biệt khỏi Giáo Hội, nhưng luôn luôn ở trong Giáo Hội và qua Giáo Hội. Giáo Hội được Chúa giao phó cho nhiệm vụ tuyển chọn và đào tạo ơn gọi.

Giáo Hội - “người sinh ra và giáo dục các ơn gọi” - có nhiệm vụ phân định ơn gọi và sự phù hợp của các ứng sinh vào tác vụ linh mục. Thật vậy, tiếng gọi bên trong của Thánh Thần cần được Giám mục giáo phận và những người có trách nhiệm nhìn nhận xem có phải là tiếng gọi chân thực không.

Chính vì vậy, Giáo Luật 1983 đòi hỏi: Điều 241,1: “Giám mục giáo phận chỉ nên thâu nhận vào Đại Chủng Viện những người nào, xét theo các đức tính nhân bản và luân lý, đạo hạnh và trí tuệ, sức khỏe thể lý và tâm lý cùng ý muốn ngay thẳng của họ, được coi là có đủ khả năng hiến trọn đời cho các tác vụ thánh”.

Ngoài ra, Giáo luật còn yêu cầu cả những đức tính nhân bản, thể lý tâm lý phù hợp với đòi hỏi của thiên chức linh mục:

Điều 1029: “Dựa theo sự phán đoán khôn ngoan của Giám mục riêng hoặc Bề Trên cao cấp có thẩm quyền và sau mọi cân nhắc kỹ lưỡng, chỉ nên cho tiến chức những người có đức tin tinh tuyền, chí hướng ngay thẳng, kiến thức đầy đủ, danh thơm tiếng tốt, tác phong đoan chính, nhân đức đã được thử luyện và những đức tính khác về thể lý và tâm lý tương ứng với chức thánh sẽ lãnh nhận”.

Kết luận:

Giáo Hội hoàn vũ đang đối diện với cơn khủng khoảng về ơn gọi tu trì. Nếu nhìn ơn gọi tu trì là quà tặng của Thiên Chúa, thì mỗi người kitô hữu cần phải cầu xin Thiên Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều ơn gọi như lời Chúa Giêsu dạy: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến” (Lc 10,2).

Nếu hiểu ơn gọi đồng thời là sự đáp trả của con người, thì mỗi người chúng ta cần có ý thức và cộng tác để vun trồng các mầm ơn gọi trong gia đình và trong giáo xứ. Mỗi người cần biết cổ võ ơn gọi và nâng đỡ các chương trình mục vụ ơn gọi trong Giáo Hội để càng ngày Giáo Hội có nhiều người trẻ dám quảng đại dấn thân cho sứ vụ loan báo Tin Mừng.

CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH C
 HÃY LÀ MỤC TỬ CHO NHAU
 By Lm. Nguyễn Nguyên 21-4-13
Hằng năm, cứ vào Chúa nhật 4 Mùa Phục sinh, Giáo hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm Chúa Giêsu trong vai trò Người Mục tử chăn dắt đoàn chiên. Hôm nay, hình ảnh Người mục tử biết từng con chiên, lo lắng và chăm sóc cho từng con chiên được khắc hoạ rõ nét qua chính lời Chúa nói trong tin mừng chúng ta vừa nghe: “Tôi là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi”. Thật là hạnh phúc cho cuộc đời chúng ta, vì Chúa biết từng người chúng ta. Chúa lưu tâm đến từng hoàn cảnh của chúng ta. Chúa còn bao bọc chở che chúng ta bằng biết bao ơn lành hồn xác. Sống dưới sự chăm sóc của Chúa, chúng ta không chỉ hạnh phúc ở đời này mà còn hạnh phúc cả đời sau: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời. Không bao giờ chúng phải diệt vong”.

Nếu mục tử Giêsu biết chiên của Ngài, yêu thương chiên đến nỗi nên một với nó và hiến mạng vì nó, thì mỗi người Kitô hữu cũng phải có trách nhiệm liên đới với anh chị em mình trong mọi nỗi niềm và cảnh ngộ của cuộc sống. Bởi mỗi người chúng ta qua bí tích rửa tội, đều lãnh nhận sứ mạng mục tử của Chúa trong nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ anh em mình.

Vì thế, lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:

Là cha mẹ, chúng ta hãy quyết tâm trở nên mục tử Giêsu cho con cái. Hãy biết đến con cái bằng trái tim để cảm thông và yêu thương. Chúng ta sẵn sàng đổ bao mồ hôi nước mắt để nuôi con lớn lên trong thân xác, trong tri thức, nhưng mấy cha mẹ thực sự dám hiến cả đời sống để con cái lớn lên trong tình mến Chúa yêu người. Chúng ta hãy nhớ điều này: Đức tin và tình mến Chúa yêu người không thể đến với con cái chỉ bằng lời nói, nhưng bằng chính cuộc sống của cha mẹ từng ngày dám sống theo Lời Chúa, dám hiến mình vì hạnh phúc của gia đình, dám đặt nỗi khao khát tìm Chúa trên mọi giá trị khác như tiền bạc, thú vui thì cha mẹ mới có thể làm cho con cái thấm nhuần lòng tin yêu Chúa và tình mến tha nhân. Cách sống ấy không chỉ làm nên cái đẹp của đời những đứa con mà còn làm rạng ngời cuộc đời của chính cha mẹ và còn có khả năng khơi dậy ơn gọi dâng hiến nơi tâm hồn con cái. Đó là lúc cha mẹ đang dành cho con cái tình yêu của Mục tử Giêsu.

Là thầy cô, chúng ta hãy trở nên những mục tử của học trò khi biết yêu thương và hết lòng truyền đạt cho học trò không chỉ những tri thức, mà còn giúp các em sống thực như những con người lương thiện, tử tế, nhân ái bằng chính gương quên mình phục vụ, yêu thương chăm sóc từng học trò trong tình yêu của mục tử Giêsu. Có lẽ thật lý tưởng. Nhưng nếu chúng ta không nuôi một lý tưởng cao đẹp như thế trong tâm hồn thì làm sao chúng ta có được một cuộc sống đẹp trong đời thường. Nếu chúng ta không nuôi một ước mơ lớn trong con tim của mình, làm sao chúng ta có được một tấm lòng vàng. Ước gì có nhiều thầy cô Công giáo, quên đi cái bệnh thành tích của xã hội hôm nay, để ôm ấp khát vọng dẫn dắt các em đi vào con đường lương thiện, xả kỷ và yêu thương.

Là các bạn trẻ, đặc biệt các công nhân, chúng ta hãy nâng đỡ bạn mình trong công việc, trong khó khăn, trong đơn côi vì xa gia đình. Hãy thúc đẩy nhau sống đức tin, dẫn nhau đến với Chúa ngày Chúa nhật, tham gia những sinh hoạt của giáo xứ. Trong tình yêu, với nạn sống thử trước hôn nhân, hãy can đảm gìn giữ nhau trong sáng theo luân lý Kitô, hãy giúp nhau vun đắp những đức tính cần thiết cho gia đình tương lai của mình. Đó là cách chúng ta trở thành những mục tử Giêsu của nhau.

Ước gì qua thánh lễ này, xin Chúa cho chúng ta biết noi gương bắt chước Chúa để trở nên mục tử nhân lành trong gia đình, trong xứ đạo, trong khu xóm, trong môi trường mà chúng ta đang làm việc và sinh sống, để cuối cùng tất cả được sống trong cùng một đàn chiên duy nhất của mục tử Giêsu.

Chúa nhật hôm nay cũng được Giáo hội chọn làm Ngày Thế Giới cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và Tu sĩ. Hiệp ý với toàn thể Giáo hội, chúng ta hãy cầu xin cho Giáo hội có nhiều mục tử nhân lành hết lòng dấn thân phục vụ vì đoàn chiên. Chúng ta hướng đến các bạn trẻ và cầu nguyện cho họ quảng đại đáp lại lời mời mọi của Chúa để dấn thân và phục vụ Chúa trên con đường dâng hiến. Xin cho các bậc cha mẹ ý thức và biết xây dựng gia đình mình thành cộng đoàn cầu nguyện và yêu thương, để trở thành vườn ươm ơn gọi cho thế giới hôm nay. Amen.

CHIÊN RỪNG – CN 4 PS-C

Có rất nhiều diễn từ nói về tình thương của Thiên Chúa, nhưng diễn từ về Chúa Chiên lành, là một trong những diễn từ xúc động nhất. Đức Giêsu đã khẳng định, Ngài chính là mục tử nhân lành, thí mạng vì đoàn chiên. Và quả thật, Ngài đã sống và chết cho chiên của  mình.

         Những ai biết Thiên Chúa, những ai thuộc về Ngài thì nghe tiếng Ngài. Thiên Chúa biết từng người một. Thiên Chúa biết từng thọ tạo Ngài dựng nên. Và tất cả những ai thuộc về Thiên Chúa đều nghe tiếng Ngài. Đó là những tiếng nói của niềm tin yêu và tôn thờ, kính trọng. Đức Giêsu đã khẳng định sự sống mà Ngài ban cho chiên của Ngài chính là sự sống đời đời không thể diệt vong và không ai có thể cướp mất. Cha của Ngài là Đấng chủ tể muôn loài, Đấng đã ban nhân loại cho Đức Giêsu, không ai có thể cướp họ ra khỏi Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một.

         Thế gian, sự dữ… không bao giờ bền vững. Cái vòng luân chuyển của sinh ly tử biệt luôn khống chế con người. Nhân loại không có quyền tự do tên sự sống cái chết của mình. Đã vậy, sự dữ luôn luôn xuất hiện và xâu xé con người. Nếu biết bấu víu vào Thiên Chúa, nếu ý thức trọn vẹn Ngài chính là chủ tể sự sống của mình, nhân loại sẽ thủ đắc sự sống đời đời không gì mất đi.

         Nếu tin vào Thiên Chúa, và bước đi theo Ngài, chắc chắn con người sẽ không bao giờ bị hủy diệt. Ngược lại, họ còn thủ đắc một sự sống vĩnh cửu hạnh phúc viên mãn. Thế nhưng, tâm hồn con người thuộc về Thiên Chúa nhưng thể xác của họ lại nô lệ thế gian. Những cạm bẫy, những quyến rũ hào nhoáng trần thế lôi kéo họ rời xa Thiên Chúa. Sự gian nan, khó khăn, thử thách trong cuộc sống làm cản bước chân họ. Đi theo Thiên Chúa, lắng nghe tiếng Ngài đòi hỏi con người phải từ bỏ mình, phải hy sinh, phải vác thập giá. Những cải “phải” ấy khiến cho nhân loại căng thẳng, bứt rứt, khó chịu.

         Chìa khóa giải mã mọi vấn nạn cuộc sống là tình yêu. Tình yêu là chìa khóa vạn năng mở cửa mọi khúc mắc cuộc đời. Vần đề không phải con người không được yêu thương nhưng là họ từ chối yêu thương. Từ chối tình thương của Thiên Chúa để đi tìm kiếm tình cảm chóng qua của nhân loại là điều tệ hại nhất. Vì Thiên Chúa trung tín và nhân lành, nhân loại thì ích kỉ và bất trung. Rời xa Thiên Chúa chính là rời xa sự sống, nhân loại rời bỏ thiên đàng hạnh phúc để đi tìm sa mạc của chiến tranh, hận thù.

         Tại sao vậy? Tại sao nhân loại từ khước Thiên Chúa. Tại sao con người từ khước Đấng làm chủ đời mình? Tại sao thế giới buông tay Thiên Chúa để từ điều khiển cuộc sống theo ý riêng mình? Con người yêu thích cái tự do được gọi là tự do hão, tự do chết, tự do dẫn đến sự hủy diệt đời đời.

         Giáo hội mừng chủ nhật Chúa chiên lành, cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ, là những người chủ chiên thay mặt Chúa chăm sóc đàn chiên của Ngài. Thế giới ngày nay thực sự cần những chủ chiên tốt lành, những chủ chiên yêu thương vô vị lợi, những chủ chiên là hiện thân của Đức Kytô, để xoa dịu, chữa lành mọi vết thương tâm hồn của họ. Nhưng sự thực, ai có thể là mục tử nhân lành ngoại trừ Thiên Chúa?

         Lạy Chúa, từ khi được sinh ra trong lòng Giáo hội, con đã được diễm phúc ở trong ngôi nhà Thiên Chúa, đã được Ngài âu yếm, chăm sóc, bảo vệ, chở che. Nhưng rồi thời gian qua đi, ngôi nhà ấy đã không giữ được trái tim con nữa, con tự mình muốn vượt ra ngoài, muốn đi thật xa, muốn tìm đến chân trời tự do hạnh phúc theo như mình mộng tưởng. Đâu biết rằng không có Thiên Chúa con không còn sự sống. Đâu hiểu rằng những viễn cảnh tương lai tươi sáng ấy chỉ là hạnh phúc ảo, không có thật. Tiếng réo gọi của tham sân si, của đam mê dục vọng, địa vị, chức quyền,… đã hủy hoại tâm hồn con. Thay vì trở thành con chiên hiền lành, ngoan đạo của Thiên Chúa, con đã tụ hủy hoại mình bằng những thói hư tật xấu, lạc loài như chiên rừng trên núi. Xin giúp con quay trở về, nép bên lòng Chúa, ở lại trong tình thương của Ngài để được vơi đi những nỗi nhọc nhằn vất vả, đắng cay cuộc sống. Xin giúp con ở mãi trong vòng tay của Ngài, làm chú chiên nhỏ hiền lành, luôn được Thiên Chúa vỗ về yêu thương.

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH ( C) ( Ga 10, 27-30 )
                                                         
      CHÚA CHIÊN LÀNH   
  “ Tôi và Chúa Cha là một ”   ( Ga 10,27-30 )

 

Vâng ! Kính thưa quý vị, Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật Chúa Chiên Lành hôm nay theo Thánh Gioan chỉ có 4 câu, nhưng được mang hai nội dung lớn  đó là :

I/ Chúa Giêsu là Thiên Chúa Hữu Hình:

Thiên tính vốn dĩ thiêng liêng, thiêng liêng vốn là vô hình.Thiêng liêng là hằng hữu, bởi vì không có sự hư mất bởi tính thiên liêng. Đấng làm Chủ thiêng liêng là Thiên Chúa, bởi vì sự hữu hình sẽ hư mất, Thiên Chúa đã dựng nên mọi sự, trong đó có sự hữu hình, nhưng Thiên Chúa không thuộc về hữu hình, và Thiên Chúa không hủy diệt điều mà Thiên Chúa đã tạo nên, vì vậy Thiên Chúa đã cứu chuộc nó. Trong mọi sự hữu hình thì phàm nhân là tạo vật được mang hình ảnh của Thiên Chúa, vì thế, muốn cứu chuộc phàm nhân thì một Ngôi Thiên Chúa phải trở nên như phàm nhân, để tỏ bày sự yêu thương cùng đích, chóp đỉnh của yêu thương, vì “không tình yêu nào lớn hơn kẻ hy sinh mạng sống vì bằng hữu”( Ga 15,13) . Và chính Ngôi Hai đã thể hiện điều đó, (vì Thiên Chúa đã xem phàm nhân là bằng hữu,) nhưng trong nhân tính phàm nhân của Chúa Giêsu chính là Thiên tính của Thiên Chúa, điều nầy được minh chứng theo dòng chảy lịch sử Đức Tin của đàn chiên do Người cứu chuộc, trước hết là bằng Lời. Quả thật, ai muốn trở nên môn đệ Đức Giêsu thì phải biếng lắng nghe tiếng Chúa, vì “ Chiên của Tôi thì nghe tiếng tôi; Tôi biết chúng và chúng theo tôi”. ( c 27). Thật là hợp lý, vì không thể muốn làm môn đệ của Chúa Giêsu mà nghe theo ma quỷ, Chúa Giêsu đã khẳng định như vậy, và không còn điều gì đúng hơn. Tuy nhiên, không có sự chọn lựa nào mà không phải trả giá. Phải chấp nhận hy sinh và Chúa Giêsu không dụ dỗ kẻ đi theo Người. Vì quà tặng lớn nhất của Người là Thập giá của mỗi con người đi theo Chúa, chứ không phải là của cải trần thế, hay là phương tiện vật chất.

Chúa Giêsu là Vị Mục Tử nhân lành, vì vậy, Thầy ở đâu thì môn đệ cũng sẽ ở đó. Vì vậy: “ Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong” ( c 28a). Không ai có được sự sống đời đời, trừ phi đó là Đấng Hằng sống. Như vậy, Đấng Hằng Sống vốn dĩ vô hình, nhưng đã mặc Thân xác hữu hình của phàm nhân để minh chứng cho phàm nhân sự sống của Thiên Chúa, Đấng ấy là Giêsu- Kitô. Con Thiên Chúa và chính là Thiên Chúa, vì Người là Mục Tử nhân lành, Mục Tử nhân lành thì hiến mạng sống vì đàn chiên. Chiên là tượng trưng cho loài vật hiền lành, được giao phó cho chủ chăn đích thực là hình ảnh một cộng đoàn thu hẹp và chủ chăn ấy phải là vị chủ chăn nhân lành như Thầy Chí Thánh Giêsu.

II/ Những gì thuộc về Chúa Giêsu thì không bao giờ hư mất.

Vâng ! Bởi vì không ai được biết Thiên Chúa, trừ phi kẻ ấy bởi Thiên Chúa mà đến. Chúa Giêsu đã mặc khải về chính Thiên Chúa và chínhh Người nói: “ Tôi và Chúa Cha là một” ( c 30). Không ai có thể ngang hàng với Thiên Chúa là Cha, nếu như kẻ ấy không bởi Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã tự mặc khải chính mình và Chúa Cha, và ngược lại không ai nhân Danh Thiên Chúa mà lại quay lưng với Ngài. Nên chi, khi thờ lạy Chúa Giêsu là thờ lạy một Chúa là Cha. Như vậy, Thiên Tính của Chúa Giêsu không tách rời bởi Thiên Chúa là Cha. Cũng chính điểm nầy, khi Người sinh thì trên Thánh giá, cho thấy Nhân tính và Thiên tính của Người được tách rời để chu toàn ý định của Chúa Cha. Nếu không phải vì Thiên định, thì khó ai làm gì được. Và như vậy ơn cứu chuộc không hoàn tất, và như vậy , người nào làm một cùng Thiên Chúa thì có sự sống đời đời, dù muôn ngàn thế lực xấu. Theo đó, là dấu chứng muôn đời cho những ai tin và bước theo Chúa Giêsu vì chính Người đã nói : “ và không ai cướp được chúng khỏi tay Tôi” ( c 28 b ). “Vì Cha Tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Như vậy, đây là bảo chứng muôn đời cho ơn cứu độ và là niềm cậy trông cho kẻ tin. Vì Chúa Giêsu và Chúa Cha là một. Như vậy, nhờ Nhân tính Hữu Hình của Chúa Giêsu, người ta mới nhìn thấy được phần Hữu Hình của Thiên Chúa là Cha qua Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã mặc khải cho chúng con biết phần Nhân Tính của Chúa, đồng thời Chúa cũng cho chúng con biết phần Thiên Tính của Chúa nơi Chúa Cha là một, để chúng con nhận biết, tôn thờ và kính tin sùng mộ, hầu mang lại ơn cứu độ cho chúng con ./. Amen

21/04/2013
P. Trần Đình Phan Tiến ( Bước Theo)

 

CHÚA CHIÊN NHÂN LÀNH (CN IV/PS)

Nói đến chiên cừu là nói đến những động vật dễ thương, gần gũi với con người, đặc biệt là dân Do-thái. Ngoài những thứ chúng cung ứng cho tiện nghi sinh sống của con người (như sữa, lông, da, thịt), còn một điều ít có con vật nào có được là chiên còn được dùng trong những dịp lễ lạc của đời sống tâm linh (sát tế, tế thần, lễ vật toàn thiêu). Cũng vì thế nên hình ảnh con chiên thường được dùng để nói về những con người tin vào Thiên Chúa, được Người chăn dắt tận tình ("Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt" – Is 40, 11; "CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm" – Tv 23, 1-4).

Không chỉ những tín hữu là con chiên của Thiên Chúa, mà chính Đức Giê-su Ki-tô  – Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật – khi vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người, chịu sát tế để cứu chuộc nhân loại, thi Người cũng là một Con Chiên – Chiên Thiên Chúa – như lời khẳng định của Thánh Gio-an Tẩy Giả: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” (Ga 1, 29). Như vậy, Thiên Chúa đã thương yêu con cái của mình, coi chúng như đoàn chiên ngoan ngoãn dễ thương, nên mới ban Con Một xuống thế để chăn dắt đoàn chiên đó (“Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” – Ga 10, 11).

Khi nói đến vấn đề chăn nuôi súc vật (mục vụ: 牧 務 ), thường có 2 dạng: có thể người chăn nuôi (mục tử: 牧 子) ấy là chủ thực sự của đàn súc vật, và cũng có thể là người làm thuê (do người chủ mướn trông coi đàn súc vật). Cũng có những người làm thuê tận tuỵ với công việc bằng một tình cảm thương yêu, chăm sóc đàn súc vật mà mình trông coi mướn như là của chính mình, hơn là vì đồng lương, tiền công mà chủ trả cho hàng tháng, hàng năm. Tuy nhiên, số này rất hiếm, đa số những người làm thuê thường chỉ làm vịêc cho tương xứng với tiền công, như một sự trao đổi sòng phẳng (một bên bỏ ra tiền của, một bên bỏ ra công sức). Vì thế những người làm thuê không thể sánh với chủ nhân của đàn súc vật đó. Người chủ chăn không chỉ vì những lợi ích vật chất do đàn súc vật mang lại, nhất là khi đàn súc vật đó lại là những con chiên đẹp đẽ, ngoan hiền, dễ thương, thì người chủ còn coi đàn chiên như những đứa con em máu mủ của mình. Nói khác đi, người chủ chăn (chúa chiên) không chỉ vì nhu cầu vật chất, mà còn coi đó là bổn phận, và hơn thế nữa là trách nhiệm của mình (lo lắng thực phẩm, săn sóc bệnh tật, thậm chi còn sẵn sàng bênh vực, che chở chúng trước những nanh vuốt kẻ thù như sói lang ác hiểm).

Bài Tin Mừng  hôm nay (CN IV/PS-C – Ga 10, 27-30) trình thuật câu chuyện một đám người Do thái cố tình dồn Đức Giê-su vào một thế kẹt để họ dễ dàng lên án Người. Lúc đầu chỉ là câu hỏi như kiểu nêu thắc mắc đòi được giải đáp ("Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết." – Ga 10, 24). Cũng vì trước đó khi nghe Đức Giê-su nói “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10, 14-15), thì đám người Do-thái này đã nói: "Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi! Nghe ông ấy làm gì?" (Ga 10, 20); nên Đức Giê-su quá hiểu mục đích của đám người này không phải muốn được giải toả thắc mắc để họ có thể tin vào Đức Giê-su chính thực là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật; mà họ chỉ muốn nhân cơ hội kết án Người là phạm thượng, rồi ném đá Người (Ga 10, 31-33). Vì thế, khi trả lời họ, Đức Ki-tô đã nhấn mạnh: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi.” (Ga 10, 25-26).

Sau khi xác định đám người “cơ hội” Do thái không thuộc đoàn chiên của mình, Đức Giê-su lại tiếp tục nói về đoàn chiên mà Người thương mến: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một.” (Ga 10, 27-30). Người đã lấy hình ảnh rất dễ thương của đàn chiên để chỉ những môn đệ và những kẻ tin theo Lời Người; đồng thời Người cũng xác định chính Người là Đấng chăm lo chăn dắt đàn chiên đó – Người chính là vị Chúa Chiên nhân lành.

Hiểu sâu vào vấn đề, thì vị Mục Tử nhân lành ấy được Chúa Cha sai đi chăn dắt con người về đường linh thiêng, nên còn gọi là linh mục, và chính Đức Ki-tô là Linh Mục Thượng Phẩm, Linh Mục Duy Nhất như Tông huấn Ki-tô Hữu Giáo Dân (Ch. I, số 14) đã viết: “Thánh Augustinô viết: ‘Cũng như chúng ta tất cả được gọi là Kitô-hữu (Christiani) vì đã được xức dầu (Chrisma) một cách thiêng liêng, do đó tất cả được gọi là linh mục, bởi vì chúng ta là thành phần thân thể của Linh Mục Duy Nhất’ (De Civitate Dei - XX, 10)." Về lý thuyết thì tất cả mọi Ki-tô hữu đều là linh mục (tư tế cộng đồng), nhưng thực tế để có thể điều hành hoạt động của Giáo Hội thì lại rất cần có hàng ngũ những người trực tiếp thừa kế (tư tế thừa tác) sứ vụ của Linh Mục Duy Nhất Giê-su Ki-tô, thông qua Ơn Thiên Triệu – Bí tích Truyền Chức ("Danh từ "hàng Linh Mục" đươc chọn với mục đích để chỉ định toàn thể hàng ngũ Linh Mục. Chúa Giê-su đã cho toàn thể Dân Chúa tham dự vào chức linh mục của Người nhưng Người còn muốn thiết lập những "thừa tác viên" của Người, những người này nhờ bí tích Truyền Chức được quyền dâng thánh lễ, quyền tha tội và thực hành chức vụ linh mục nhân danh Chúa Ki-tô" – Sắc lệnh "Chức vụ và đời sống các linh mục", số 2).

Hai chức vụ tư tế đó quan hệ khăng khít với nhau, chức vụ này vừa là tiền đề vừa là kết quả của chức vụ kia và ngược lại. Lý do cũng dễ hiểu: không thể có những phần tử lãnh nhận chức vụ tư tế thừa tác nếu không có hàng ngũ tư tế cộng đồng, ngược lai hàng ngũ tư tế cộng đồng muốn không bị khủng hoảng để đi đến tan rã, cũng rất cần thiết phải có người trông coi, chăm sóc, đó là những tư tế thừa tác. Nói cụ thể hơn, không có Giáo dân (đoàn chiên của Chúa) thì không thể có Linh mục, mà không có Linh mục thì đoàn chiên sẽ bị xẻ đàn tan nghé ngay. Tư tế cộng đồng (Giáo dân) hay tư tế thừa tác (Linh mục) thì cũng đều là con người, mà nói về con người thì “nhân vô thập toàn”, không một cá nhân nào được thập phần hoàn hảo, có ưu điểm thì cũng có khuyết điểm, đó cũng là lẽ tất nhiên.

Trong  đoàn chiên của Chúa có rất nhiều những con chiên ngoan hiền dễ thương, biết vâng nghe lời chủ, thì cũng không thiếu những con chiên lạc đàn, chạy theo bầy sói dữ, thậm chí còn quay lại chống trả và giết hại cả chủ chăn (mục tử). Cũng vậy, trong hàng ngũ mục tử – những thừa tác viên kế nghịêp Mục tử nhân lành Giê-su Ki-tô – có rất nhiều những mục tử xứng đáng với vai trò và trách vụ của mình đã được chính Đức Ki-tô trao phó trong bữa Tiệc Ly ("Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en." – Lc 22, 29-30); nhưng cũng vẫn còn những mục tử bất trung, phạm những lỗi lầm nghiêm trọng, như "Thư của ĐTC Biển Đức XVI gởi các linh mục nhằm thiết lập năm linh mục" ngày 16/6/2009, viết : "Bất hạnh thay, cũng tồn tại những hoàn cảnh, không bao giờ lấy làm tiếc đủ, mà chính Giáo Hội phải chịu vì sự bất trung của một số thừa tác viên của mình. Và đối với thế giới, đó là một cái cớ gương mù và khước từ.” (xin coi thêm "Thư đề ngày 20/3/2010 của ĐTC Biển Đức XVI gửi Giáo Hội Ai-len" v/v một số linh mục xâm phạm tình dục trẻ em).

Nói chung thì hàng ngũ mục tử cũng như hàng ngũ con chiên đều không thoát khỏi cảnh có những mục tử xấu, những con chiên ghẻ làm “gương mù và khước từ” ân sủng của Thiên Chúa. Chúng ta không quá lạc quan để cho rằng đoàn chiên của Chúa cũng như những vị mục tử thừa kế sứ vụ của Đức Giê-su Ki-tô, tất cả đều tốt lành, hoàn hảo; nhưng đồng thời cũng không quá bi quan để cho rằng tất cả đều xấu. Vâng, “Trong những trường hợp như thế, những gì có thể là ích lợi cho Giáo Hội, đó không chỉ là nhận ra đầy đủ những yếu đuối của các thừa tác viên của mình, nhưng còn là một ý thức mới mẻ và phấn khởi về sự cao cả của ân huệ của Thiên Chúa, được cụ thể hóa nơi những hình ảnh sáng ngời của những mục tử quảng đại, những tu sĩ rực cháy tình yêu đối với Thiên Chúa và các linh hồn, những vị linh hướng sáng suốt và kiên nhẫn." (ĐTC Biển Đức XVI – “Thư thiết lập Năm Linh Muc 2009”).

Bài Tin Mừng CN tuần trước (CN.III/PS-C) trình thuật về phép lạ “Mẻ cá lớn” có một chi tiết rất đáng lưu ý, đó là: Sau phép lạ, Đức Giê-su hỏi thánh Phê-rô ba lần liền "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Ba lần chỉ với một câu hỏi, khi nghe Phê-rô trả lời câu đầu tiên thì Đức Giê-su nói "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy" (Ga 21, 15). Điều này cho thấy Đức Ki-tô muốn thánh Phê-rô với tư cách mục tử hãy chăm sóc đàn chiên con. Nếu đã có “chiên con” (giáo dân). thì tất nhiên phải có “chiên mẹ” (linh mục), nên hai lần sau, Đức Giê-su chỉ nói ngắn gọn: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy." (Ga 21, 17). Lần này thì Đức Ki-tô muốn thánh Phê-rô trông coi cả đoàn chiên (trong đó có chiên mẹ và chiên con), tức là trông coi cả Giáo Hội như Người Mục Tử Nhân Lành đã làm ("Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt" – Is 40, 11).

Có lẽ vì trong ràn chiên Giáo Hội có cả chiên mẹ (linh mục) và chiên con (giáo dân) nên giáo dân Việt Nam thường dùng tiếng “cha” để gọi các linh mục; mặc dù Chúa dạy không được gọi ai bằng cha hay bằng thầy, vì chỉ có một người Cha duy nhất ở trên trời, và chỉ có một người Thầy duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô (Mt 23, 8-10). Với tiếng cha thân thương dành cho các linh mục như vậy, giáo dân VN luôn mong mỏi các linh mục hãy coi đoàn chiên như con cái, đồng thời hãy coi mình có bổn phận và trách nhiệm của bậc cha mẹ, mà chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên. Tuy nhiên, từ cái ưu điểm ấy, cũng nảy sinh những hạn chế. Đó là giáo dân vì gọi linh mục là cha, nên mang một mặc cảm tự ti, luôn e dè – thậm chí sợ sệt – mà không dám gần gũi, cộng tác, sẻ chia trong sứ vụ chung; đồng thời về phía linh mục, cũng có một số tự cao, tự đại coi mình là "cha thiên hạ", không thèm lắng nghe ý kiến từ giáo dân, thậm chí còn coi mình là nhân vật "bất khả xâm phạm, bất khả thay thế" nữa. Số người ấy (từ cả hai phía giáo dân và linh mục) tuy không nhiều, nhưng không phải là không có.

Ý thức được vấn đề như vậy, người Ki-tô hữu hãy cầu xin cho mọi thành phần của Giáo Hội sống đúng và sống trọn vẹn vai trò của mình: Ai được chọn làm mục tử thì luôn luôn phải là người mục tử tốt lành theo gương Mục Tử Nhân Lành Giê-su Ki-tô; còn đoàn chiên con phải luôn biết đoàn kết thương yêu nhau, cùng nghe theo tiếng nói đích thực của vị Mục Tử Nhân Lành Giê-su thông qua các mục tử trong ràn chiên Giáo Hội, để ai nấy đều "được sống và sống dồi dào" Tình Yêu của Chiên-Sát-Tế-Giêsu-Kitô, ngõ hầu đổi mới cuộc đời, “giải thoát nó khỏi bóng tối và sự dữ” như lời dạy của ĐTC Phan-xi-cô I trong bài Giáo Lý thứ hai về Năm Đức Tin (ngày 10/4/2013): “Là một Ki-tô hữu không chỉ là tuân giữ các giới răn, nhưng có nghĩa là sống trong Đức Ki-tô, suy nghĩ như Người, hành động như Người, yêu như Người; có nghĩa là để Người làm chủ cuộc đời chúng ta và thay đổi nó, biến đổi nó, để giải thoát nó khỏi bóng tối sự dữ và tội lỗi.” Ước được như vậy. Amen.  
JM. Lam Thy ĐVD.

 

vhd sưu tầm .

Chúa Nhật IV Phục Sinh – Năm C (April 21st 2013)

VUI LÀ CHIÊN CHÚA

(Lm Phạm Quốc Hưng) 

C​húa Nhật hôm nay-Chúa Nhật thứ tư trong mùa Phục Sinh-thường được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, và được Giáo Hội đặt làm Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu. Khi nói đến ơn thiên triệu, người ta thường nghĩ ngay đến ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ nam nữ. Hai tiếng “thiên triệu” có nghĩa là Chúa kêu gọi. Vì vậy, nói chung, mọi người đều được Chúa kêu gọi để nhận biết, yêu mến và kết hợp với Chúa; và nhờ đó đạt đến hạnh phúc đời đời là mục đích Chúa dựng nên mỗi người chúng ta.
Vì trung tâm đời sống Công giáo là Thánh Lễ, nên mọi tín hữu đều phải quan tâm đến việc cổ võ ơn gọi linh mục. Vì cần có chứng tá của những người dám từ bỏ mọi sự để sống cho Chúa Kitô và Nước Trời , nên mọi tín hữu mong thấy sự hiện diện của các tu sĩ nam nữ. Vì Chúa Kitô cần được nhận biết ngay giữa chợ đời trong mọi lãnh vực trần thế như chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội, thể thao, thông tin; nên sự hiện diện của những tín hữu giáo dân Công giáo thập thành, những người sống thánh giữa đời lại càng cần thiết hơn bao giờ hết.
Người ta thường cho rằng chính vì sự khan hiếm ơn gọi linh mục và tu sĩ tại nhiều nơi trên thế giới mà nhiều nhà thờ, trường học, bệnh viện hay các cơ sở từ thiện phải đóng cửa! Nhưng nếu nhận xét cho kỹ, chúng ta phải nói cho đúng sự thật: chính vì thiếu đức tin, thiếu ơn gọi Kitô hữu chân chính mà Hội Thánh bị suy đồi tại nhiều nơi. Ơn gọi linh mục và tu sĩ nam nữ đích thực chỉ có thể có được từ những ơn gọi tín hữu-ơn gọi Kitô hữu chân chính! Những hậu quả lớn lao do gương xấu của một số linh mục trong Hội Thánh tại Âu Mỹ trong những năm gần đây khiến người ta phải nhận rằng: thà thiếu linh mục hơn là có những linh mục tầm thường tội lỗi, “những nhà tu tâm tục”!
Như vậy, mọi ơn gọi trong Hội Thánh chỉ có thể được đón nhận, trân quý, gìn giữ và phát triển trong bầu khí đức tin và cắm rễ sâu trong ơn gọi là tín hữu đích thực của Chúa Kitô, là con chiên thực sự của Chúa Kitô, Đấng là Chúa Chiên Lành, cũng chính là Chiên Thiên Chúa! Sự cao cả của ơn gọi Kytô hữu được Chân Phước Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II xác định trong cuốn Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng như sau: “Dù vô hình bản thân Ngài (Đức Kitô) hiện diện trong Giáo Hội. Ngài cũng hiện diện như thế trong mỗi Kitô hữu nhờ phép Rửa Tội và các nhiệm tích khác. Chính vì thế, vào thời các Giáo phụ, người ta thường gọi ‘Mỗi Kitô hữu là một Đức Kitô khác’, để nhấn mạnh đến phẩm chức của người đã chịu phép Rửa Tội và ơn gọi nên thánh trong Đức Kitô…Không chỉ riêng Giáo hoàng mà còn là tất cả các Giám mục liên quan đến những trách vụ mà Giáo Hội ủy thác, cũng đều là ‘Đại Diện của Đức Kitô’. Giáo Hoàng là Đại Diện của Đức Kitô đối với Giáo Hội tại Rôma, và thông qua Giáo Hội đó, đối với tất cả các Giáo Hội cùng hiệp thông trong đức tin, trong tổ chức, và trong giáo luật. Như thế, nếu chúng ta quy chiếu tước vị này cho Giám mục thành Rôma, thì cũng phải quy chiếu tước hiệu đó cho Cộng đoàn các giám mục, cũng như cho mỗi giám mục, mỗi linh mục, và cho mỗi người đã được chịu phép Rửa Tội…Người ta thường hay nhắc lại câu nói của Thánh Augustinô: ‘Tôi là Giám mục của anh chị em, và tôi là Kitô hữu cùng với anh chị em’. Suy nghĩ cho kỹ thì danh xưng Kitô hữu có ý nghĩa cao cả hơn danh xưng Giám mục, dù có là Giám mục thành Rôma”.
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đã cho thấy những đặc nét căn bản của người Kitô hữu hay của ơn gọi Kitô hữu như sau:
Ngay trong Cựu Ước, niềm vui vì được là chiên của Chúa, vì thuộc về đàn chiên Chúa, vì thuộc về dân Thiên Chúa là một đặc nét của những người có lòng tin đích thực. Điều này đã được Thánh Vịnh Gia diễn tả trong phần đáp ca hôm nay: “Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tác tạo thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người, ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi” (Tv 99:3).
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã diễn tả đặc nét của chiên Chúa, của các tín hữu Chúa, cũng như liên hệ giữa Người và các chiên của Người như sau: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta” (Ga 10:27-28).
Sách Tông Đồ Công Vụ cho thấy chiên Chúa như “những ai được Thiên Chúa tiền định để hưởng sự sống đời đời thì tin theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng” (Cv 13:48). Và các môn đệ, những người vừa tin Chúa Kitô vừa làm chứng cho Chúa Kitô, được diễn tả như những người “đầy hân hoan và Thánh Thần” (Cv 1352).
Với những tín hữu đã trung thành theo Chúa và đạt đến sự sống đời đời như lời Chúa hứa, tác giả sách Khải Huyền cho thấy: “Đây là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ ở trước ngai vàng Thiên Chúa, và ngày đêm phụng sự Người trong đền thánh Chúa, Đấng ngự trên ngai vàng đặt ở giữa họ. Họ sẽ không còn đói khát; mặt trời và nóng bức sẽ không làm khổ họ, vì Con Chiên đứng trước ngai vàng sẽ thống trị họ, sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống, và Thiên Chúa sẽ lau hết mọi giọt lệ nơi mắt họ” (Kh 7:14b-17).
Các đặc nét của các Kitô hữu đích thực cũng được nhận ra trong truyền thống sống đức tin của Hội Thánh qua mọi thời đại.
Sau thời kỳ đạo Công giáo bị bách hại, các tín hữu Công giáo tại Nhật Bản đã được cha ông họ căn dặn phải dùng ba tiêu chuẩn sau để nhận diện một linh mục thừa sai Công giáo đích thực khi các vị này tìm đến với họ. Đó là người ấy phải có lòng biệt kính Đức Mẹ Đồng Trinh, phải khấn giữ mình độc thân và phải vâng phục Đức Giáo Hoàng.
Ba tiêu chuẩn trên chẳng qua cũng là một cách diễn tả tình yêu ba chiều là đặc nét của tất cả mọi tín hữu Công giáo chân chính, những con chiên đích thực của Chúa Kitô. Trứơc hết, họ phải có một tin yêu tuyệt đối dành cho Thánh Tâm Thánh Thể Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh, Đấng khai mở và kiện toàn đức tin của họ. Điều này phải được thể hiện qua việc chuyên chăm cầu nguyện và đọc, nghe, suy niệm và sống Lời Chúa với lý tưởng yêu thương hiệp nhất của Tin Mừng và sống theo sự khôn ngoan của Thập Giá. Kế đến, họ phải có một lòng biệt kính thẳm sâu dành cho Mẹ Maria, là mẫu gương tuyệt hảo của mọi Kitô hữu, qua việc thiết tha kêu cầu sự trợ giúp của Mẹ và noi gương nhân đức của Mẹ. Cuối cùng, họ phải có lòng thảo mến vâng phục Đức Thánh Cha và Hội Thánh, để được sống theo Thần Khí và thuộc về Hội Thánh, là Nhiệm Thể Chúa Kitô và là Đoàn Chiên Chúa.
Để ghi nhớ và sống theo căn tính đích thực của người Công giáo, chúng ta nên có tập quán đọc Kinh Dâng Ngày sau: “Lạy Trái Tim Cực Thánh Đức Chúa Giêsu, con nhờ Trái Tim Cực Sạch Đức Bà Maria mà dâng cho Trái Tim Chúa: mọi lời con cầu xin, mọi việc con làm, mọi sự khó con chịu trong ngày hôm nay, cho được đền vì tội lỗi con và cầu nguyện theo ý Cha. Khi dâng mình tế lễ trên bàn thờ, con lại dâng các sự ấy cho Trái Tim Cha cùng ý cầu nguyện cách riêng theo ý Đức Giáo Hoàng.”
Ave Maria, xin Mẹ cầu cùng Chúa cho chúng con ngày một thêm lòng yêu mến Chúa Giêsu, yêu mến Mẹ, yêu mến Đức Thánh và Hội Thánh, để chúng con mãi mãi là những con chiên đích thực, những con chiên hạnh phúc của Chúa Giêsu-Con Mẹ. Amen.

CN IV PS-Năm C (Lm. Trầm Phúc)

GỢI Ý SUY NIỆM LỜI CHÚA

Chúa Nhựt thứ bốn Mùa Phục Sinh năm C

 “Ta là Mục Tử nhân lành” Ga 1027-30

Đoạn Tin Mừng thánh Gioan hôm nay là phần cuối của chương 10 nói về Đấng Chăn Chiên Nhân Lành. Phần đầu đã được trích để suy niệm vào năm A và năm B. Hôm nay chúng ta đi vào đoạn cuối.

Trước khi là Mục Tử nhân lành, Chúa Giêsu là “Con Chiên Thiên Chúa, đấng gánh tội trần gian”. Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu như thế với các môn đệ của ông.Ngài gánh tội trần gian vì thế Ngài phải tan xương nát thịt vì chúng ta. Nhưng Ngài đã sống lại.Thánh Gioan Tông đồ đã nhìn thấy Ngài như “Con Chiên đã bị giết, nhưng đã sống lại ,nay xứng đáng lãnh nhận phú quí và uy quyền,khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang và muôn lời cung chúc”.

Là Con Chiên Thiên chúa, gánh tội trần gian, Ngài xứng đáng là Mục Tử nhân lành, vì đã cứu vớt chúng ta và biến chúng ta thành “một dân thánh”. Ngài đã nói với thánh Gioan: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời”.

Chúng ta là đàn chiên Ngài chăn dẫn, “Ngài dẫn chúng ta vào những đồng cỏ xanh tươi”…Ngài nuôi chúng ta bằng lúa mì tinh hảo, bằng rượu mới dầu tươi”. Chúng ta chỉ cần “nghe tiếng Ngài, theo Ngài” vì Ngài biết chúng ta, Ngài gọi chúng ta từng người một và hướng dẫn chúng ta.

“Nghe tiếng Ngài”. Nghe ở đây phải hiểu là “ nghe và tuân hành”: “Ai yêu mến Ta người ấy giữ lời của Ta”.

Nghe theo Ngài, chúng ta không còn lo sợ. Ngài là “đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Chỉ cần vững tin.

Chúng ta có một Mục Tử toàn năng, chúng ta sẽ không chao đão, dù chung quanh chúng ta chỉ là đe dọa, bão tố và gian ác.

Chúng ta đang sống trong một thế giới đang sụp đổ, không còn biết hướng đi, không còn gì vững chắc. Chân trời của thế giới càng ngày càng ảm đạm thê lương. Con người hôm nay với những tiến bộ khoa học đáng tán dương, càng trở nên nô lệ những phát minh tân kỳ của mình. Con người hôm nay muốn tự mình làm chủ vận mạng của mình, để đi về đâu? Đi đến tận diệt. Vì họ không có mục tử. Thảm họa của con người hôm nay là không biết mình đi về đâu. Vật chất, khoa học, được biến thành thần tượng, thì con người chỉ là một tên nô lệ bị gắn vào cổ máy của khoa học để rồi bị nghiền nát tan tành.

Càng hiểu thế giới hôm nay, chúng ta càng phải tạ ơn Chúa vì chúng ta không bị bán làm nô lệ cho vật chất, cho khoa học, vì chúng ta có một mục tử nhân lành đã cứu thoát chúng và đang chăm sóc đàn chiên của Ngài. Mục tử của chúng ta là Sự Sống. Ngài đã nói: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sồng đời đời”. Đó là bảo đảm , là tương lai của chúng ta. Dù thế giới nầy có đão điên, chúng ta vẫn không sợ sệt: “Dù qua thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn”.

Ngài biết chúng ta từng người một. Từ “biết” ở đây phải hiểu theo nghĩa Do thái: biết là yêu, biết theo nghĩa vợ chồng yêu nhau. Chúa Giêsu biết chiên của mình, nghĩa là yêu thương chiên của Ngài “và yêu thương đến tận cùng”.

Ngài biết rõ “khi tôi ngồi và khi tôi đứng”, vì thế chúng ta hoàn toàn có thể tin vào tình yêu quyền năng của Ngài, phó thác cuộc sống chúng ta trong tay Ngài.Theo Ngài, chúng ta được bảo đảm về mọi mặt, mặc dù chúng ta phải đối mặt với cuộc sống đầy gian khổ. Những người yếu tin mới sợ sệt lo âu, mới rên siểt, than phiền, bất mãn. Một người tin vững vẫn lạc quan, vì họ sẽ “không bao giờ bị diệt vong, sẽ không bị cướp mất khỏi tay Ngài”.

Chúng ta đã tin chưa? Đó là vấn đề.

Cám tạ ơn Chúa, đã ban cho Giáo Hội, những mục tử hết sức tuyệt vời, đầy niềm tin sáng suốt để lèo lái Giáo Hội trong thời gian khó khăn hôm nay. Đức Gioan 23, vừa nhận nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên Giáo Hội gần ba tháng, đã can đảm triệu tập Công đồng Vatican II, một việc vượt xa khả năng của một cụ già 78 tuổi.Ngài vui tươi lạc quan. Ngài biết rõ tình hình Giáo Hội và thế giới lúc bấy giờ. Thế giới thời bấy giờ (1962) đang trong thời chiến tranh lạnh. Hai khối lớn trên thế giới đang đối đầu với nhau: Tư bản và Cộng sản. Ngài vẫn vui tươi tiến bước.

Điều đó chứng tỏ một niềm tin vững mạnh không gì lay chuyển. Ngài đã mở một con đường mới cho Giáo Hội đi vào thế giới đang đố kỵ kịch liệt với Giáo Hội.

Đức Phaolô VI tiếp tục công trình đang dang dở: Công đồng Vatican II, và đã đưa Công Đồng đến hoàn thành và đưa vào thực hành. Củng cố và canh tân Giáo Hội theo đường lối của Vatican II.Ngài đã sáng suốt hướng dẫn Giáo Hội hậu Công Đồng với một sự khôn ngoan lạ thường, với một sự cương nghị đáng phục. Ngài đã giúp Giáo Hội vượt qua bao nhiêu khó khăn, qua bao nhiêu khủng hoảng sau Công đồng.

Đức chân phước Gioan-Phaolô II, với hơn hai mươi lăm năm trong cương vị giáo hoàng đã đưa Giáo Hội vào con đường canh tân sâu rộng. Ngài sẵn sàng đối mặt với mọi vấn đề xã hội, chính trị, tôn giáo…

Lời nói đầu tiên của Ngài sau khi lãnh trọng trách Mục Tử đàn chiên Giáo Hội là : “Đừng sợ!”

Ngài chứng tỏ là một con người có niềm tin sắt đá, và sáng suốt. Cuộc đời của Ngài là một dấn thân trọn vẹn cho Giáo Hội và cho nhân loại. Có thể nói, Ngài đã canh tân sâu rộng và làm cho khuôn mặt Giáo Hội trong sáng hơn trong cuối thế kỷ hai mươi. Đức Bênêđitô XVI gặp tất nhiều khó khăn trong nội bộ Giáo Hội: các linh mục suy đồi, và nhiều chống đối quan trọng khác. Ngài đã củng cố niềm tin của Giáo Hội trong suốt thời gian làm Giáo Hoàng.

Đức tân Giáo Hoàng Phanxicô của chúng ta nhận trách vụ Mục Tử trong một bối cảnh cam go. Ngài vẫn mỉm cười với mọi khó khăn đang chờ đợi Ngài. Ngài tỏ ra lạc quan nhìn thế giới hỗn độn nầy với niềm tin thanh thản. Ngài biết rõ hơn ai hết tình trạng bi đát của thế giới hôm nay.Ngài chứng tỏ niềm tin can đảm của Ngài bằng một nếp sống đơn thường, giản dị, đầy thân ái.

Chúng ta hãy vui mừng tạ ơn Chúa vì Chúa đã dẫn dắt Giáo Hội qua mọi thử thách trần gian nhờ những Mục Tử đầy niềm tin trong sáng và can đảm.

Chúng ta vững tin vì Chúa Giêsu đã khẳng định: “Không ai cướp được chúng khỏi tay Tôi…Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Chúng ta được bảo đảm như thế, hãy hiên ngang tiến bước giữa trần gian không tin tưởng và lắm khi là nghịch thù, loan truyền tình thương của Chúa với sự thanh thản vui tươi của những kitô hữu đầu tiên, những anh em gương mẫu của chúng ta.

Chúng ta hiên ngang vì Chúa của chúng ta đã sống lại và là Thiên Chúa toàn năng: “Tôi với Chúa Cha là một”.

Mục tử nhân lành của chúng ta vẫn “ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế” và hằng ngày vẫn lấy Thịt mình nuôi chúng ta, củng cố niềm tin của chúng ta.

Còn gì hạnh phúc bằng khi biết rằng Ngài là Thiên Chúa Tình Yêu và Ngài là của chúng ta và trọn vẹn là của chúng ta!

Lm Trầm Phúc

CẦU CHO ƠN THIÊN TRIỆU
Ngày 21-4-2013, Chúa Nhật IV Phục Sinh, là ngày cầu cho ơn thiên triệu.

Theo cuốn “Catholic Word Book” (Sách Từ Ngữ Công Giáo), trang 44, NXB Knights of Columbus, có định nghĩa về ơn thiên triệu – thường gọi là ơn gọi:
“Đó là ơn gọi theo một cách sống. Nói chung, thuật ngữ này áp dụng cho ơn gọi chung của mọi người Thiên Chúa kêu gọi tới sự thánh thiện và ơn cứu độ. Đặc biệt, đó là nói tới tình trạng sống của mỗi người theo ơn gọi riêng, đó là hôn nhân, tu trì, linh mục, sống độc thân hoặc chấp nhận hoàn thành Ý Chúa. Thuật ngữ này cũng áp dụng cho các nghề nghiệp mà người ta sinh sống. Giáo Hội ủng hộ sự tự do của mỗi người trong việc chọn lựa nghề nghiệp nào đó, và duy trì quyền tự do chấp nhận của các ứng viên lên chức linh mục và khấn dòng. Có nhiều dấu hiệu để nhận biết ơn gọi, kể cả tài năng và mối quan tâm, tình huống và lời hứa, lời mời gọi của ân sủng và sẵn sàng đáp lại”.
 Trước Công đồng Vatican II, khi nói tới “ơn thiên triệu” (vocation) hoặc “ơn gọi” (calling), người ta thường hiểu ngầm về thiên chức linh mục. Những người muốn làm tu sĩ, được gọi là ơn gọi tu trì. Người ta gọi người muốn kết hôn là có ơn gọi hôn nhân, nếu người đó không muốn sống độc thân.
 Từ Công đồng Vatican II, nhiều kinh cầu cho ơn thiên triệu được soạn ra bao gồm mọi dạng ơn gọi. Cũng đã có những lúc giảm sút ơn gọi tu trì và linh mục. Đó có thể vì những lời nguyện có những kiểu cầu nguyện khác nhau, không nhấn mạnh vào nhu cầu về ơn gọi linh mục. Có câu nói cổ này: “Hãy theo dõi điều bạn cầu nguyện” (Watch what you pray for). Nếu bạn cầu xin mọi thứ, bạn sẽ được mọi thứ. Những người thật lòng xin ơn gọi trong giáo xứ của mình nên cầu xin ơn gọi linh mục. Nếu không, họ đáng trách, vì đã không cầu xin đúng Ý Chúa.
 1. Các linh mục và các tu sĩ nam nữ làm gì suốt ngày?
 Cũng như đa số người lớn, họ dành thời gian để làm việc hằng ngày. Họ gọi công việc là bổn phận kiểu mẫu và động cơ vì Chúa Giêsu, Đấng yêu cầu họ noi gương Ngài phục vụ Dân Chúa. Nhưng họ không chỉ làm việc! Để sống lành mạnh và cân bằng, hãy cố gắng cầu nguyện bằng nhiều cách. Cầu nguyện, nhiệm vụ và vai trò là 3 cách giúp họ sống lành mạnh để có thể phục vụ hiệu quả và vui sống.
 Trong lĩnh vực nhiệm vụ hoặc chức vụ, nhiều linh mục và tu sĩ có nghề chính – như dạy học, phục vụ giáo xứ, hoạt động xã hội, hoặc làm việc trong bệnh viện. Thời khóa biểu hằng ngày có thể khác so với người khác. Họ thường hội họp vào buổi tối, linh mục xứ thường làm việc vào các ngày thứ Bảy và Chúa Nhật, đồng thời dành một số thời gian nghỉ ngơi trong tuần.
 Nhu cầu không thể biết trước cũng làm cho cuộc sống phong phú. Điều trung tâm này thường thỏa mãn nhu cầu của con người, dù đó là học sinh, gia đình chuẩn bị cử hành các bí tích, hoặc bệnh nhân, người lớn, người tức giận, người bị thương, người đói, hoặc tù nhân. Họ cố gắng chia sẻ cuộc sống với người khác và khám phá Đức Kitô trong công việc.
 Những người là thành viên của các dòng chiêm niệm (chuyên cầu nguyện) hằng ngày kết hợp công việc, cầu nguyện, và nghỉ ngơi. Sự khác biệt là họ dành nhiều thời gian để cầu nguyện hơn các tu sĩ và linh mục khác. Đôi khi họ tự trồng cây làm lương thực và sản xuất thứ gì đó để kiếm thu nhập – có thể là làm bánh lễ, làm nến, làm ảnh tượng, làm rượu lễ, đóng sách,… Việc cầu nguyện của họ thường là Thánh Lễ, cầu nguyện riêng (gọi là chiêm niệm), đọc sách thiêng liêng, và những giờ kinh nhật tụng (kinh của Giáo Hội, chủ yếu là Lời Chúa, Thánh Thi và Thánh Vịnh).
 2. Cầu nguyện quan trọng thế nào trong cuộc sống?
 Vì họ đã chọn đời sống tu trì, sống theo lời khuyên Phúc Âm, việc cầu nguyện phải là trung tâm của đời sống của họ. Hãy nghĩ về việc kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, giống như việc giao tiếp xảy ra giữa hai người yêu nhau. Mối quan hệ giữa họ với Thiên Chúa phải phát triển sâu sắc qua việc cầu nguyện.
 Vì cầu nguyện là việc quan trọng, nhiều linh mục và tu sĩ dành khoảng hai giờ (hoặc hơn) để cầu nguyện mỗi ngày. Điều quan trọng là việc tham dự Thánh Lễ hằng ngày. Họ cũng có những dạng cầu nguyện chính thức khác như kinh Phụng vụ và lần Chuỗi Mân Côi, hoặc đọc sách thiêng liêng và đọc Kinh Thánh. Họ cũng có những giờ cầu nguyện riêng, có thể là đọc sách đạo đức hoặc thinh lặng trước mặt Chúa. Một trong các hiệu quả của việc cầu nguyện là giúp họ nhận biết hoạt động của Chúa qua con người, các sự kiện, và đời sống hằng ngày.
 3. Cầu nguyện có dễ đối với bạn?
 Không phải lúc nào cũng dễ đâu! Ngay cả những người sống đời tu chiêm niệm cũng có lúc cảm thấy “nguội lạnh” khi giờ cầu nguyện có vẻ đơn điệu hoặc quá bình thường. Khi chúng ta có kinh nghiệm cầu nguyện, chúng ta sẽ biết cách điều chỉnh những thay đổi. Chúng ta thường phụ thuộc vào sự nâng đỡ của cộng đoàn hoặc vị linh hướng (như huấn luyện viên vậy) sẽ giúp chúng ta vẫn giữ cầu nguyện trong những lúc khó khăn. Hãy cố gắng và đừng cảm thấy phụ thuộc bất cứ thứ gì.
 4. Điều gì khác nhau giữa linh mục triều (linh mục giáo phận) và linh mục dòng?
 Thông thường, linh mục triều phục vụ Giáo Hội trong phạm vi giáo phận của mình, thường là các giáo dân ở các giáo xứ, nhưng cũng có thể liên quan nhiều dạng khác như dạy học, làm y bác sĩ, làm tuyên úy,…
 Linh mục dòng thường vượt qua giới hạn giáo phận. Họ sống khó nghèo, độc thân, và vâng lời giữa cộng đoàn. Cộng đoàn chia sẻ chung về quan điểm, tâm linh, và thường nhấn mạnh một dạng nhiệm vụ nào đó.
 5. Điều gì khác nhau giữa tu sĩ và linh mục?
 Tu sĩ là tín hữu tận hiến cho Đức Kitô qua lời khấn khó nhèo, khiết tịnh, và vâng lời. Tu sĩ sống trong cộng đoàn và làm việc phù hợp với khả năng. Họ có thể là giáo viên, nấu ăn, luật sư, kỹ thuật viên, giúp xứ,… Họ cố gắng sống đức tin bằng cách là huynh đệ của mọi người.
 Linh mục là tín hữu được giao sứ vụ cử hành các bí tích Thánh Thể, Rửa tội và Hôn phối, đồng thời đem Chúa đến với mọi người qua các bí tích Hòa giải và Xức dầu. Linh mục cũng làm nhiều việc khác nhau – thường xuyên nhất là những việc liên quan giáo xứ – nhưng đời sống bí tích phải là đặc vụ.
 6. Các dòng tu khác nhau thế nào?
 Mỗi hội dòng có một đặc sủng, một cách riêng phục vụ Giáo Hội, giúp họ tập trung vào việc hoàn tất sứ vụ trong cộng đoàn. Sứ vụ này có thể là cầu nguyện trong tu viện, cũng có thể là hoạt động nhằm hợp tác với tha nhân.
 Nhiều hội dòng chuyên về công việc trí tuệ hoặc công việc bình thường, nhưng mỗi dòng đều có điểm khác nhau. Nhiều dòng nam và nữ được thành lập trong thời gian việc đi lại và giao tiếp bị hạn chế. Một số dòng được thành lập vì mục đích riêng.
Ngày nay, các cộng đoàn mới vẫn tiếp tục hình thành để đáp lại tiếng Chúa mời gọi người ta đạt tới dạng nào đó thuộc tâm linh, cộng đoàn, và sứ vụ.
7. Phải mất bao lâu để trở nên linh mục?
 Nói chung, phải qua ít nhất 3 năm triết học và 4 năm thần học. Các chủng sinh học ở các đại chủng viện, các tu sĩ học ở các học viện, riêng của dòng hoạc liên dòng.
 8. Bạn gia nhập cộng đoàn tu thế nào?
 Quá trình gia nhập cộng đoàn tu phải mất một thời gian và qua vài giai đoạn. Thời gian có thể lâu hay mau, tùy dòng, cơ bản là:
 Liên lạc: Người quan tâm đời sống tu trì cần tìm hiểu xem Ý Chúa muốn gì nơi mình. Họ có thể tham gia chương trình tìm hiểu ơn gọi ở một dòng nào đó. Chương trình đào tạo thường linh động. Hằng tháng, họ thường gặp một linh mục hoặc một tu sĩ, được chia sẻ về kinh nghiệm cầu nguyện và đời sống cộng đoàn.
 Ứng sinh: Thời gian này giúp họ có thể tham dự vào đời sống cộng đoàn. Họ phải thể hiện sự quan tâm và và được cộng đoàn chấp nhận là thành viên trong quá trình tham gia. Ứng viên sống trong cộng đoàn khi vẫn tiếp tục học tập và làm việc. Giai đoạn này cũng giúp cộng đoàn nhận xét xem ứng viên có thể sống đời sống chung hay không. Thời gian có thể kéo dài 1 tới 2 năm.
 Tập sinh: Vào nhà tập là giai đoạn kế tiếp trong chương trình đào tạo. Giai đoạn này có thể là 1 năm, 2 năm hoặc 3 năm để chuẩn bị chính thức bước vào đời sống cộng đoàn.
 Vào nhà tập là thời gian học hỏi và cầu nguyện để biết thêm về chính mình, về cộng đoàn, và mối quan hệ với Chúa Giêsu. Cuối thời gian tập, các tập sinh chuẩn bị tiên khấn (sơ khấn, khấn lần đầu, khấn tạm).
Khấn sinh: Ba lời khấn vâng lời, khó nghèo, và khiết tịnh (thanh tuân, thanh bần, thanh khiết) có thể cho thời gian 1 năm, 2 năm hoặc 3 năm, tùy quy định mỗi dòng. Các lời khấn này có thể được khấn lại hằng năm. Thời gian khấn tạm thường là 3 năm, sau đó là vĩnh khấn (khấn trọn đời).
 Tu sĩ nào được học làm linh mục cũng phải trải qua thời gian đào tạo như các chủng sinh. Ngoài triết học và thần học, các ứng viên còn được đào tạo về Kinh Thánh, các Giáo huấn của Giáo Hội, các kỹ năng cần thiết cho sứ vụ linh mục.
 9. Các linh mục và các tu sĩ nam nữ thề hứa điều gì?
 Các tu sĩ và linh mục dòng khấn ba lời khấn, một số dòng còn thêm 1 hoặc 2 lời khấn khác nữa. Có ba lời khấn phổ biến nhất:
Nghèo khó – Mọi thứ là của chung, sống giản dị, và nhận biết mình lệ thuộc vào Thiên Chúa.
Khiết tịnh – Yêu mến Chúa, phụng sự Chúa và phục vụ mọi người, chứ không yêu người khác. Sống độc thân để minh chứng tình yêu dành cho Thiên Chúa.
Tuân phục – Sống đời sống cộng đoàn, cố gắng lắng nghe và làm theo Ý Chúa bằng cách tham dự vào mọi sinh hoạt của cộng đoàn.
 10. Linh mục triều thề hứa điều gì?
 Linh mục triều khấn giữ khiết tịnh và vâng lời giám mục (đấng bản quyền). Họ không khấn khó nghèo, nhưng họ vẫn phải cố gắng sống giải dị để có thể phụng sự Thiên Chúa qua việc phục vụ mọi người.
 11. Linh mục và tu sĩ có thể hò hẹn?
 Không thể hò hẹn yêu đương, vì mối quan hệ này sẽ dẫn tới hôn nhân, mà khấn độc thân nghĩa là không được kết hôn. Tuy nhiên, ai cũng cần có tình bạn trong sáng, những mối quan hệ cần thiết, dù là đối với nam hoặc nữ.
 12. Bạn đã bao giờ bị người khác phái hấp dẫn?
 Dĩ nhiên vẫn có! Họ vẫn có những mối quan hệ bình thường, những cảm giác và những ước muốn. Họ chọn đời sống độc thân là hướng cảm xúc của họ vào chiều hướng tốt lành. Họ phải cố gắng trung thành với lời khấn khiết tịnh qua việc cầu nguyện, kết hiệp với Đức Kitô, những tình bạn tốt đẹp,…
13. Nếu bạn yêu thì sao?
 Trách nhiệm cơ bản trong tình trạng như vậy là duy trì lời khấn của một tu sĩ hoặc linh mục. Cố gắng phát triển mối quan hệ trong giới hạn và trách nhiệm của lời khấn khiết tịnh.
 Dĩ nhiên, việc “phải lòng người khác phái” là tình huống khó khăn đối với tu sĩ hoặc linh mục. Chúng ta biết rằng các Kitô hữu vẫn phải đối mặt với những nỗi đau khổ và sự khó khăn trong cuộc sống. Không dễ để trở thành người vợ hoặc người chồng chung thủy, hoặc một người độc thân. Việc xử lý thách đố này giúp người ta mạnh mẽ hơn trong ơn gọi của mình.
 14. Bạn có phải là người trinh tiết để làm linh mục hoặc tu sĩ?
 Đây là câu hỏi phổ biến trong giới trẻ. Hoạt động tình dục trong quá khứ không ngăn cản người ta trở thành tu sĩ hoặc linh mục. Quá khứ của một người không là trở ngại chính. Nếu vậy, nam và nữ đã từng kết hôn không thể trở thành linh mục hoặc tu sĩ. Vấn đề là người đó có sẵn sàng và có thể sống mà yêu thích đời sống độc thân khi phục vụ tha nhân hay không. Một số vị thánh lớn đã từng có chọn lựa khác trước khi rẽ vào đời sống tu trì – chẳng hạn như Thánh Augustinô và Thánh Phanxicô Assisi.
 15. Tôi có thể làm linh mục hoặc tu sĩ nếu tôi có nợ riêng?
 Thường thì các giáo phận và các dòng đòi hỏi ứng viên giải quyết mọi nợ nan riêng tư trước khi đi tu. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp ngoại lệ đối với món nợ sinh viên và sẽ có chính sách đặc biệt. Nếu người đó có “lịch sử” xài hoang nên mắc nợ, nhất là liên quan thẻ tín dụng, thường thì người đó phải nghiêm túc cân nhắc mình có khả năng sống giản dị với ơn gọi tu trì hay không.
 16. Tại sao một số người mặc tu phục trắng, đen, nâu, xanh,…?
 Tu phục có thể giúp dễ nhận biết đó là biểu tượng đức tin vào Thiên Chúa và liên quan Kitô giáo. Tu phục nói lên sự đơn giản qua cách sống lời khấn khó nghèo. Một số cộng đoàn có tu phục chính, tu phục làm việc, tu phục đi ra ngoài, nhưng điều chính vẫn là thể hiện đức tin.
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ VocationNetwork.org)
Mùa Phục Sinh – 2013i

 

<tiểu mục <trang nhà

 

 
     

Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ
1900 Grand Ave - Carthage, MO 64836
Phone: ( 417) 358-7787 Fax: (417) 358-9508
cmc@dongcong.net (văn phòng CD) - web@dongcong.net (webmaster)