Emmanuen Thiên Chúa ở cùng chúng ta
John P., một linh mục Ái nhĩ lan, sau nhiều năm tận tâm thuyết phục một thanh
niên bỏ đạo trở về với Giáo hội, cha đã phải hoài công vô
vọng. Bao lời khuyên răn cứ như "nước đổ lá môn."
Một
lần kia, Mẹ Têrêsa Calcutta được mời đến thăm Ái nhĩ lan.
Ban tổ chức có thu xếp một buổi nói chuyện thân mật giữa
Mẹ với các bạn trẻ. Mẹ chỉ nói giản dị về tình yêu Thiên
Chúa:
“Chúa yêu thương các bạn; Ngài luôn đồng hành với các bạn”.
Sau đó Mẹ rời thành phố. Ai về nhà nấy.
Ngay
hôm ấy, trời mỗi lúc mỗi khuya! Khi mọi vật đang chìm vào
tĩnh mịch, chợt
một hồi chuông điện thoại reo vang phá
tan giấc ngủ của cha John. Ngài nhấc vội chiếc điện thoại,
và đầu giây bên kia là giọng nói của chàng thanh niên năm
nào:
-
Alô, Cha John! Con muốn xưng tội với cha.
Vị
linh mục tưởng chừng chàng thanh niên đang bị tai nạn hiểm
nghèo nào đó
nên vội dọn mình để ra đi. Ngài lên
tiếng hỏi.
-
Chuyện gì xảy ra cho anh vậy?
Nhưng
anh ta trả lời:
-
Thưa cha, vì chiều nay Mẹ Têrêsa đã nói với con một lời đánh
động lòng con rất nhiều.
Vị
linh mục ngạc nhiên hỏi thêm:
- Mẹ nói lời gì, và nếu tôi
không lầm thì nhà thờ chật ních. Mẹ lại đâu có cơ hội để
gặp riêng
anh?
-
Vâng thưa cha, Mẹ không gặp riêng con, nhưng Mẹ đã nói
với mọi người, trong đó có con. Mẹ nói rằng: "Chúa ở với các con."
Nghe thế,
vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa:
- Ủa,
đã nhiều lần tôi cũng nói với anh như thế, nhưng sao hôm nay
anh lại bị thuyết
phục bởi lời nói ấy của Mẹ Têrêsa?
Anh thanh
niên chậm rãi giải thích:
-
Thưa cha, vì Mẹ đã nói câu đó từ thẳm
sâu của tâm hồn. Mẹ đã nói với con bằng tất cả con tim của
mình.
* * *
* *
Một câu
nói không phát ra từ một công thức có sẵn hay do một thói tục
xã giao thông thường thúc đẩy, nhưng khởi đi từ
chốn
thâm sâu của một tâm hồn yêu thương mới có khả năng thuyết
phục, hoán cải, và truyền đạt được ý nghĩa chân thực nhất của
danh hiệu Emmanuel-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Trong
một Thánh lễ, biết bao lần vị linh mục đọc lên cầu chúc: "Chúa
ở cùng anh chị em," nhưng thử hỏi có mấy lần lòng tôi bồi hồi xúc cảm vì sung sướng trước sự kiện
này? Rất nhiều lần tôi nghe, đáp, hát, đọc những lời kinh nguyện
có cùng một nội dung như thế, nhưng có mấy lần tôi cảm nhận
được Thiên Chúa hiện hữu thật sự trong cuộc đời của mình? Tôi
không có, phải chăng vì đã chưa đọc và nghe với tất cả tâm
hồn?
Nếu thấu
hiểu được thế nào là "Thiên
Chúa ở cùng chúng ta," chắc chắn sẽ không có một tác nhân gì có thể làm cho con người phải run sợ bất
an hay ưu sầu lo lắng.
Ngày xưa,
khi Môisen đang chạy trốn người Ai-cập, tránh né bàn tay ác
độc của Pharaô, Giavê đã hiện ra
và bảo ông trở
về đất Ai cập để giải thoát dân Israel. Trước một trách nhiệm
lớn lao cùng bao hiểm nguy cho tính mạng như thế, Môisen can
đảm lên đường, vì Thiên Chúa đã nói với ông: "Ta
sẽ ở với ngươi" (Xh 3:12).
Rồi khi
Giêrêmia được Giavê kêu gọi ra đi làm tiên tri cho các dân
tộc, ông đã tìm cách thoái thác: "Tôi
đâu có biết nói năng gì. Tôi chỉ ú ớ như một đứa trẻ con." Nhưng Chúa nói: "Đừng sợ, vì Ta ở cùng ngươi" (Gr 1:8). Với lời hứa ấy của Giavê, Giêrêmia lên đường.
Trong
Tân ước, khi Chúa Giêsu sai các môn đệ đi vào thế gian rao
giảng Tin mừng. Sứ
mạng chất đầy gian nan, không khác chi
như chiên con đi giữa sói rừng. Ấy thế mà sự bảo đảm lại chỉ
là một lời hứa: "Ta
sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28:20). Vậy rồi các ông ra đi.
Sẽ không
lời hứa nào bày tỏ trọn vẹn nỗi lòng yêu thương của một con
người cho bằng lời hứa "ở
cùng người yêu",
và sẽ không có nỗi lòng khát khao nào mãnh liệt cho bằng được "sống chung với người yêu". Một chàng thanh niên có thể hứa với người con gái: "Anh sẽ mua cho em một chiếc nhẫn kim cương làm quà Giáng sinh; anh sẽ cố học
thành tài để em không phải lam lũ sau này...", nhưng nếu không có lời hứa "ở cùng em" thì vô ích hết. Cao điểm hạnh phúc trong ngày thành hôn của hai người nam nữ
không phải nơi chiếc áo cưới lộng lẫy, cũng chẳng phải nơi
chiếc nhẫn cưới hay lời chúc tụng của thân hữu đôi bên, nhưng
là nơi giao ước tình yêu đã được thiết lập. Trong giao ước
đó họ hứa "ở cùng nhau suốt đời."
Một linh
mục đã nhận xét: "ở
cùng" chính là ngôn ngữ của
tình yêu, vì chỉ có yêu ai người ta mới nghĩ đến "ở cùng."
Vì yêu
nên mới có việc Thiên Chúa đến "ở
cùng" con người, mới có danh
hiệu Emmanuel, mới có cảnh Giavê mang kiếp lầm than để thông
chia nỗi đau của con người, và chưa hết, mới có danh hiệu Giêsu,
nghĩa là Giavê cứu thoát.
Vì yêu
thương con người nên Thiên Chúa muốn cứu thoát. Để cứu thoát,
Ngài đã đến ở cùng. Có lẽ
không nỗi đợi chờ hay một
thoả mãn nào đáng giá hơn hình ảnh của Chúa Hài đồng nằm
trong máng cỏ, hiện thân của tình yêu ở cùng.
* * *
* *
Danh hiệu
Emmanuel không chỉ gợi lên trong tôi ý thức về ân phúc tình
yêu Thiên Chúa dành cho con người, về những
lời cầu
chúc được lập đi lập lại trong các Thánh lễ đang cần
được nói và nghe với tất cả tâm hồn, nhưng còn là lời mời gọi
bạn và
tôi hãy ở cùng tha nhân, hãy xích lại gần nhau và sống
thân ái hơn trong tình người.
Như Thiên
Chúa đã phá đổ bức tường ngăn cách, dù đó là sự ngăn cách vô
biên--giữa Tạo
hoá và loài thụ
tạo, giữa trời cao với đất thấp, giữa vô hình và hữu hình--chúng
ta cũng được mời gọi hãy phá đổ những ngăn cách giữa con người
với con người, để việc tôi "ở cùng" tha nhân trong an hoà sẽ là một phản chiếu rõ nét khuôn mặt của Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
LM.
Bùi Quang Tuấn, CSsR.
Nhóm tác giả - Việtnam