Bài
giảng thánh lễ Đêm Vọng Giáng Sinh 2007 của ĐGH Bênêđíctô
XVI
Anh chị em thân mến,
“Bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã
bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm
được chỗ trong nhà trọ.” (Lc 2:6-7). Những lời này làm thổn
thức tâm hồn chúng ta mỗi khi nghe lại. Đó là giây phút mà
thiên thần đã tiên báo tại Nagiarét: “bà sẽ thụ thai, sinh
hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng,
và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao” (Lc 1:31-32). Đó là giây
phút mà Israel đã hằng trông đợi trong nhiều thế kỷ, trải qua
nhiều giờ khắc đen tối - giây phút mà toàn thể nhân loại cách
nào đó trông chờ, trên những phương diện tuy còn định nghĩa
mù mờ như: khi nào Thiên Chúa chăm sóc chúng ta, khi nào Ngài
bước ra khỏi tháp ngà của mình, khi nào thế giới được cứu rỗi
và khi nào Thiên Chúa sẽ canh tân mọi sự. Chúng ta có thể tưởng
tượng ra hình thức chuẩn bị nội tâm này cũng như tâm tình của
Mẹ Maria khi giờ phút này đến gần. Cụm từ ngắn gọn “Bà lấy
tã bọc con” cho phép chúng ta thấy thấp thoáng một cái gì đó
của niềm vui thánh thiện và lòng nhiệt thành lặng lẽ trong việc chuẩn bị này. Tã đã sẵn sàng, để con trẻ có thể
được chào đón xứng đáng. Tuy nhiên, không có chỗ trong phòng
trọ. Cách nào đó, nhân loại đang ngóng chờ Thiên Chúa, chờ
đợi Ngài đến gần. Nhưng khi giờ phút ấy xảy đến, lại không
có chỗ cho Ngài. Con người quá bận rộn với chính mình, con
người có những nhu cầu cấp bách ở mọi nơi mọi lúc cho những
vấn đề của riêng mình đến nỗi không còn gì còn lại cho những
người khác, cho người lân cận, cho người nghèo, cho Thiên Chúa.
Và con người càng trở nên giầu có bao nhiêu thì họ càng bị
choáng ngợp bởi chính mình bấy nhiêu, và càng ít có chỗ cho
người khác bấy nhiêu.
Thánh Gioan, trong Phúc Âm của ngài, đã
đi vào trọng tâm của vấn đề, khi đào sâu thêm trình thuật ngắn
ngủi của Thánh Luca về hoàn cảnh tại Bêlem: “Người đã đến nhà
mình, nhưng dân Người chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:11). Điều
này đề cập đến trước hết và trên hết là Bêlem: Con Vua Đavít
đến với chính bản quán của mình, nhưng phải sinh ra trong máng
lừa, vì không có chỗ cho ngài trong phòng trọ. Sau nữa, nó
liên hệ đến Israel: Đấng đã được sai đến với dân Người, nhưng
họ không cần Người. Và thực sự, nó liên hệ đến toàn thể nhân
loại: Đấng mà nhờ Người mà thế gian được tạo thành, Đấng Tạo
Hóa – Ngôi Lời từ muôn đời, đã bước vào thế giới, nhưng Ngài
không được lắng nghe, không được tiếp nhận.
Những lời này tối hậu liên hệ đến chúng
ta, mỗi người chúng ta và toàn thể xã hội. Chúng ta còn có
thời giờ không để dành cho người lân cận, người đang cần đến
một lời an ủi của chúng ta, của tôi, hay đang cần đến niềm
cảm thông của tôi? Chúng ta còn có thời giờ không để dành cho
những người đau khổ đang cần đến sự giúp đỡ? Chúng ta còn có
thời giờ không để dành cho người đang phải trốn tránh hay người
tỵ nạn đang cần đến nơi nương tựa? Chúng ta còn thời gian và
không gian cho Chúa không? Ngài còn có thể bước vào cuộc đời
chúng ta không? Ngài còn tìm được chỗ trong ta, hay chúng ta
đã dành mọi chỗ trong tư tưởng, trong hành động, trong cuộc
đời chúng ta cho chính mình?
Tạ ơn Chúa, cái chi tiết tiêu cực này
không phải là điều duy nhất, cũng chẳng phải là điều sau cùng
chúng ta thấy trong Phúc Âm. Chính trong Phúc Âm Thánh Luca,
chúng ta gặp được tình mẫu tử của Mẹ Maria và lòng trung tín
của Thánh Giuse, sự cảnh giác của các mục đồng và niềm hân
hoan lớn lao của họ; cũng như trong Phúc Âm Thánh Matthêu khi
chúng ta đối diện với cuộc viếng thăm của những nhà thông thái
đến từ phương xa; và Thánh Gioan cũng nói với chúng ta: “Phàm
những ai đón nhận Người thì Người ban cho quyền năng trở thành
con cái Thiên Chúa” (Ga 1:12). Có những người đón nhận Ngài,
và vì thế, bắt đầu từ máng lừa này, từ bên ngoài, đã lặng lẽ
lớn lên một ngôi nhà mới, một thành phố mới, một thế giới mới.
Sứ điệp Giáng Sinh làm cho chúng ta nhận ra sự tối tăm của
một thế giới đóng kín, và qua đó không chút nghi ngờ gì, sứ
điệp này đang minh họa một thực tại chúng ta chứng kiến hàng
ngày. Tuy nhiên, sứ điệp Giáng Sinh cũng nói với chúng ta rằng
Thiên Chúa không để cho chính mình bị gạt ra ngoài. Ngài tìm
một chỗ, ngay dù chỗ ấy có nghĩa là phải bước vào một máng lừa; để rồi có những con
người thấy ánh sáng của Ngài và thông truyền ánh sáng ấy. Qua
lời Tin Mừng, thiên thần cũng nói với chúng ta, và trong phụng
vụ thánh ánh sáng của Đấng Cứu Độ bước vào cuộc đời ta. Dù
chúng ta là những mục đồng hay những “nhà thông thái” – ánh
sáng và sứ điệp của nó cũng mời gọi chúng ta cất bước để thoát
ra cái vòng chật hẹp của ham muốn và lợi lộc để gặp Chúa và
thờ lạy Ngài. Chúng ta thờ lạy Ngài bằng cách mở thế giới này
ra cho sự thật, cho điều thiện, cho Chúa Kitô, và cho sự phục
vụ những ai bị gạt ra ngoài lề và những ai đang trông đợi chúng
ta.
Trong nhiều khung cảnh Giáng Sinh từ cuối
thời Trung Cổ và đầu thời hiện đại, máng lừa được mô tả như
một cung điện đổ nát. Người ta có thể nhận ra được vẻ huy hoàng
xa xưa của nó, nhưng nay nó trở thành một tàn tích, những vách
tường đang sụp dần – thật ra, nó đã trở thành một máng lừa.
Mặc dù điều này thiếu cơ sở lịch sử, sự diễn dịch đầy tính
ẩn dụ này dẫu sao cũng diễn tả một điều gì rất thật được che
dấu trong mầu nhiệm Giáng Sinh. Ngai vua Đavít, được đoan hứa
tồn tại đến muôn đời, đứng trơ trọi. Những kẻ khác đang cai
trị Thánh Địa. Giuse, miêu duệ của Đavít, chỉ là một thợ thủ
công bình thường; và cung điện, thực ra, đã trở thành một cái
hang. Chính Đavít đã bắt đầu đời mình như một trẻ mục đồng.
Khi tiên tri Samuel tìm ông để xức dầu, có vẻ nhưng không thể
và nực cười là một cậu bé mục đồng như thế lại trở thành người
mang lấy lời hứa của Israel. Trong máng lừa Bêlem, nơi chính
thành phố mà mọi sự đã khởi đầu, vương quyền Đavít lại bắt
đầu một cách mới mẻ - nơi hài nhi bọc trong tã, được đặt nằm
trong máng cỏ. Ngai vàng mới từ đó Vua Đavít này lôi kéo thế giới về với Ngài chính
là Thánh Giá. Ngai vàng mới – là Thánh Giá – phù hợp với một
khởi đầu mới từ máng lừa này. Nhưng đó chính thật là cách thức
mà cung điện vua Đavít thực sự, vương quyền thực sự đang được
thành hình. Cung điện mới này khác quá xa với những gì con
người tưởng tượng về cung vàng điện ngọc và vương quyền. Đó
là cộng đoàn của những ai để mình bị lôi cuốn bởi tình yêu
Chúa Kitô và vì thế trở thành cùng một nhiệm thể với Ngài,
một nhân loại mới. Quyền năng đến từ Thánh Giá, quyền năng
của điều thiện cho đi chính mình – đây chính thật là vương
quyền thật sự. Máng lừa trở thành một cung điện – và từ khởi
điểm này, Chúa Giêsu xây dựng cộng đoàn mới to lớn gồm những
người đã được các thiên thần hát khen trong giờ phút giáng
sinh của Ngài: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, và bình an
dưới thế cho người Chúa yêu” – cho những ai đặt ý chí mình
trong ý chí của Người, qua đó trở thành những con cái của Thiên
Chúa, những con người mới, một thế giới mới.
Thánh Grêgôriô thành Nyssa, trong những
bài giảng Giáng Sinh của ngài, đã phát triển cùng một quan
điểm như sứ điệp Giáng Sinh trong Phúc Âm Thánh Gioan: “Người
đã dựng lều giữa chúng ta” (Ga 1:14) . Thánh Grêgôriô áp dụng
đoạn này trên cái lều là thân xác chúng ta, một thân xác đã
mòn và yếu ớt, trơ ra mọi chỗ đau đớn và chịu đựng. Và ngài
cũng áp dụng điều đó cho toàn thể hoàn vũ đang tả tơi và biến
dạng vì tội lỗi. Ngài sẽ nói gì khi chứng kiến tình trạng thế
giới hôm nay, với những lạm dụng năng lượng và sự khai thác
ích kỷ và bất chấp hậu quả. Thánh Anselm thành Canterbury,
trong một cách thế rất tiên tri, đã mô tả một thị kiến về điều
mà chúng ta ngày nay đang chứng kiến nơi một thế giới ô nhiễm
với một tương lai bất trắc: “Mọi thứ dường như đã chết, và
mất đi phẩm giá đã được tạo thành để phục vụ những ai ca ngợi
Thiên Chúa. Những yếu tố của thế giới bị bóp nghẹt, chúng mất
đi vẻ huy hoàng vì bị lạm dụng bởi những kẻ làm nô lệ cho ngẫu
tượng của họ, cho những thứ đã không được tạo thành” (PL 158,
955f.) Vì thế theo quan điểm của Thánh Grêgôriô, máng lừa trong sứ điệp Giáng Sinh
tượng trưng cho một thế giới bị đối xử tàn tệ. Điều mà Chúa
Kitô xây dựng lại không phải là một cung điện bình thường.
Ngài đã đến để khôi phục lại vẻ đẹp và phẩm giá của tạo vật,
của vũ trụ: đây là điều đã bắt đầu trong lễ Giáng Sinh và là
điều khiến các thiên thần hân hoan. Trái đất được khôi phục
trật tự tốt đẹp nhờ vào sự kiện là nó mở lòng ra cho Thiên
Chúa để nhận lấy ánh sáng thực cách mới mẻ; và trong sự hài
hòa giữa ý chí con người và thánh ý Thiên Chúa, trong sự giao
hòa giữa trời và đất, nó lấy lại được vẻ đẹp và phẩm giá của
mình. Thành ra, Giáng Sinh là một ngày hội mừng cho sự khôi
phục tạo vật. Chính trong bối cảnh này mà các Nghị Phụ đã diễn
dịch bài ca của các thiên thần trong đêm linh thánh này: đó
là một thể hiện của vui mừng trên sự kiện là tầng cao và vực
sâu, Trời và Đất, lần nữa lại giao hòa, con người lại kết hiệp
với Thiên Chúa. Theo các Nghị Phụ, một phần trong lời ca của
các thiên thần nói lên rằng các thiên thần và con người có thể đồng ca với nhau và qua đó vẻ đẹp của vũ trụ được
diễn tả nơi vẻ đẹp của bài tụng ca. Cũng theo các Nghị Phụ,
nhạc Phụng Vụ có một phẩm giá đặc biệt vì nó được hát lên cùng
với các ca đoàn thiên sứ trên trời. Chính sự gặp gỡ với Chúa
Giêsu khiến chúng ta có thể nghe thấy bài ca các thiên thần,
và qua đó tạo ra một thứ âm nhạc thực sự mà sẽ tàn đi khi chúng
ta đánh mất tính chất cùng hát cùng nghe này.
Nơi máng lừa Bêlem, Trời và Đất gặp nhau.
Trời đã xuống cùng Đất. Vì lý do đó, một luồng sáng chiếu soi
từ máng lừa này cho mọi thời đại; vì lý do đó niềm vui bùng
nổ; vì lý do đó bài ca được sinh ra. Ở phần cuối của suy niệm
Giáng Sinh này tôi muốn trích dẫn một đoạn từ Thánh Âu Tinh
[Augustinô]. Khi diễn dịch Kinh Nguyện của Chúa: “Lạy Cha chúng
con Đấng ngự ở trên Trời”, ngài đặt câu hỏi: Trời là gì? Trời
ở đâu? Và một lời đáp thật bất ngờ: “..Đấng ngự ở trên Trời
– nghĩa là nơi các thánh và nơi những người công chính. Vâng,
các tầng trời là những thực thể cao nhất trong vũ trụ, nhưng
các tầng trời vẫn chỉ là những thực thể, không tồn tại được
trừ phi trong một nơi chốn nhất định. Nếu chúng ta tin là Thiên
Chúa ngự ở các tầng trời, nghĩa là ở chốn cao xa nhất của thế
giới, thì những con chim may mắn hơn chúng ta, vì chúng có
thể sống gần Thiên Chúa hơn. Nhưng chẳng có lời nào chép rằng
‘Thiên Chúa gần những ai sống trên các cao nguyên hay trên
những đỉnh núi’. Trái lại có lời chép: ‘Thiên Chúa gần gũi
với những tâm hồn tan nát’ (Tv 34:18[33:19]), một thành ngữ ám chỉ đến sự khiêm nhường.
Như người tội lỗi được gọi là ‘Đất’, ngược lại, người công
chính có thể được gọi là ‘Trời’” (Sermo in monte II 5, 17).
Trời không thuộc về không gian địa lý nhưng thuộc về địa lý
của con tim. Và con tim của Thiên Chúa trong đêm thánh thiện
này, hạ xuống trong máng lừa: sự khiêm hạ của Thiên Chúa là
Trời. Và nếu chúng ta tiếp cận sự khiêm hạ này, chúng ta động
được đến Trời. Lúc đó Trái Đất được canh tân. Với sự khiêm
hạ của những mục đồng, chúng ta hãy tiến bước trong Đêm Cực
Thánh này hướng về Hài Nhi trong máng lừa! Chúng ta hãy động
đến sự khiêm hạ của Thiên Chúa, đến con tim của Thiên Chúa!
Khi đó niềm vui của Ngài sẽ động đến chúng ta và sẽ khiến cho
thế giới được rạng ngời hơn – Amen.
+ Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI
© Copyright 2007 -- Libreria Editrice
Vaticana
J.B. Đặng Minh An dịch - Vietcatholic.net