Suy Tư Chúa nhật và ngày thường

by Huệ Minh

 

Chúa Nhật Tuần III Mùa Phục Sinh 2019  

Cv 5, 27b-32. 40b-41; Kh 5, 11-14; Ga 21, 1-14 hoặc 1-19

LÒNG YÊU MẾN CHÚA CỦA PHÊRÔ - LÒNG YÊU MẾU CỦA CHÚNG TA

Với và qua trang Tin Mừng mà ta vừa nghe, ta nhận thấy câu chuyện đã xảy ra trên bờ hồ Tibêriade, xứ Galiêa, nơi các môn đệ đã quen thuộc với nghề đánh cá. Đây cũng là nơi các ông đã được Chúa báo trước rằng: Các ông sẽ gặp Ngài tại Galilêa.

Trang Tin Mừng (Ga 21, 1-19) thật là đẹp, đẹp về con người, vì các môn đệ tin Chúa đã sống lại ; đẹp về công việc, đi bắt cá suốt đêm không được gì, nay có mẻ lưới đầy cá; đẹp về thời gian, bởi đây là buổi bình minh của ngày thứ nhất trong tuần; đẹp về nơi chốn vì Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các ông ở trên bờ (Ga 21,4).

Nhìn lại theo nhiều nhà chú giải thì mẻ cá lạ lùng này chính là một hình ảnh tượng trưng cho Giáo Hội. Thực vậy, các môn đệ theo lời Chúa chỉ dạy đã hoạt động và ngay khi không có chút hy vọng gì thì cũng vẫn có thể quy tụ mọi người từ mọi nơi thành một cộng đoàn duy nhất, vì các ông đã làm theo lời Đấng đã sống lại. Con số 153 con cá được đưa ra ở đây cũng có thể góp phần làm nổi bật ý tưởng trên. Theo thánh Hiêrônimô thì các nhà động vật học hồi xưa phân biệt được 153 loại cá. Do đó con số này tượng trưng cho tất cả mọi thứ cá trong biển. Và như thế, dưới cái nhìn của các nhà chú giải thì mẻ lưới của các tông đồ sẽ quy tụ toàn thể gia đình nhân loại để làm thành một cộng đoàn duy nhất.

Suốt đêm hôm ấy các ông đã vất vả và cực nhọc mà chẳng đánh bắt được gì. Sáng đến, theo sự chỉ dẫn của một người lạ mặt trên bờ hồ, các ông đã đánh được một mẻ cá lớn. Mẻ cá lạ lùng này đã giúp các ông nhận ra Chúa Giêsu, Thầy của các ông. Người nhận ra Chúa đầu tiên cũng chính là Gioan, vị môn đệ được Ngài yêu thương.

Phêrô và các môn đệ khác đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào, thế nhưng vào ban sáng, vâng theo lệnh truyền của Chúa, các ông đã thả lưới một lần nữa và đã có được một mẻ cá lạ lùng.

Điều kỳ lạ ở đây, xét cho cùng, chưa phải là mẻ lưới đầy cá. Điều kỳ diệu ở đây chính là các tông đồ hôm nay đã trở thành những con người khác rồi. Mới cách đây ít bữa, các ông ấy, nói chung, còn là những con người nhút nhát, thô thiển, mộc mạc lắm. Thế mà, hôm nay thật đường hoàng, dõng dạc, ung dung trước Công nghị Do Thái. Công nghị ấy, đến ông Giêsu nó còn giết được, cỡ như ông Phêrô và các bạn ông, nó coi ra gì.

Và rồi ta thấy Gioan là người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu, phải chăng đó là do động lực của tình yêu? Còn Phêrô là người đầu tiên nhảy xuống biển để tiến đến với Chúa, phải chặng đó là do động lực lòng hăng say nhiệt thành? Còn Chúa Giêsu thì đã cẩn thận dọn bữa cho các ông, như cho những người con yêu dấu.

Một chi tiết hay là sau khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong, Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để trao cho ông sứ vụ mới: "Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?". Thật tình, ông rất ngượng ngùng vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người lại hỏi ông có yêu mến Thầy không? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả là rất khó khăn; hơn nữa. Người lại hỏi tới ba lần! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại lời Chúa nói trước đây: "Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn". Vâng, Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn ông từ trên dinh thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.

Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội: "Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy". Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy".

Từ đó, Phêrô đích thực trở nên thủ lãnh của Giáo Hội, chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Phêrô đã chịu đóng đinh trên thập giá, để giữ vững niềm tin cho đoàn chiên, và để yêu thương đoàn chiên cho đến cùng, yêu "Như Thầy đã yêu".

Trong lần hiện ra này, Chúa Giêsu một lần nữa muốn thẩm định lại tình yêu và lòng trung thành của Phêrô trước khi trao phó hoàn toàn cho ông quyền dẫn dắt đòan chiên của Chúa. Chúa Phục sinh đã hỏi Phêrô đến ba lần: Simon con ông Gioan, con có yêu mến Thày hơn những người này không? Chúa Giêsu đã không đặt cho ông một điều kiện nào, không đòi ông phải có khả năng hay trình độ, mà Chúa chỉ muốn ông công khai bày tỏ lòng yêu mến của ông đối với Chúa.

Lòng có yêu mến Chúa, đương nhiên sẽ yêu mến anh chị em của mình, vì đó là Luật yêu thương của Chúa, nên có yêu Chúa thì Ngài mới cho chúng ta sức mạnh của Ngài mà gánh vác, mà chịu đựng, mà giữ vững được lòng tin cho đến trọn đời!?. Bởi nếu chúng ta không có sức và ơn Chúa ban thì tất cả chúng ta đây chẳng làm được việc gì cho nên!? Và ông Phêrô là một con người rất trung trực đã được Chúa Giêsu tuyển chọn để thay thế Ngài mà chăn dắt cả chiên mẹ lẫn chiên con của Thầy. Ông đã được Chúa tuyển làm Đầu của Hội Thánh từ thời tiên khởi và Hội Thánh ấy đã kiên cố, người theo càng ngày càng đông đảo, vững mạnh, và nổi bật của mọi thời đại, và cho đến ngày hôm nay.

Tiếc thay cho những ai không hiểu được một điều thật đơn giản là Một Giáo Hội vững mạnh và duy nhất của Thiên Chúa đã được hình thành từ thời Chúa Giêsu, rồi được trao phó cho ông Phêrô, và những người kế vị sau này; chúng ta gọi các ngài là Đức Giáo Hoàng. Mọi hội thánh khác có hình thức hao hao giống, tất cả đều là được biến đổi để phù hợp cho một lối sống thiếu đạo đức, rối đạo, thiếu sự khiêm nhường, thiếu đức bác ái, và nhất là không biết sống hy sinh, và không hiểu thế nào là đi con đường Thập Giá của Chúa.

Khi được hỏi đến ba lần phêrô cũng cảm thấy buồn, ông buồn không phải vì nghĩ rằng Thày không tin ông, nhưng ông buồn vì mỗi lần trả lời là mỗi lần ông biết rõ nhất về con người của mình, để ông không còn cậy dựa vào khả năng riêng của mình nữa, mà ngay cả đến tình yêu của ông đối với Chúa, ông cũng chỉ dám khiêm tốn để trài lòng ra với Chúa: Lạy Thày Thày biết mọi sư, Thày biết con yêu mến Thày. Trước sư khiêm tốn của ông Simon, Chúa Giêsu đã hoàn toàn tin nhiệm và tuyên bố: Con hãy chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Thày, tức là Simon có bổn phận không chỉ chăm lo cho những chiên con mà còn chăm lo cho cả các chiên mẹ và tất cả đều là chiên của Thầy chứ không phải là chiên của Phêrô.

Điều ta cần ghi nhận là vị trí tối thượng của Phêrô được đặt trên tình yêu tối thượng của ông đối với Đức Giêsu, bởi vì Người chỉ giao nhiệm vụ chăn chiên sau khi đã hỏi Phêrô là có yêu thương Người hơn những môn đệ khác không. Nơi ông, tình yêu đối với Đức Giêsu càng sống động, thì bản thân ông càng mất tầm quan trọng, ông càng phải săn sóc những ai được giao phó cho ông, ông phải dẫn họ đến với Đức Giêsu và giữ cho họ kết hợp với Người. Đức Giêsu hỏi Phêrô ba lần là ông có yêu mến Người không. Phêrô không khẳng định mạnh để trả lời; ông nhắc lại rằng, Đức Giêsu biết, và ông tuyên xưng chính tình yêu của ông. Lần thứ ba, ông buồn, vì ông nhớ lại chuyện chối Đức Giêsu ba lần. Nhưng Đức Giêsu đã tha thứ cho ông rồi. Bây giờ, khi ông đã trải nghiệm tối đa sự yếu đuối của bản thân, thì Đấng Phục Sinh giao phó nhiệm vụ mục tử cho ông. Lần thứ ba, ông trả lời thẳng thắn, ông không thể che đậy gì với Chúa, vì ở với Người, mọi chuyện được bảo đảm.

Nếu trước đây, ông đi theo Chúa để được thụ giáo với Người, thì bây giờ, ông theo Chúa để trở thành hiện thân của Người giữa thế gian. Có Chúa ở với ông, nên ông trở nên mạnh mẽ và can đảm. Đứng trước thày Thượng tế, Phêrô và các tông đồ đã khẳng khái tuyên bố: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa cha ông chúng ta đã cho Đức Giêsu sống lại, Đấng mà các ông đã giết và treo Người trên thập giá”. Khi bị đánh đòn, các ông lại “hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” Bài đọc I). Cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu đã giúp các ông có thêm nghị lực và nhiệt huyết để làm chứng về Người. 

Chúa Phục sinh hiện đến và cho Phêrô một cơ hội chuộc lại lỗi lầm. Sau khi đã cho các ông một mẻ lưới đầy cá và cùng ngồi ăn uống với các ông, Chúa đòi Phêrô phải công khai nói lên tình yêu của mình với Thầy Chí Thánh trước mặt các môn đệ khác. Chúa hỏi Phêrô con ông Giona, "con có yêu mến Thầy không?". Câu hỏi được lập lại ba lần như cơ hội cho Phêrô chuộc lại lỗi lầm vì tội ba lần chối Chúa. Chúa đã cho Phêrô cơ hội để nói lên lòng mình yêu mến Chúa. Chúa còn trao trọng trách cho Phêrô chăn dắt đàn chiên của Chúa, như dấu chỉ sự tín nhiệm mà Chúa đã ưu ái dành cho ông.

Và rồi cuộc đời của chúng ta đôi khi cũng giống như Phêrô năm nào. Đã nhiều lần chúng ta chối Chúa, bỏ Chúa để chạy theo danh lợi thú trần gian. Đã nhiều lần chúng ta xúc phạm tới tha nhân trong lời nói và hành động. Và chắc chắn cũng có nhiều lần chúng ta bị mặc cảm vì những hành động tội lỗi của mình. Chúa vẫn tha thứ cho chúng ta. Chúa vẫn tạo cho chúng ta rất nhiều cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa vẫn muốn trao cho chúng ta rất nhiều trọng trách trong việc hướng dẫn anh em. Dù rằng chúng ta không xứng đáng. Dù rằng chúng ta vẫn còn đó bản tính xác thịt yếu đuối. Chúa không muốn chúng ta mãi mãi sống trong mặc cảm tội lỗi, nhưng hãy chuộc lại lỗi lầm, hãy hết mình phục vụ cho danh Chúa được cả sáng trên trần gian.

Huệ Minh 2019

 

CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH 2016

Cv 5, 27b-32. 40b-41; Kh 5, 11-14; Ga 21, 1-19

DÙ CÓ CHỐI NHƯNG HÃY YÊU PHÊRÔ !

 

Mặc dầu trước mặt Thiên Chúa, Đức Giêsu phục sinh là Đấng đầy tràn vinh quang, tuy nhiên đối với Giáo hội trên trần gian, Người lại muốn hiện diện một cách khác: Người muốn tỏ ra là một người bạn rất gần gũi với tất cả mọi người, gần trong mọi cảnh sống của con người. Và rồi, trong những khoảnh khắc sống đó, các môn đệ bất chợt nhìn ra Thầy của mình.

Trang Tin Mừng vừa nghe, ta thấy câu chuyện đã xảy ra trên bờ hồ Tibêriade, xứ Galiêa, nơi các môn đệ đã quen thuộc với nghề đánh cá. Đây cũng là nơi các ông đã được Chúa báo trước rằng: Các ông sẽ gặp Ngài tại Galilêa. Ta dừng lại những chi tiết thật đơn sơ trong bài Tin mừng hôm nay, để nhận ra sự hiện diện rất gần gũi thân thương của Đấng Phục Sinh.

          Thật ra, cả đêm các môn đệ quá vất vả để đánh cá suốt đêm trên biển hồ Tibêria nhưng kết quả là không bắt được con cá nào cả. Khi Đức Giêsu hiện đến, Ngài đã giúp họ vượt qua. Ngài rất gần gũi, Ngài thăm hỏi như một người bạn có sự quan tâm và khi thấy họ gặp khó khăn: “Này các chú, không có gì ăn ư?” (Ga 21, 5b). Nói cách khác, có thể diễn giải: Thầy đói rồi, có cái gì cho Thầy ăn không?

          Suốt cả đêm vật vả nhưng không có gì. Quả là quá chuyên nghiệp nhưng không có con nào cũng là điều dễ hiểu với tâm trạng đầy thất vọng. Cái biển mà các ông thả cá đêm qua dường như các ông quen đến độ từng con sóng. Đến sáng, theo sự chỉ dẫn của một người lạ mặt trên bờ hồ, các ông đã đánh được một mẻ cá lớn. Mẻ cá lạ lùng này đã giúp các ông nhận ra Chúa Giêsu, Thầy của các ông. Người nhận ra Chúa đầu tiên cũng chính là Gioan, vị môn đệ được Ngài yêu thương.

Sau khi sống lại, qua các lần hiện ra dọc theo Tin Mừng ta cũng đã bắt gặp thái độ này của Chúa Giêsu khi Ngài hiện ra với bà Maria Mađalêna. Ngài hiện diện như một người làm vườn và thăm hỏi khi thấy nỗi khổ của người khác: “Này bà sao bà khóc?” (Ga 20, 13) Bà tìm ai? Còn đối với hai môn đệ trên đường Em-mau thì sao? Vẫn thần thái đó, vẫn cách thức đó, Ngài hiện diện như một khách hành hương và đồng cảm với những suy nghĩ lo lắng hoang mang của họ: “Các ông vừa đi vừa nói những chuyện gì vậy ?”  (Lc 24, 17).

Ta lại thấy một chi tiết rất thân tình và đơn sơ trong trang Tin mừng hôm nay. Ngài hiện đến như một người đồng nghiệp, quan tâm đến sự thành công hay thất bại của bạn hữu mình. Khi các môn đệ gặp thất bại : “suốt đêm ấy họ không bắt được gì cả” ( Ga 21, 3b), thì Người gợi ý: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”( Ga 21, 6a)

Đức Giêsu phục sinh vẫn hiện diện và có đó. Ngài hiện diện một cách rất gần gũi trong cuộc đời của ta, khi ta lao động vất vả và nhất là chịu đựng những thất bại. Chúa hiện diện để thông cảm với những khó nhọc của chúng ta và đôi khi, Ngài tìm cách để giúp ta tháo gỡ những khúc mắc mà chính ta không tài nào thoát ra được.

Noi gương các tông đồ, ta phải biết lắng nghe để nhận ra ý Chúa và thực thi mau mắn. Các ngài đã làm theo gợi ý của Chúa, nên các Ngài đã thành công: “các ông thả lưới xuống , nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” (Ga 21, 6b).

Sau khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong, Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để trao cho ông sứ vụ mới: "Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?".

Thật tình, ông rất ngượng ngùng vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người lại hỏi ông có yêu mến Thầy không? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả là rất khó khăn; hơn nữa. Người lại hỏi tới ba lần! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại lời Chúa nói trước đây: "Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn".

Và rồi ta thấy nét đẹp là Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn ông từ trên dinh thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.

Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội: "Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy". Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy".

Cuộc đời của chúng ta đôi khi cũng giống như Phêrô năm nào. Đã nhiều lần chúng ta chối Chúa, bỏ Chúa để chạy theo danh lợi thú trần gian. Đã nhiều lần chúng ta xúc phạm tới tha nhân trong lời nói và hành động. Và chắc chắn cũng có nhiều lần chúng ta bị mặc cảm vì những hành động tội lỗi của mình. Chúa vẫn tha thứ cho chúng ta. Chúa vẫn tạo cho chúng ta rất nhiều cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa vẫn muốn trao cho chúng ta rất nhiều trọng trách trong việc hướng dẫn anh em. Dù rằng chúng ta không xứng đáng. Dù rằng chúng ta vẫn còn đó bản tính xác thịt yếu đuối. Chúa không muốn chúng ta mãi mãi sống trong mặc cảm tội lỗi, nhưng hãy chuộc lại lỗi lầm, hãy hết mình phục vụ cho danh Chúa được cả sáng trên trần gian.

Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà tha thứ cho nhau. Hãy tạo cho nhau những cơ hội để sửa lại lỗi lầm. "Ai nên khôn mà không dại một lần". Ai cũng cần tình yêu để sống và cần sự tha thú để tồn tại. Vì vậy, chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau và giúp nhau hoàn thiện con người của mình.

 

Thứ Hai Tuần III Mùa Phục Sinh 

Cv 6, 8-15; Ga 6, 22-29

ĐỪNG XÔI THỊT VỚI CHÚA NỮA

Trang Tin mừng hôm nay dường như cũng muốn nhắc nhở con người nhân thế về sự lạc hướng ấy. Đám đông tụ tập bên Chúa Giêsu để được ăn uống thỏa thích là hình ảnh của một nhân loại đang đi lạc hướng.

Và cũng chính đám đông được Chúa Giêsu cho ăn no nê ngày hôm trước, ngày hôm sau vẫn còn đứng bên kia bờ Biển hồ. Chúa Giêsu đã đọc được động lực thúc đẩy họ tìm kiếm Ngài, họ đã đi tìm kiếm Ngài không phải vì Ngài là đối tượng của khát vọng tìm kiếm của họ, mà chỉ vì đã được Ngài cho ăn no nê; họ đi tìm kiếm không phải vì đã nhận ra ý nghĩa của phép lạ nhân bánh và cá ra nhiều; họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì chính Ngài đã mang lại ý nghĩa và giá trị cho cuộc sống của họ; họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì giáo huấn của Ngài; họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì những giá trị cao quí của cuộc sống mà Ngài đến để bày tỏ. Cái đám đông ấy bị lôi kéo bởi những cái hời hợt, nhất thời và chóng qua là cơm bánh. Ðây chính là bi kịch đã xảy ra cho Chúa Giêsu. Ðám đông đã khước từ Ngài và treo Ngài lên thập giá chỉ vì họ đã không hành động theo những xác tín thâm sâu thể hiện trên đạo lý, trên tiếng gọi của lương tâm, mà chỉ sống theo cảm tính và những xu thế mù quáng. Ðây cũng chính là nguy cơ mà người tín hữu Kitô có thể rơi vào.

Dừng lại một chút, ta thấy bất cứ thời đại nào, đám đông cũng có thể là một sức mạnh mù quáng, hành động thiếu suy nghĩ và bị lôi cuốn bởi những dòng chảy của sự dữ. Trước khi bị các thượng tế và tổng trấn Philatô kết án, Chúa Giêsu đã bị chính đám đông kết án. Cái đám đông đã từng tung hô Ngài trong ngày Ngài khải hoàn tiến vào Giêrusalem, cũng cái đám đông ấy gào thét, đòi đóng đinh Ngài vào thập giá. Bi kịch ấy dường như được thánh Gioan báo trước qua đoạn Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe và suy niệm hôm nay.

Sau khi chứng kiến phép lạ bánh hóa nhiều, khi đám đông định tôn Đức Giêsu lên làm vua, chắc họ đã nghĩ đến sự bảo đảm về mặt vật chất mà Ngài mang lại. Lúc nào cũng có bánh ăn no nê, đó là ước mơ của nhiều người nghèo thời ấy. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối đứng lên khởi nghĩa giành độc lập. Ngài không phải là một Mêsia làm chính trị. Bánh và cá mà Ngài giúp họ tạm thời vượt qua cơn đói chỉ là thứ lương thực mau hư nát dành cho xác thân (c. 27). Lương thực đó là dấu chỉ cho một thứ lương thực khác Ngài sắp ban. Đó là lương thực thường tồn đem lại sự sống vĩnh cửu (c. 27). Hẳn nhiên, lương thực sau này quan trọng hơn nhiều. 

Với cung cách sống và cái nhìn của Mẹ Têrêsa Calcutta, người nghèo hôm nay cần cơm bánh, nhưng còn cần những thức ăn tinh thần khác nữa. Cái đói của thân xác không cồn cào bằng cái đói tinh thần. Con người đói công bằng và hạnh phúc, đói yêu thương và kính trọng. Con người khát niềm vui và bình an, cảm thông và sự thật. Trong nơi sâu thẳm, con người đói khát Ai đó để mình yêu mến tôn thờ. Đức Giêsu mời ta hãy tin vào Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến (c.29). Hãy đến với Giêsu để bắt đầu được nếm thử tấm bánh của Ngài, vì chính Ngài là Tình yêu, Sự thật và Bình an.

Và ta thấy Chúa Giêsu không đến thế gian để mang lại một cây đũa thần cho nhữg vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của con người. Ngài đến để cho con người được sống và sống hạnh phúc thực sự. Sự sống và hạnh phúc ấy chính là nhận biết và yêu mến Ngài trên hết mọi sự, Chỉ có Thiên Chúa mới thỏa mãn mọi khát vọng trong tâm hồn con người, chỉ có Ngài mới đem lại cho con người hạnh phúc trọn hảo.

Ta thấy Chúa Giêsu sẽ vui mừng vì dân chúng đã lặn lội đi tìm kiếm Ngài như vậy. Và họ không dấu nỗi sự khao khát của mình, nên khi thấy Ngài ở bên kia Biển Hồ, họ liền hỏi “ Thầy đến đây bao giờ vậy ?” ( c.25 ). Thế nhưng rồi khi đọc đến đây, chúng ta thầm nghĩ rằng Chúa Giêsu đã thành công trên bước đường loan báo Tin Mừng. Lời nói và hành động của Ngài đã cảm hoá được dân chúng và bây giờ họ đang đói khát “ lời” Ngài. Nhưng khi nghe Chúa Giêsu trả lời họ, chúng ta cảm như chưng hửng về cách đáp trả của Ngài sao hững hờ, lạnh nhạt và có vẻ “ xóc óc” thế. Ngài quả quyết và xác định cách chắc chắn : “ Thật, tôi bảo thật...”. Ngài vạch rõ tâm lòng của con người chỉ đi tìm những thứ vật chất vô bổ, có lợi cho thân xác hư hèn, làm no thoả cái bụng hay cho sướng con mắt, “ các ông đi tìm tôi, vì các ông được ăn bánh no nê...” ( c. 26 ). “ chứ không phải là các ông thấy dấu lạ”. Với lý lẽ sắc bén, Ngài  “ khai quật” cõi lòng của con người chỉ nghiêng về vật chất tầm thường mà không chú ý đến những gì là sâu thẳm trong thâm tâm : đó là tương quan với Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đã vạch và chỉ rõ cho họ những gì phải làm : “ hãy ra công làm việc...để có lương thực thường tồn, đem lại phúc trường sinh”. Lương thực thường tồn ở đây là “ thứ lương thực Con Người sẽ ban, vì Con Người được Chúa Cha xác nhận” Chúa Giêsu bắt đầu khai mở cho họ về một sự thật : Chính Ngài là Bánh, là thứ lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh. Chính Ngài sẽ là của ăn, của uống cho con người, để con người có được cái diễm phúc gọi Thiên Chúa là Cha và được chia sẻ vinh quang với Thiên Chúa. Không phải dân chúng không hiểu những từ “ lương thực”, “ Con Người” mà Chúa Giêsu nói đến đâu ? Họ hiểu, hiểu đúng là đằng khác.

Và rồi họ đã hỏi Chúa Giêsu : “chúng tôi phải làm gì để thực hiện điều Thiên Chúa muốn ?” . Chúa Giêsu chỉ đợi đến lúc này và điểm nút đã được tháo cởi : “ Hãy  tin vào Đấng Người sai đến”. Đây chính là điểm then chốt của Tin Mừng và cùng là đỉnh cao của Thập Giá, Dân chúng không tin, không chấp nhận Chúa Giêsu, không đón nhận giáo lý của Ngài...và đã ghép cho Ngài bao nhiêu là tội danh “ phạm thượng”, chỉ vì muốn bảo vệ sự tinh tuyền mà họ gọi là “ giáo lý” của họ. Chúa Giêsu càng chứng minh qua phép lạ, qua lời nói, qua cử chỉ hành động tình thương, thì họ lại càng ghen ghét, căm phẩn và oán hận, đến độ giết chết Ngài, để khử trừ “ một kẻ gây rối” đời sống đạo đức của họ.

Mùa Phục sinh, Giáo hội luôn mời gọi ta ý thức về sức sống thần linh đang châu lưu trong tâm hồn ta. Sống giữa thế gian, nhưng ta không thuộc về thế gian đó là chỗ đứng của ta trong trần thế này. Mưu cầu cuộc sống tạm bợ nhưng ta luôn hướng về trời cao, bôn ba về của cải vật chất, nhưng không quên gắn bó với những giá trị Nước Trời như công lý, hòa bình, tình huynh đệ, lòng bác ái.

Và trong mọi hoàn cảnh và mọ sự, ta phải luôn nhớ lời khuyên của Phaolô: “Anh em hãy tưởng nghĩ đến những sự trên trời”. Một cách cụ thể, ta tìm kiếm và xây dựng Nước Trời ngay giữa thực tại trần thế, bằng cách không bán rẻ lương tâm vì một chút lợi lộc chóng qua, không chối bỏ hình ảnh cao quí của Chúa nơi bản thân, không chà đạp nhân phẩm người anh em. Trong mọi sự ta luôn tìm kiếm Chúa như gia nghiệp duy nhất đời ta.

Ta lãnh nhận đức tin trong một cộng đồng và ta sống và thể hiện đức tin trong một cộng đồng. Chúng ta cần có một đám đông nào đó để nâng đỡ niềm tin của chúng ta. Tuy nhiên, cái đám đông ấy cũng dễ lôi kéo và biến việc thể hiện đức tin của chúng ta thành một lối giữ đạo hình thức và máy móc. Ðạo dễ trở thành một chuỗi biểu dương bên ngoài hơn là một cuộc gặp gỡ thâm sâu giữa tha nhân và Chúa. Ðạo sẽ chỉ còn là những bó buộc và nghĩa vụ mà đám đông thôi thúc để tuân giữ hơn là được thực thi vì xác tín và lòng mến

            Một khi còn sống trong thân xác này, con người bất kể thời đại nào cũng không tránh khỏi những lo lắng về cơm, áo, gạo, tiền, hay danh, lợi, thú… Con người cứ mải tìm kiếm những điều đó dù ở bất cứ đâu, và bằng bất cứ giá nào. Ngay cả việc tìm đến với Chúa cũng có thể vì những lý do thực dụng này. Nhìn lại chính bản thân và tự hỏi xem, tôi tìm kiếm Chúa với mục đích gì? Vì lương thực chóng qua hay trường tồn, cho thể xác hay linh hồn, cho sự sống chóng qua đời này hay sự sống bất diệt mai sau?

 

Thứ Ba Tuần III Mùa Phục Sinh 

Cv 7, 51-59 (Hl 7, 51 - 8, 1); Ga 6, 30-35

ĐỪNG VÌ CỦA ĂN HAY HƯ NÁT

            Thiên Chúa hằng yêu thương chăm sóc dân Người. Hành trình dân Israel tiến về Đất Hứa là thời gian đầy thử thách nhưng cũng là chuỗi ngày ân phúc. Nơi hoang mạc khắc nghiệt và thiếu thốn, Thiên Chúa quan phòng ban cho dân thức ăn là manna và chim cút; nuôi dân bằng nước từ tảng đá chảy ra (Xh 16 - 17); cho cột mây dẫn đường ban ngày và cột lửa soi sáng ban đêm (Xh 13, 21).

Tình thương của Thiên Chúa với Dân Ngài đạt đến đỉnh cao nơi Đức Giêsu - Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu chạnh thương đoàn dân đang kiệt sức, đói lả vì đi theo Người. Ngài đã hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê (Ga 6, 1-15). Đức Giêsu thêm sức cho họ không chỉ về thể xác mà còn tinh thần, khi Ngài khẳng định: Ngài là Bánh Hằng Sống và đem lại sự sống cho thế gian (Ga 6 ,33). Hôm nay, Đức Kitô cũng đang yêu thương, săn sóc từng người chúng ta khi trao ban chính Mình Máu Ngài cho nhân loại.

Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy qua những nhu cầu vật chất đời thường, Đức Giêsu mời gọi con người tin và đón nhận Ngài như thần lương nuôi sống linh hồn để đạt được sự sống đời đời, sự sống vĩnh cửu không bao giờ hư mất.

Con người ta thường hiếu kỳ, thích dấu lạ (c. 30). Chẳng phải chỉ những người đương thời Đức Giêsu mà người thời nay cũng thế, mỗi khi nghe ở đâu có sự lạ là người ta ùn ùn kéo đến; lắm khi phải vượt đường xa vạn dặm, tốn tiền, tốn của, người ta cũng vẫn sẵn sàng để được chứng kiến dấu lạ, mà thường khi họ lại chẳng thấy gì hết. Do đó, việc hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng của Đức Giê-su là sự lạ khá hấp dẫn đối với người Do-thái đương thời; bởi chẳng phải cũng vì cơm bánh mà người ta phải lao tâm khổ trí, vất vả nhọc nhằn đó sao.

Họ liên tưởng đến tổ tiên họ đã được ăn manna – bánh từ trời rơi xuống; và sự kiện này xem ra còn kỳ diệu hơn cả phép lạ Đức Giê-su đã làm. Họ chất vấn Đức Giêsu: “Ông sẽ làm gì đây?” Theo người Do Thái thì một ngôn sứ đích thật phải làm được dấu lạ nào đó cho họ tin. Ở đây, họ muốn so sánh Đức Giêsu với ông Môsê; Mô-sê đã cho tổ tiên họ manna, còn Đức Giêsu, Ngài làm được gì? Câu hỏi dường như có ngầm ý khích Đức Giêsu tỏ uy quyền của Ngài và làm cho họ những cái lời lớn hơn.

Đức Giêsu cho người Dothái biết không phải ông Mô-sê cho họ bánh bởi trời mà chính Thiên Chúa ban cho họ; Bánh manna thực sự chỉ là một tiên báo về Đức Giêsu – bánh đích thực Thiên Chúa sẽ ban cho con người. Con người nhắm vào vật chất, nhưng Đức Giêsu muốn đưa người ta lên cao hơn, đó là đời sống đức tin. Thánh Phaolô thường khẳng định: “Nhờ tin mà anh em được cứu độ” (Ep 2,8).

Từ lương thực chóng hư nát của cuộc đời, Đức Giêsu hứa ban lương thực không bao giờ hư nát là chính mình Người (c. 35). Tuy nhiên với đầu óc u mê, cặp mắt thiển cận, người ta chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt mà không nhìn thấy cái lợi trăm vạn lần hơn, đó là được chính Thiên Chúa. Người ta chỉ quan tâm đến nhu cầu của thân xác hay chết mà ít quan tâm đến nhu cầu tinh thần, nhu cầu đem đến sự sống muôn đời cho con người.

Đức Giêsu chính là bánh hằng sống từ trời xuống, ai tin và đón nhận Ngài sẽ không hề phải đói khát bao giờ (c .35). Đến với Đức Giêsu, chúng ta sẽ có lương thực nuôi sống linh hồn; Ngài sẵn sàng ban cho chúng ta Lời của Ngài, như kim chỉ nam dẫn lối và thân thể Ngài như của ăn để chúng ta tiến bước về quê hương đích thật. Có Ngài cùng đồng hành trong cuộc sống chúng ta chẳng còn phải lo lạc lối hay đói khát tinh thần.

Trong cuộc sống lắm khi những nỗi vất vả và lo toan làm chúng ta quên Chúa; nhưng Đức Giêsu, Ngài đã nói: “Hỡi những ai vất vả gồng gánh nặng nề, hãy đến với ta, ta sẽ nâng đỡ và  bổ sức cho các ngươi”. Con người đói khát thể lý đã bi thảm, nhưng con người đói khát tinh thần càng vạn lần bi thảm hơn. Hầu hết những đau khổ của con người từ vật chất đến tinh thần đều có nguyên nhân từ việc đói khát tinh thần mà ra. Thế giới ‘vắng bóng’ Thiên Chúa, thì trở thành tranh dành, hận thù, ích kỷ, huynh đệ tương tàn, con người không có Thiên Chúa, trống vắng tâm linh thì dầu cho có lắm của cải vật chất, địa vị, danh vọng… cũng không bao giờ thỏa mãn được.

Đức Giêsu lại lần nữa phải xác quyết với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian." Ông Mô-sê chỉ là thừa lệnh của Thiên Chúa, là lợi khí mà Thiên Chúa đã dùng để nói và làm cho dân chúng.

Quả thật, chính Thiên Chúa mới là ân sủng thật, mới là bánh thật cho con người. Man-na chỉ là một cách cụ thể để diễn tả ân sủng thâm sâu qua nó, chứ bản thân man-na không phải là ân sủng, nó chỉ là vật chất mà ân sủng, tình yêu của Thiên Chúa mang lại. Quả vậy, những hình ảnh trong Tin Mừng Gioan luôn mang hai ý nghĩa: nghe tới “đói” phần xác thịt thì phải nghĩ tới cơn đói tinh thần, thấy thức ăn vật chất thì hãy nghĩ tới thức ăn tinh thần. Bánh hóa nhiều, chỉ là cách mà qua đó Đức Giêsu muốn nói về một thứ thần lương khác chính là “Bánh sự sông”, chính là thân thể của chính Ngài. "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”.

Dân chúng chỉ có thể đón nhận thần lương ấy khi và chỉ khi bản thân họ có một niềm xác tín, phép lạ chẳng thể xáy ra, nếu người “đói khát” ấy không có một lòng tin mạnh mẽ vào thiên chúa. Ngày nay chúng ta cũng vậy, thường hay để ý đến những sự kiện, những dấu chỉ là thường mà ân sủng Chúa mang lại như được khỏi bệnh, được tai qua nạn khỏi các tỏ tường mà ít khi nhớ đến chiều kích thánh thiêng bên trong ngang qua những dấu chỉ lạ thường ấy. Thay vì ta tín thác hơn nơi Chúa, qua các dấu lạ từ anh chị em được Thiên Chúa ban, thì chính ta lại bị mê hoặc bởi những dấu chỉ bề ngoài ấy và tôn sùng “người” được Thiên Chúa sử dụng để thông ban ân sủng.

            Trên thế giới ngày nay, ta thấy hàng triệu người vẫn đang sống trong cảnh nghèo khổ. Người ta không chỉ túng thiếu cơm bánh mà còn thiếu thốn tình thương, chân lý. Những đói khát tinh thần nhiều khi còn khắc khoải hơn cơn đói thể lý. Do đó, lời xác quyết của Đức Giêsu: "chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ" (Ga 6,35) mang lại cho chúng ta niềm an ủi và sự bảo đảm vững chắc. Thánh Thể - Bánh Hằng Sống là món quà vô giá Thiên Chúa ban tặng cho con người.

Nhờ và với Thánh Thể, những khát vọng sâu thẳm nhất, thiêng liêng nhất của con người sẽ được thỏa mãn, bởi Đức Kitô là suối nguồn bình an và hạnh phúc. Nơi Thánh Thể, con người học được bài học yêu thương, phục vụ và sẻ chia. Lúc này, Đức Giêsu cũng đang mời gọi tôi chia sẻ bánh tình yêu Giêsu cho anh chị em kém may mắn hơn; nhờ đó cuộc sống này sẽ ngày một tươi đẹp hơn.

Ngày hôm nay, mỗi người chúng ta tự vấn lương tâm xem thử trong cuộc sống chúng ta đặt niềm tin nơi đâu? Nơi của cải vật chất, danh vọng địa vị… hay nơi Đức Giê-su Ki-tô – con Thiên Chúa, Đấng đem ơn Cứu độ và sự sống đích thật, sự sống thần linh cho con người. Thiết tưởng nếu chúng ta chỉ chăm lo đến cuộc sống tạm bợ, nay còn mai mất mà không quan tâm đến cuộc sống vĩnh cửu thì còn gì ngu dại bằng.

Và trong lắng đọng, ta xin Thiên Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta, để trong mọi hoàn cảnh cuộc sống chúng ta biết chạy đến với Ngài, cậy dựa vào Ngài. Xin cho chúng ta biết quí trọng, yêu mến, và năng lãnh nhận Thánh Thể Chúa, để chúng ta có thêm sức mạnh vượt qua những cam go thử thách trong hành trình tiến về quê hương đích thật là nước trời.

Thứ Tư Tuần III Mùa Phục Sinh 

Cv 8, 1-8; Ga 6, 35-40

NHÌN LẠI NHU CẦU CHÍNH YẾU

Nhu cầu thiết yếu để tồn tại của sinh vật trên trái đất chính là ăn uống. Từ thời hoang sơ khi con người chưa biết đến sách vở, chưa biết đến ti vi, hon đa, xe hơi, vi tính… thì con người đã biết làm sao để sinh tồn, đấu tranh để sinh tồn – đó chính là tìm kiếm lương thực để ăn. Do đó cơm bánh là nhu cầu thể lý thiết yếu để con người có thể sống.

Con người có thể thiếu sách vở, thiếu ti vi, thiếu hon đa; con người có thể không xem phim, không có những phương tiện giải trí đủ loại; nhưng con người không thể không có cơm bánh. Vì vậy Đức Giê-su đã ví Người là ‘Bánh’ – Bánh trường sinh – Bánh ban sự sống đời đời –  cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của Ngài trong cuộc sống chúng ta. Cũng như sự sống thể lý con người cần cơm bánh, thì trong lãnh vực đời sống tâm linh chỉ Đức Giê-su mới thỏa mãn được cơn đói khát của con người; và chính đời sống tâm linh là yếu tố chi phối toàn bộ đời sống con người - nếu đời sống tâm linh sung mãn thì cuộc sống con người mới thực sung mãn.

Và rồi truyền thống Kitô giáo thường nhấn mạnh tâm điểm của mạc khải chính là Lời Thiên Chúa, nhập thể trong thế giới lịch sử, vào một Ngôi Vị, “đã thành xác phàm” (Ga 1, 14) để có thể gặp gỡ trọn vẹn và tự hiến làm của ăn “bởi trời” cho nhân loại trong biến cố Thánh Thể.

Ta biết rằng Thánh Thể được thiết lập vào đêm Đức Giêsu bị trao nộp, trong khung cảnh của Bữa Tiệc cuối cùng với các môn đệ thân yêu, giữa bầu khí tưng bừng mừng Lễ Vượt Qua của toàn thể Dân Chúa (Mt 26, 26-28; Mc 14, 22-25; Lc 22, 19-20; 1 Cr 11, 23-25).

Trong thời kỳ giáo hội sơ khai, những dấu hiệu làm tan rã cộng đoàn tín hữu Côrintô ngày xưa là sự kiện lạm dụng tự do, bất đồng quan điểm về tiêu chuẩn đạo đức, giá trị luân lý và những ân ban của Thần Khí, cũng như tình trạng sống buông xả tự tiện vô luân của một số tín hữu (1Cr 1, 11; 5, 1-6, 20; 7, 1-9, 10-16; 10, 1-11, 1). Trong những lý do trên, có một lý do rất nguy hiểm, đó là họ đã ăn những thứ thờ cúng như một của ăn nuôi dưỡng phần hồn.

Thánh Phaolô đã xác định lại ý nghĩa trọng tâm của các Hy Tế trong Cựu Ước qua những lễ vật hiến dâng cũng như việc ăn uống trong các nghi thức phụng thờ như là biến cố hiệp thông thân mật, đích thân với Thiên Chúa. Vì thế, Phaolô bày tỏ lập trường dứt khoát: “Anh em không thể vừa uống chén của Chúa, vừa uống chén của ma quỷ được; anh em không thể vừa ăn ở bàn tiệc của Chúa, vừa ăn ở bàn tiệc của ma quỷ được” (1 Cr 10,  21).

            “Chính tôi là bánh trường sinh.” Yêu ai thì khát khao muốn nên một với người mình yêu. Tình yêu làm phát sinh sáng kiến – Đức Giê-su vì quá yêu thương con người nên đã tự nguyện trở nên bánh để ở với con người, nên máu thịt của con người, dưỡng nuôi tâm linh và ban cho họ sự sống bất diệt: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì có sự sống đời đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết. Vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống” (Ga 6, 54 – 55). Bởi chính thế mà Đức Giê-su đã thiết lập bí tích Thánh Thể để ở lại với con người, dưỡng nuôi và đồng hành với con người trên đường tiến về quê hương đích thật trên trời.

"Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói ; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” Trải qua hơn hai ngàn năm, Đức Giê-su đã là lương thực nuôi dưỡng nhân loại qua Lời hằng sống của Người. Lời của người ảnh hưởng trực tiếp trên những kẻ tin yêu và lắng nghe, đồng thời dán tiếp ảnh hưởng đến tất cả mọi môi trường có chứng nhân của Lời hiện diện. Lời của người là Lời tình yêu Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại; là Lời có khả năng thỏa mãn cơn đói khát tình yêu của con người; một cơn đói khát quyết định sự sống còn của nhân loại. Chối bỏ Lời, con người ngày nay đắm chìm trong một nền văn hóa chết chóc, có xu hướng đề cao chủ nghĩa cá nhân, hưởng thụ ích kỷ, chạy theo vật chất, bành trướng cái tôi… là một lối sống làm sói mòn tâm linh và ý nghĩa thiêng liêng cao cả của cuộc sống con người. Chỉ khi nghe và thực hành Lời người – như ‘ăn’ và ‘tiêu hóa’ – thì cuộc sống thế giới mới trở nên phong phú, cuộc đời con người mới có hạnh phúc thật.

Ngày nay Đức Giêsu vẫn tiếp tục hiến mình cho nhân loại qua thánh lễ mà Giáo hội cử hành mỗi ngày khắp nơi trên thế giới. Cảm nhận hồng ân cao cả Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại, Giáo hội trung thành, hân hoan thiết đãi và mời gọi con cái mình đến dự bàn tiệc Lời Hằng sống và Thánh Thể Chúa Giêsu qua thánh lễ hằng ngày. Vì thế Ki-tô hữu chúng ta cần ý thức và siêng năng tham dự thánh lễ với lòng vui mừng và biết ơn Chúa, biết ơn Giáo hội.

Bánh và Rượu Ngài ban trong Thánh Thể cũng là cách Ngài tỏ tình yêu, Ngài muốn nói với chúng ta "Ta yêu thương các con, Ta săn sóc các con". Ngài chính là Bánh và Rượu nuôi sống chúng ta, Ngài muốn chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận Ngài. Khi chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể thì lúc đó con người mới mở rộng trái tim và bàn tay để đón nhận tha nhân.

Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời được ban xuống để lôi kéo con người lên với Chúa Cha. Người tín hữu Kitô tiếp nhận Thánh Thể để được lãnh nhận tình yêu Chúa và từ đó mới trào sang cho tha nhân, đưa mọi người về với Thiên Chúa. Chia sẻ bàn tiệc với Chúa Giêsu trong Thánh Thể, người tín hữu cũng chia sẻ cơm bánh cho tha nhân hằng ngày. Thật kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ tình yêu cho tha nhân, họ lãnh nhận được sự sống trường sinh của Chúa Kitô tràn ngập tâm hồn.

Ngày nay, đời sống người Kitô hữu đã coi nhẹ Bí Tích Thánh Thể, các tín hữu trong hàng giáo dân, hàng tu sĩ và cả hàng giáo phẩm. Hầu như việc coi trọng Thánh Thể là nguồn sống cả xác và hồn không bằng thực phẩm nuôi sống con ngừoi hàng ngày. Rất nhiều người coi trọng vật chất hơn Thần lương.

Không giống như đời sống cộng đoàn tín hữu Côrintô, đã ăn của thờ cúng như thần lương, mà hôm nay, các tín hữu đã mất niềm tin vào Thánh Thể. Thánh Thể đã không biến đổi đời sống của họ nên con cái Chúa Kitô. Đời sống người Kitô hữu hôm nay, rước Thánh Thể như một truyền thống. Cho nên, rước Thánh Thể rồi, tâm vẫn lo âu, vẫn kiếm tìm, vẫn kiêu căng tự mãn, vẫn nói hành nói xấu, vẫn ghen ghét hận thù… Tâm hồn không biến đổi nên thánh thiện, nên đơn sơ, nên hiền lành…

Tin vào Đức Giêsu có nghĩa là đến với Ngài. Không chỉ dừng lại ở đó, mà chúng ta còn được mời gọi đi xa hơn nữa để đón nhận, tức là thông dự vào sự sống thần linh của Ngài bằng việc đón nhận chính Ngài.Đây cũng chính là lời mời gọi của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga 6, 40).

Và rồi chúng ta cần tham dự hy lễ tạ ơn này cách sinh động với lòng thành, không câu nệ, không máy móc. Đừng làm người khờ dại chỉ đi dự tiệc cho có mặt mà không ăn tiệc (không chú tâm nghe Lời Chúa, không lãnh nhận Thánh Thể Chúa), chúng ta cần biết lắng nghe Lời hằng sống của Đức Ki-tô và đón rước mình Thánh của người làm của ăn nuôi dưỡng tâm hồn; để đời sống của Đức Giê-su, tinh thần của Người thấm nhập vào trong con người và cuộc đời của mỗi người chúng ta, hầu chúng ta trở nên cánh tay nối dài của Người trong công cuộc dựng xây vương quốc nước trời nơi trần gian và được sống hạnh phúc muôn đời bên Chúa.

 

Thứ Năm Tuần III Mùa Phục Sinh 

Cv 8, 26-40; Ga 6, 44-51

LƯƠNG THỰC TRƯỜNG TỒN

Sự sống là nhu cầu căn bản nhất của con người, đặc biệt trong thời đại hôm nay, người ta thường đưa ra đủ mọi phương cách để giữ gìn và kéo dài sự sống. Mỗi khi có một căn bệnh nan y xuất hiện thì cũng kèm theo ngay những phương thuốc có khả năng chữa lành. Nhưng rồi mỗi ngày con người càng nhận ra rõ hơn những bất lực của chính mình, mà ngay cả những phát minh khoa học tối tân nhất cũng phải đầu hàng trước nhiều cái chết được xem như bí nhiệm, đã gây nên cho con người biết bao sửng sốt, ngỡ ngàng, hoang mang và dao động liên tục. Bởi lẽ cuộc sống trần gian này chỉ là sự sống của thân xác mong manh, mau qua chóng tàn như hơi thở thoáng bay. Vậy đâu là sự sống đích thực viên mãn mà con người hằng khát khao mong đợi? Đâu là bài thuốc bất tử có thể đáp ứng nhu cầu sự sống vĩnh cửu cho con người?

Ta thấy luôn luôn có sự giằng co giữa thực tại trần gian và Nước Trời để rồi hệ lụy của việc chỉ tìm kiếm thỏa mãn nhu cầu phần xác mà quên đi những giá trị thiêng liêng dẫn đến chán chường thất vọng và tự tìm đến cái chết như một dấu chấm của cuộc đời. Hơn lúc nào hết người ta thống kê được ở những quốc gia càng văn minh tiến bộ lại càng nhiều người tự tử. Phần lớn người tự tử ở độ tuổi rất trẻ. Trong đó, có người giàu, người nghèo, có cả giới văn nghệ sĩ, diễn viên...Người ta muốn chết không phải vì thiếu ăn thiếu mặc nhưng vì thiếu niềm tin, thiếu lẽ sống, họ cảm thấy cuộc sống quá nhàm chán, vô nghĩa. Họ rơi vào cơn “trống rỗng tâm linh” và muốn tự quyết định cuộc đời mình.

Thiên Chúa yêu thương đã cho chúng ta được sống làm người có thân xác và linh hồn bất tử. Vũ trụ này xinh đẹp, tầng trời cao xanh, hoa trái ngọt lành, những tia nắng ấm, cơn mưa mát mẻ...tất cả đều được tạo nên vì con người. Thiên Chúa quan phòng còn chuẩn bị cho con người mọi thứ để có cuộc sống đầy đủ đến nỗi tác giả thánh vịnh 64 đã cất lên lời tạ ơn : «Bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo màu mỡ ngập tràn lối đi. Vùng hoang địa xanh rì ngọn cỏ, cảnh núi đồi hớn hở tươi xinh. Chiên cừu phủ trắng đồng xanh, lúa vàng dưới lũng rung rinh dạt dào...» Thật vậy, nỗi bận tâm lớn nhất của Thiên Chúa là yêu thương và cứu chuộc loài người. Ngài không nỡ để cho chúng ta ăn bánh hay hư nát, sống lang thang tạm bợ và chết trong sa mạc như thời tiên tổ nên đã cho Đức Giêsu xuống như bảo chứng thật cho chúng ta sự sống viên mãn.

Và ta thấy tại hội đường Capharnaum năm xưa, Chúa Giêsu tuyên bố: “Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. Ta là bánh ban sự sống” (Ga 6,47). Quả thật, Đức Giêsu là Đấng Messia mà muôn dân trông đợi. Ngài là Đấng Cứu Độ mà Thiên Chúa hứa ban cho con người sau khi nguyên tổ phạm tội (x.St 3,15). Ai tin Chúa Giêsu thì được Thiên Chúa cưu mang trong đời sống mới và được cứu độ. Đồng thời, đức tin ấy cũng sẽ được nuôi dưỡng bằng chính Thịt và Máu của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay đã trả lời cho chúng ta về chân lý đích thực của sự sống: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (c.51ab). Lời xác quyết của Đức Giêsu đã thực sự làm thỏa mãn cơn khát sự sống hằng ấp ủ từ sâu thẳm nội tâm con người qua bao thời đại. Nhưng làm cách nào chúng ta có thể đón nhận được sự sống đích thực do chính Đức Giêsu mang đến?

Thiên Chúa đã yêu thương tạo dựng nên chúng ta để được tận hưởng sự sống vĩnh cửu trong vương quốc yêu thương của Ngài. Vì thế, Thiên Chúa Cha luôn không ngừng dẫn dắt con người đi vào trong quỹ đạo yêu thương bằng sự nhận biết về Ngài qua con người Đức Giêsu. Chúa Giêsu đã quả quyết: “Không ai có thể đến với Ta, nếu Cha, Đấng đã sai Ta không lôi kéo nó” (c.44). Thiên Chúa luôn có nhiều cách thức để giúp chúng ta nhận biết tình yêu của Ngài. Đặc biệt qua trung gian Đức Giêsu, Con Một yêu dấu của Ngài. Trong mỗi biến cố cuộc sống, với sự tĩnh lặng của lương tâm, hay nhờ những trung gian của Giáo hội, Thiên Chúa lôi kéo chúng ta đến nhận biết Đức Giêsu và tin vào Ngài, vì chính Ngài cũng là Thiên Chúa yêu thương và quyền năng. Ngài đã đến giữa lòng nhân loại với kiếp sống con người. Ngài yêu thương hiến thân phục vụ và cuối cùng đã chịu đau khổ và chết vì tội lỗi nhân loại. Nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài phục sinh vinh hiển, chính nhờ sự phục sinh của Ngài mà chúng ta hy vọng được trả lại sự sống vĩnh cửu mà Ađam đã đánh mất xưa kia. Thiên Chúa vẫn âm thầm hiện diện trong cuộc sống chúng ta để lôi kéo chúng ta đến với Đức Giêsu lãnh nhận sự sống vĩnh cửu. Nhưng đấy lại là tự do của mỗi chúng ta! Chúng ta có quyền đón nhận hay từ chối?

            Bí tích Thánh Thể mà chúng ta lãnh nhận là bí tích của đức tin. Vì chỉ có đức tin là con đường duy nhất đưa ta đến với mầu nhiệm cực trọng này. Nơi bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu hằng chờ đợi chúng ta đến với Ngài. Trong hình bánh bé nhỏ, Chúa Giêsu chờ đợi ta rước lấy Ngài; nhờ vậy, chúng ta sẽ được bao bọc trong ân sủng và được củng cố trong tình yêu của Ngài. Nhờ rước Thánh Thể, chúng ta sẽ thoát khỏi tình trạng dửng dưng, nguội lạnh; giúp chúng ta tránh được các tội nguy tử và chống lại các tội nhẹ một cách hữu hiệu. Hơn thế nữa, Thánh Thể gia tăng sự sống siêu nhiên, làm cho sự sống ấy lớn mạnh và triển nở, gợi lên trong linh hồn lòng khát khao những thực tại vĩnh cửu: “Ai đến với Ta sẽ không hề đói; ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” (Ga 6,35).

Đức Giêsu đã sống lại để đưa chúng ta vào sự sống vĩnh cửu nơi Vương quốc của Chúa Cha. Nhưng điều kiện là chúng ta phải lãnh nhận mình máu Ngài từ hy lễ Thánh Thể hằng ngày. Chúng ta cần can đảm và dứt khoát từ bỏ những quyến rũ của nhiều tấm bánh “manna” trong cuộc sống hiện tại, để tâm hồn nhẹ nhàng thanh thoát tiến đến Bàn tiệc Thánh Thể lãnh nhận Bánh hằng sống. Chính Đấng phục sinh có sức biến đổi và cảm hóa chúng ta mỗi khi chúng ta lãnh nhận Mình Máu Ngài. Chính Ngài thông ban cho chúng ta sự sống thần linh ngay từ đời này bằng một cuộc sống an bình, yêu thương và tràn đầy hạnh phúc. Dẫu rằng cuộc đời còn lắm gian nan và thách đố, nhưng với tình yêu của Đấng phục sinh, chúng ta đủ sức mạnh để vượt thắng tất cả.

Điều kiện nào để hưởng được sự sống ấy, đó là phải TIN «ai tin thì được sống đời đời». Vậy căn nguyên của nguồn sống ấy là tin. Vì như các vị tổ tiên xưa cũng được ăn bánh nhưng họ đã đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa khi gặp thử thách trong sa mạc, khi phải lưu đày trốn chạy nơi đất khách quê người, nơi rừng hoang núi thẳm. Chúa Giêsu e ngại người ta nhầm lẫn chỉ tìm kiếm Chúa như ông chủ của «một cửa hàng cung cấp lương thực, thực phẩm» mà quên rằng niềm tin vào Chúa mới giải thoát họ khỏi án chết của tội lỗi. Một lần nữa Chúa Giêsu khẳng định lại rằng sự sống nơi thân xác, cái ăn cái mặc là điều kiện cần nhưng chưa đủ, chỉ niềm tin mới đưa con người ta đến được Chân Trời Sống Mới, đến Bến Bờ Hạnh Phúc.

Khi chúng ta ăn bánh trường sinh không phải là ăn thứ thực phẩm giàu chất dinh dưỡng nhưng là ăn thịt máu Chúa Giêsu, một món quà tình yêu cao quý không gì sánh bằng. Mẹ Têrêsa Calcutta bảo rằng “Khi ta trao cho ai một món quà và nếu nó là một mất mát hy sinh to lớn đối với ta thì món quà đó càng trở nên quý giá”. Một người mẹ trao tặng sự sống cho con đó là món quà lớn nhất, kết quả của chín tháng cưu mang với muôn vàn vất vả hy sinh. Một người cha tặng cho con món quà quý giá là khi ông dành sức lực thời giờ cả một đời người để nuôi dạy con nên người. Một người tình trao tặng món quà quý nhất cho người mình yêu khi họ dám hy sinh tất cả vì người mình yêu. Với ý nghĩa đó, Thiên Chúa là kiểu mẫu của người tặng quà. Món quà đó là người Con Một yêu dấu với một trái tim đầy ắp tình yêu đã hiến trọn thân mình qua cái chết trên thập giá. 

Đức Giêsu đang thì thầm bên tai chúng ta: “Ta là bánh trường sinh!” (c.48). Chính Chúa chứ không phải là những tấm bánh “manna” dưới muôn vàn hình thức tốt đẹp, nhưng chỉ đem lại sự chết muôn đời. Chúng ta có muốn đến với Ngài để ăn chính Ngài và để được sống đời đời không? Quả thật không đơn giản chút nào, vì nhiều khi chúng ta đã bị nhận chìm dưới vũng lầy của muôn ngàn “manna” trá hình. Lời Chúa hôm nay đang thức tỉnh chúng ta hãy đứng lên quay trở về bên Ngài để lãnh nhận sự sống, tình yêu và hạnh phúc “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (c.51b).

Thứ Sáu Tuần III Mùa Phục Sinh 

 Cv 9, 1-20; Ga 6, 53-60 (Hl 52-59)

BÁNH TRƯỜNG SINH

Thiên Chúa dựng nên con người có hồn và xác. Phần xác muốn sống phải ăn cơm bánh hằng ngày, phần hồn muốn sống còn phải rước Mình Máu Thánh Chúa.

Mình Máu Thánh Chúa chính là của ăn nuôi sống linh hồn ta. Xin cho chúng ta biết yêu mến và quý trọng của ăn thiêng liêng mà Chúa Giêsu tặng bằng cách dọn mình xứng đáng và siêng năng đến rước Chúa nơi bàn tiệc Thánh.

Trong một thành ngữ rất quen thuộc của tiếng Anh: “Ăn gì thì trở thành cái đó”, là một thực tế của sự sống luân chuyển trong thân xác con người và các tạo vật.

Và ta thấy sau khi nghe Đức Giêsu khẳng định một điều lạ lùng: “Ta là bánh… là thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51) thì đám đông Do Thái lập tức phản kháng: “làm sao ông này có thể…” (Ga 6, 52). Bởi lẽ đối với quan niệm người Do Thái, máu chính là sự sống. Lấy thịt mình cho người ta ăn, lấy máu mình cho người ta uống là chuyện không tưởng, chuyện điên dại!

Quả thật, trước mắt con người, Đức Giêsu đã trở nên “điên dại”; Ngài điên dại vì yêu con người. Vì yêu, Ngài đã bằng lòng chịu chết để con người được sống và sống dồi dào. Với quyền năng Thiên Chúa, trước khi chịu chết, Đức Giêsu đã thực hiện phép lạ cả thể là biến thể bánh rượu thành Thịt và Máu của Ngài như lời Ngài đã tiên báo để trở nên lương thực thần thiêng cho những ai tin vào Ngài.

Những gì ăn vào thì ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình sự sống không chỉ trong thân xác mà còn thay đổi cả sự trưởng thành đời sống tinh thần. Chẳng hạn khi ăn thịt nhiều thì áp xuất máu sẽ bị thay đổi tăng lên, đồng thời cũng làm tính nóng trong tinh thần tăng lên theo. Ngược lại ăn rau và hoa trái nhiều, thì cảm thấy cơ thể nhẹ nhàng dễ tiêu hóa, đồng thời tính tình cũng điềm đạm hơn. Đó là kinh nghiệm bình thường ở những cơ thể cũng bình thường, ngoại trừ những cơ thể bất thường thì có thể khác.

Căn cứ vào kinh nghiệm dinh dưỡng nhân loại ấy, chúng ta có thể hiểu được lời Chúa Giêsu khi Ngài phán: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống... Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy".

Thánh Gioan không viết về việc Chúa lập bí tích Thánh Thể, nhưng lại giải thích cách sâu xa cho chúng ta về ý nghĩa của bí tích ấy đặc biệt trong bài Tin Mừng hôm nay. Câu 51 là một bước chuyển quan trọng trong bài giảng của Đức Giêsu về Bánh hằng sống ở chương 6:

“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống.

Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.

Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”

Lần đầu tiên thịt được nhắc đến trong bài giảng này. Thịt của Đức Giêsu chính là bánh từ trời được ban cho thế gian. Ngôi Lời đã vào đời làm người, đã thành thịt (Ga 1, 14). Bây giờ chính thịt ấy lại được trao ban cho con người như bánh hằng sống. Đức Giêsu không bằng lòng với chuyện nuôi một số người bằng bánh và cá. Điều đó chỉ làm giảm cơn đói thân xác trong một thời gian. Ngài muốn nuôi cả thế giới bằng chính sự sống thần linh ở nơi Ngài,nuôi bằng trọn cả con người Ngài, nuôi bằng chính thịt và máu Ngài.

“Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì có sự sống vĩnh cửu.

Thật vậy, Chúa Giêsu Kitô không phải chỉ có bản tính nhân loại, mà còn mang bản tính Thiên Chúa trong Ngài, nên Thịt và Máu Ngài ở trong trạng thái của sự sống đời đời.

Ta không phủ nhận ý nghĩa về Thánh Lễ trên Thập Giá của đoạn Tin Mừng hôm nay, vì Thánh Lễ cũng là một hy tế tái diễn hy tế Thập Giá. Trong lễ hy tế, vật hy tế chính Thịt và Máu Chúa. Trong Thánh Lễ, bánh và rượu - hay nói cách khác - Thịt và Máu Chúa Giêsu được dùng của lễ.

Tuy nhiên, nếu hy tế Thập Giá có giá trị cứu rỗi đặc biệt thì đòi hỏi người tham dự có một thái độ đặc biệt: "Ai không ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ không có sự sống". Lệnh truyền này còn được nhắc lại rất trang trọng trong nghi thức thiết lập phép Thánh Thể ở Nhà Tiệc Ly: "Hãy cầm lấy mà ăn... Hãy cầm lấy mà uống". Ăn uống bây giờ không còn là ăn bánh uống rượu để kỷ niệm mà là đón nhận chính Mình Máu Chúa Giêsu.

Ăn thịt và uống máu một người là điều làm người Do thái ghê sợ. Chúng ta chỉ hiểu được những lời trên đây trong bối cảnh của Bữa Tiệc Ly, khi Đức Giêsu mời các môn đệ ăn bánh và uống rượu Ngài trao mà Ngài lại nói: Đây là mình Thầy, đây là máu Thầy. Đức Giêsu muốn trao cho nhân loại sự sống của Ngài qua thức ăn, thức uống bình thường của con người là bánh và rượu.Sự sống vĩnh cửu đã hé nở ngay từ đời này và sẽ viên mãn ở đời sau. Hãy đến ăn và uống lương thực thần linh Ngài dọn cho ta. Hãy đến với lòng tin và sự trân trọng trước món quà quý giá. Nhưng dự tiệc Thánh Thể không phải chỉ là đến với thịt và máu Chúa, mà còn là gặp gỡ tiếp xúc với một ngôi vị là chính Đức Giêsu.

Khi ăn thịt và uống máu Ngài, một kiểu nói khiến những người Do Thái đương thời với Chúa Giêsu phải rùng mình sợ hãi và bỏ Ngài, và những người thời nay không tin Chúa Giêsu thì cho đầu óc những người Công Giáo là điên rồ, nhưng ngược lại, lại rất quen thuộc thường tình và trở nên vô cùng quan trọng đối với sự sống tinh thần và thiêng liêng của mọi Kitô hữu, nhất là những người Công Giáo. Họ chẳng những tin vào Lời Chúa Giêsu phán về việc ăn thịt và uống máu Ngài, nhưng còn có kinh nghiệm ăn thịt và uống máu ấy hằng ngày, để cảm nghiệm sự trưởng thành trong đời sống tinh thần của mình ở mức độ đời đời thế nào.

Nếu phải chia sẻ kinh nghiệm ấy, thì tất cả các tín hữu Công Giáo đều sẽ đồng loạt tuyên bố: "Thịt và Máu Chúa Giêsu dưới hình bánh và hình rượu sau lời truyền phép, chính là nguồn sự sống và hạnh phúc cho họ chẳng những ở trần gian, mà nhất là trở nên bảo đảm quí giá cho sự sống bất diệt trên trời".

Vì thế trên cả thế giới, cứ vài giây đồng hồ lại có một Thánh Lễ để cung cấp cho trên tỷ người Công giáo sự sống trường sinh là thịt và máu Chúa Giêsu.

Để đón nhận Thánh Thể, mỗi người phải học mẫu gương từ bỏ mình nơi Chúa Giêsu Thánh Thể, biết hy sinh cho nhau, biết hy sinh cái tôi, dám chấp nhận từ bỏ những sở thích của mình đang gây phiền hà cho than nhân… để đem đến niềm vui, bình an cho mọi người trong gia đình. Tình yêu sẽ sống lại nơi gia đình khi mọi người biết vì thương nhau mà hy sinh chính mình.

Và rồi mỗi gia đình hãy tin và đến với Chúa Thánh Thể để đón nhận Thánh Thể Chúa. Thánh Thể Chúa là sức sống cho giáo hội hơn 2000 năm nay và sẽ còn là sức sống cho Giáo Hội tới tận thế. Trong đức tin, gia đình nào biết độn nhận Thánh Thể Chúa, gia đình đó chắc chắn có sức sống của Chúa nuôi dưỡng và sẽ được bảo đảm sự sống đời đời như lời Chúa đã hứa:“Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6, 54).

Bất cứ ai đến ăn thịt và uống máu Ngài, đều cảm nhận sự bình an khôn tả, nhiều khi nhận được cả sự chữa lành thể xác nữa. Họ chính là đoàn người đông đảo ca tụng hạnh phúc bất diệt trong món quà Thịt và Máu Chúa Giêsu trối lại trên Bàn Thờ hằng ngày, vì biết rằng khi ăn uống món quà vô giá ấy, họ cũng trở nên những Kitô khác mang trong mình sự sống trường sinh như chính Chúa Kitô, Con Thiên Chúa.

Thứ Bảy Tuần III Mùa Phục Sinh 

Cv 9, 31-42; Ga 6, 61-70 (Hl 60-69)

BỎ THẦY CON BIẾT THEO AI

Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam ta thấy có câu rất hay : “Sự thật mất lòng”.

Và với Chúa Giêsu cũng vậy, Chúa Giêsu không sợ mất lòng mà sợ mất sự thật. Vì thế Ngài khẳng định sự thật: Ngài chính là Bánh đem lại sự sống đời đời, bất chấp cho lời đó chướng tai gây ‘sốc’ khiến các môn đệ rời bỏ Ngài. Trước tình huống phải chọn lựa một trong hai ấy, Phêrô đã không ‘a dua’ theo đám đông mà bỏ Thầy; trái lại ông dám khảng khái tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai,” dù cho ông không thấy, không hiểu hết nội dung điều ông vừa tuyên xưng. Ông chỉ biết một điều là luôn bám chặt vào con người Thầy Giêsu, Đấng mà ông tin tưởng ngay cả trong lúc tối tăm vô định nhất, tin tưởng ngay cả khi không có gì để kiểm chứng, để bám víu, ngay cả khi con người ông vẫn còn những yếu đuối khuyết điểm.

Qua lời tuyên tín chọn  Chúa, Phêrô nêu ra ba lý do khiến các ông và các bạn ở lại với Đức Giêsu chứ không rút lui bỏ Ngài như đa số,

Ta thấy trước tiên “bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai” nghĩa là chúng con không thể bỏ đi kiểu mù quáng, hơn hớt niềm tin. Khi bỏ đi, chúng con cần phải biết chúng con muốn bỏ ai, và gặp được điều gì tốt hơn và thuyết phục hơn Ngài, điều này không có gì bảo đảm chắn chắn khi bỏ Ngài. Suy tư sáng suốt khi tránh những quyết định vội vã, theo tình cảm. Bởi vì không tìm được một vị thầy nào dứt khoát khá hơn, cho nên khôn ngoan là ở lại với Đức Giêsu.

Kế đến, ta thấy tâm tư thật sâu lắng : “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” lời tuyên tín nhắc lại đặc tính của các lời Đức Giêsu như chính Người đã nói: “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (Ga 6, 63).  Phêrô chấp nhận lời Thầy mang Thần Khí và sự sống nên tuyên tín: “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6, 68). Dù ông vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa trọn vẹn những lời Đức Giêsu, nhưng ông đã tin tưởng vào điều chính yếu nhất: sứ điệp của Đức Giêsu đem đến sự sống đời đời.  Đức Giêsu không chỉ nói về điều đó, Người còn mang sứ điệp chắc chắn về sự sống đời đời và mở đường vào sự sống đó. Đó là ân ban cao trọng nhất của Đức Giêsu như Ngài nhấn mạnh thường xuyên trong diễn từ Thánh Thể.

Và tiếp theo ta thấy xác tín của Thánh Phêrô khi Ngài chọn Chúa: “chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Phêrô và nhóm Mười Hai hiểu và nhận biết  Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6, 69). “Thánh” chính là điều thuộc về Thiên Chúa. Nếu Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, có nghĩa là Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và được kết nối với Thiên Chúa trọn vẹn. Phêrô lập lại danh hiệu này theo thánh vịnh 16: ca tụng tình thân mật sâu xa giữa Thiên Chúa và người cầu nguyện, trong đó có nói đến danh hiệu “Đấng Thánh của Ngài", theo bản dịch Bảy mươi (Cv 2, 27) như Đức Giêsu đã công bố sự kết hợp giữa Ngài với Chúa Cha (Ga 5,19-30),  Ngài còn loan báo mình đã được “Thiên Chúa thánh hiến" (Ga 10, 6;17, 19).

Danh hiệu “Đấng Thánh Của Thiên Chúa" cao vượt hơn danh hiệu "Thiên Sai” rất nhiều và thích hợp với danh hiệu “Con Thiên Chúa" mà Simon-Phêrô tuyên xưng trong Mátthêu 16,16". Cho nên, chính vì Đức Giêsu có một tương quan đặc biệt với Thiên Chúa, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, mà Người có những lời ban sự sống vĩnh cửu. Chính vì thế các ông đã ký thác và tín nhiệm hoàn toàn vào Đức Giêsu.

Một số lớn các môn đệ thiếu đức tin và theo cảm xúc và hời hợt, lý trí của con người trước mặc khải mầu nhiệm Thánh Thể, nên không thể chấp nhận được các lời Đức Giêsu. Trong lúc Ngài Giêsu luôn nhắc các môn đệ là Ngài không đến, không nói như một người thường, nhưng là Người đến từ Thiên Chúa và sẽ trở về với Thiên Chúa. Trong bài Diễn từ về Bánh trường sinh, Đức Giêsu đã nhiều lần nêu bật Con Người - Người được Thiên Chúa cử đến và có sự sống phát xuất từ Thiên Chúa (x. Ga 6, 27.57). Điều kiện tiên quyết để hiểu được các lời của Đức Giêsu, trên sự hiểu và nhìn nhận bản thân Người. Nhưng đám đông dân chúng trong số có các môn đệ đáp lại bằng sự thiếu lòng tin, sự từ khước, sự ngờ vực đối với Ngài và đối với lời Ngài. Vì thế nhiều môn đệ “rút lui, không còn ở với Người nữa” (Ga 6,66).

Tuy nhiên, nhóm Mười Hai chọn lựa ở lại (Ga 6, 67-69: ) Nhóm Mười Hai – các môn đệ gần gũi với Chúa Giêsu, cũng bị cám dỗ, bị lay động, bị thách thức bởi mầu nhiệm của mạc khải Thánh Thể và những lời đòi hỏi của Ngài. Trước những thử thách cao độ, Chúa Giêsu đặt câu hỏi với họ: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6, 67).  Simôn Phêrô đã nhân danh nhóm khi tuyên xưng “chúng con”: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6, 68-69

Còn với chúng ta, những người thân tín nhất của Chúa, hôm nay và mỗi giây phút trong đời, Chúa cũng nói với chúng ta: "Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi nũa không"? Chọn lựa thì dễ, còn sống theo điều đã chọn lựa lại là chuyện khác. Tất cả chúng ta đều là người đã chọn lựa Chúa. Nhưng điểm lại những năm tháng của đời chúng ta, chúng ta sống thế nào? Giáo xứ chúng ta thử hỏi xem có bao nhiêu người sinh hoạt tôn giáo đều đặn, có biết bao người giống như dân Do Thái theo Chúa để được ăn bánh no nê.

Theo bước chân của Phêrô và các môn đệ chúng ta xác tín: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6, 68). Chọn và sống theo Chúa Kitô là cùng Ngài đi trong ban ngày của bình yên cuộc sống hay giữa đêm tối của phong ba thử thách như Phêrô và các môn đệ. Sống với niềm tin vào Ngài là khước từ cách hiểu biết, giác quan và lý luận thông thường, hơn hớt bên ngoài, nhưng là tin mà không thấy (Ga 20, 29) là vững bước với sự chọn lựa và xác tín theo Thầy.

Nếu như ta đi tìm Chúa chỉ vì những cái lợi lộc trước mắt, những lời bùi tai, những giàu sang vật chất thì sẽ không thể gặp Chúa, vì Chúa không đến để ru ngủ, phỉnh phờ. Chúa không chủ trương nói cho bùi tai, mật ngọt chết ruồi. Bản thân Chúa hiền hậu và khiêm nhường (Mt 11,29) nhưng lời nói thì thẳng thật, mất lòng trước được lòng sau. Những lời chướng tai không thiếu gì trong Phúc âm: Tám mối phúc thật, yêu kẻ thù, bước qua cửa hẹp, vác thập giá, mất mạng sống...và ai ăn thịt và uống máu Tôi thì đước sống muôn đời.” Nhưng Chúa không rút lời, không nói nhẹ đi, vì thế có nhiều môn đệ “lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi.” Và họ rút lui, bỏ đi không theo Chúa.

Lời Chúa và nhất là bước theo Chúa luôn đòi hỏi con người phải lột xác, phải dấn thân hy sinh. Chúa đến với ta bằng cách trở nên xác phàm, làm thân phận con người hèn yếu, sinh trong máng cỏ hang lừa, sống bằng nghè thợ mộc, cưa đục nhọc nhằn và chết trên thập giá. Đó là con đường Chúa chọn để cứu độ loài người.

“Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Đức tin cũng là một thứ vàng cần phải được thanh luyện. Những hoàn cảnh cụ thể trong cuộc sống đòi chúng ta phải chọn lựa dứt khoát theo Chúa hay là không theo Chúa; đó chính là hòn đá thử xem chất vàng đức tin của chúng ta đã ‘đủ tuổi’ hay chưa ngõ hầu ‘trụ’ được trước những thách đố của tinh thần thế tục, hưởng thụ lạc thú, quyền lực… đang làm xói mòn, hoen rỉ đức tin.

Và rồi Chúa Giêsu cũng hỏi chúng ta, một lần nữa chúng ta phải quyết định. Người mời gọi các môn đệ chọn lựa. Nhiều người đã thấy chối tai khi nghe người nói: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi”. Chúa Giêsu quét sạch những lời giải thích thô thiển. “Chính Thần Khí mới làm cho sống. Xác thịt không làm được gì. Lời của Tôi là Thần Khí và Sự Sống. Vấn đề là gặp gỡ Thiên Chúa qua Chúa Giêsu, là đón nhận ân ban của  “Chúa Cha và đồng hành với Người”. Không bao giờ có một con đường vạch sẵn. Thông thường ta phải định hướng lại cuộc đời mình và phải quyết định. Chúa Giêsu không để lại cho chúng ta một mật mã. Người đã ban cho chúng ta Thần Khí. Điều còn lại là nối dài hành vi tự do và sáng tạo của con người. Người đã phán: “Thầy là Đường”.

Đứng trước thách đố của nhiều người và một số môn đệ bỏ Chúa, Phêrô đại diện cho nhóm 12 và cả chúng ta. Và rồi mỗi người chúng ta hôm nay cũng có thể bắt chước Phêrô, đại diện cho toàn thể những anh chị em trong giáo xứ chúng ta để nói lên lời quyết tâm theo Chúa: "Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy có lời ban sự sống".

 

 

huệ minh May 20, 2019