Bài Học Đầu Tiên
-Vài hàng về tác giả: Linh mục Ngô Văn Chữ dòng Tên ở Mỹ 26 năm, mới được thụ
phong linh mục vào tháng 6 năm 2007. Ngài tình nguyện
xin về làm việc với người nghèo ở Lào và Việt Nam
trong hoàn cảnh thiếu thốn của họ để được phục vụ
họ."
Tôi từ Lào về lại Việt Nam với cơn bệnh cảm ho. Chị y tá Hội Dòng Mến Thánh
Giá Cái Mơn, Bến Tre, khám cho tôi và bảo tôi bị suy dinh
dưỡng vì cơ thể ăn uống thiếu chất. Tôi không ngạc nhiên
gì cả. Một tháng rưỡi vừa qua tôi sống với các em nghèo ở
bên Lào. Buổi sáng chúng tôi ăn xôi chấm với mắm Pa Đẹt,
buổi trưa ăn mắm với xôi, và buổi tối thì… lại xôi với mắm.
Xôi và mắm Pa Đẹt là hai món ăn truyền thống của người Lào.
Mắm Pa Đẹt hơi giống như mắm nêm của Việt Nam nhưng không
nặng mùi bằng mắm nêm. Người giàu ăn xôi, mắm Pa Đẹt, cùng
với thịt cá và rau, còn người nghèo thì ăn xôi, mắm và rau.
Nhà của mấy em này có một mảnh vườn nho nhỏ, mỗi ngày họ
cứ ra ngoài sân, ngoài vườn cắt rau vào để ăn, lúc thì ăn
sống, lúc thì ăn chín. Nhưng rau không đủ vì vườn nhỏ xíu
mà đến hai mươi miệng ăn, nên họ hái luôn tất cả các loại
đọt cây trong vườn để ăn cho no bụng. Đọt cây gì ở ngoài
vườn cũng ăn, như đọt cây xoài, ổi, me, v.v... Có nhiều đọt
cây mà tôi chẳng biết là cây gì, nhưng họ ăn thì tôi cũng
ăn. Có bữa họ đem lên bàn ăn một bắp chuối sẻ dọc làm tư để ăn sống. Những rau cỏ
này ăn không thì rất chát nhưng chấm với mắm thì vừa miệng.
Mỗi ngày họ mua khoảng một ký cá nhỏ rồi dằm nát ra, trộn
lẫn với mắm Pa Đẹt, dằm thêm vài củ hành tây hoặc khóm vào
để cho được nhiều, đổ nước nhiều vào để đủ cho nhiều miệng
ăn rồi bắc lên lò khuấy cho đều là đã chuẩn bị xong cho bữa
ăn. Mỗi bữa có thêm một tô canh rau đi kèm với xôi, mắm và
rau. Sáng, trưa hay chiều thì cũng chỉ ăn có chừng đó món
nên sau một tháng rưỡi tôi bị suy dinh dưỡng là chuyện không
ngạc nhiên.
Thức ăn của họ đơn sơ thế nào thì đời sống của họ cũng đơn sơ như vậy. Tuy thức
ăn dọn lên bàn đơn giản thiếu thốn nhưng họ ăn uống trò chuyện
vui vẻ. Ngưòi dân Lào rất đơn sơ và hiền hòa, đến độ trước
1975 người dân đi chợ ngay ở thủ đô Viên Chăn quên không tắt
máy xe honda mà cũng chẳng bao giờ bị mất. Người dân đi mua
đồ không hề trả giá vì tin người bán hàng không bao giờ nói
thách, nên nói giá nào là mua giá đó. Nghe như chuyện thần
thoại vậy. Tôi nhờ các em dẫn tôi đi chợ, và quả thật người
bán nói giá nào là họ cứ mua như vậy. Tôi nói với các em là
phải trả giá thì các em chỉ cười lắc đầu.
Bây giờ thì nhiều người
Việt qua định cư ở Lào đã nhiều đời và trong mười lăm năm nay
người Việt
qua làm ăn cũng đầy dẫy. Người Việt lanh lợi và nhanh nhẹn
hơn người Lào nhiều. Một anh cu li ở Việt, khi qua Lào thì
lên làm thợ phụ và làm còn hay hơn, nhanh hơn mà tiền công
lại rẻ hơn thợ phụ Lào. Còn anh thợ phụ ở Việt khi qua Lào
thì làm thợ chính. Anh thợ chính ở Việt, khi qua Lào thì làm
thầu khoán. Vì làm rẻ hơn, đẹp hơn và nhanh hơn nên ai cũng
muốn mướn, thế là dân Việt tràn qua ào ạt để làm việc. Tôi
thường đến nhà thờ sớm một tiếng để gần gũi và nghe chuyện
của các nhóm thợ thầy Công Giáo đến đi Lễ Chúa Nhật. Hỏi ra
thì hầu hết các anh là nông dân làm ruộng. Mấy anh này mà đến
thành phố Sàigòn làm việc thì chắc chắn chỉ được mướn làm cu
li mà thôi, nhưng qua Lào thì nghiễm nhiên lên chức thợ phụ
hay thợ chính ngon lành. Nhiều nông dân Việt, sau khi dọn đất
và cấy lúa xong thì phải chờ cho lúa mọc, nên rất rảnh rỗi
đến mấy tháng liền, hoặc là những tháng khô không trồng trọt
canh tác gì được, thì lại rủ nhau từng nhóm kéo qua Lào. Tôi đã đi xe buýt qua Lào ba lần, lần
nào xe cũng đầy các công nhân, nông dân Việt qua Lào làm việc.
Người Việt tháo vát lanh lợi hơn người
Lào, mà mánh mung thì cũng quá tải nên dần dần có khuynh hướng
lấn át người Lào. Người Việt qua Lào cũng có người tốt kẻ xấu.
Đáng tiếc là một số nhỏ “con sâu làm rầu nồi canh” hay tụ tập
nhậu nhẹt, cờ bạc, đánh lộn, trộm cướp, nên dần dần người Lào
có vẻ sợ người Việt. Bây giờ ai đi đâu cũng phải khóa xe cẩn
thận, mua đồ thì phải cố trả giá như người Việt vậy. Người
Việt tràn qua Lào làm ăn sinh sống nhiều cũng giúp đóng góp
cho kinh tế Lào phát triển khá hơn, nhưng đồng thời cũng là
mối bận tâm cho người Lào trong những năm gần đây vì công nhân
Việt tràn qua nhiều quá nên công nhân Lào khó tìm được việc
vì đời sống văn hóa xã hội Lào là vui vẻ và từ tốn làm việc.
Ngay cả chạy xe ngoài đường cũng vậy, đường rộng và vắng mà
tôi thấy người Lào cứ tàn tàn chạy chứ không rồ ga phóng cho
nhanh như người Việt.
Tôi đã thăm nước Lào hai lần trong những
mùa hè năm trước nhưng thật sự tôi chưa biết gì về người
Lào. Tôi chỉ có một khái niệm chung chung nước Lào là một nước
chậm
tiến và nghèo hơn Việt Nam. Vì thế năm nay tôi qua Lào với
một não trạng giúp cho người nghèo. Hơn một tháng trời sống
ở Lào, não trạng này được Chúa biến đổi. Tôi đến Lào với
ánh mắt coi thấp người Lào. Họ nghèo hơn tôi, chậm chạp hơn,
học
vấn kém hơn và kiến thức cũng thua tôi, nên tôi có khuynh
hướng hơn họ và có thái độ “đến để ban phát”. Và đây là bài
học đầu
tiên Chúa dạy tôi tại Lào: Tôi đến không phải để ban phát
mà để nhận lãnh. Người Lào đã dạy tôi cách sống.
Tôi đã sống
ở Mỹ 26 năm và có khuynh hướng làm cái gì cũng phải cho thật
nhanh như Mỹ với não trạng thời
giờ là vàng bạc nên đi nhanh, làm nhanh, ăn nhanh, lái xe
cũng nhanh, v.v… Dần dà tôi quen với lối sống của dân Mỹ là
cái
gì cũng phải nhanh để đỡ mất thì giờ. Lâu dần tôi đánh mất
đi văn hóa Việt Nam trong dòng máu mình mà sự từ tốn ôn hòa
được trân trọng. Nhiều lần tôi về Việt Nam chơi, hẹn với
những người bạn ở Việt Nam đi chơi nhưng họ toàn xài “giờ dây
thung”
gây cho tôi sự khó chịu bực mình. Năm nay, tôi ngỡ ngàng
khi Chúa tỏ lộ cho tôi điều này trên đất Lào. Người Lào còn
chậm
hơn cả người Việt, ngồi chờ nhau một tiếng hai tiếng cũng
chẳng có gì bực dọc cả. Tôi đã sống với họ hơn một tháng và
bắt đầu
biết tập chờ đợi như họ, tập bỏ chương trình riêng của mình
để đón nhận những gì đưa đến, tập để cho người khác dẫn tôi
đến những chỗ tôi không thích hay không dự tính trước.
Ở trước nhà của các em có một cái sân
chơi đá banh khoảng bằng sân bóng chuyền. Với phạm vi này
khoảng tám người chơi đá banh thì vừa, nhưng thường có tới
10, 12,
hoặc 14 người chơi, và cái sân chỉ ngập toàn người với người,
nên không có chỗ để chạy, trái banh cũng khó thấy vì bị đám
đông che mất. Mới đầu tôi bực bội lắm vì không có chỗ để
chạy hoặc lừa banh còn mọi người vẫn chơi vui vẻ. Dần dần tôi
khám
phá một chân trời mới, đó là không phải chỉ chơi với trái
banh mà chơi với con người. Hơn thế nữa, tôi bắt đầu học bài
học
mới và một lối nhìn mới là nhìn ngắm những tâm hồn của những
người chơi banh. Bắt đầu từ đó, tôi ra chơi banh chung với
những tâm hồn, bất kể ít hay nhiều người cũng không phải
là mối quan tâm. Tôi bắt đầu thấy những tâm hồn rộn ràng, tiếng
vui chơi nhảy múa, tôi có cảm tưởng như các Thiên Thần đang
cười đùa nhảy múa vậy.
Tôi cảm nhận hình ảnh Thiên Chúa đã nhập
thể làm người sống với những người cùng khổ thiếu thốn qua
kinh nghiệm sống với mấy em này. Tự bản chất là Thiên Chúa
mà Ngài đã hạ mình xuống trần gian mặc lấy thân xác con người
để sống chung, ăn chung, chơi chung, học chung với con người
ba mươi năm để được con người dạy cho cách sống trước khi
giới thiệu khuôn mặt Đức Chúa Cha. Không phải chuyện ngẫu nhiên
tôi đến Lào, tôi xác tín rằng Chúa đưa tôi đến đây để dùng
những người này dạy dỗ tôi. Tôi tưởng tôi đến để cho và ban
phát, nay tôi hiểu rằng tôi được Chúa gởi đến để được lãnh
nhận ân sủng, tình thương và học hỏi cách sống. Lạy Chúa,
con
cám ơn Chúa đã mở mắt lòng con để học bài học đầu tiên. Xin
cho con biết hạ mình để tiếp tục học những bài học kế tiếp.
Giuse
Ngô Văn Chữ, S.J.
October 2, 2007
Nhóm tác giả - Việtnam